Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Lục tổ Huệ Năng

12/03/201102:44(Xem: 4860)
6. Lục tổ Huệ Năng

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

V. Chư Tổ sư Đông độ

6.

LỤC TỔ HUỆ NĂNG

六祖惠能

Đại sư Huệ Năng sanh ngày 8 tháng hai năm Mậu Tuất, là năm Trinh Quán thứ 12 đời Đường Thái tông, tức năm 638 Dương lịch. Cha họ Lư, mẹ họ Lý. Cha của ngài quê quán tại huyện Phạm Dương, ngày nay thuộc tỉnh Trực Lệ, làm quan bị giáng chức đày ra xứ Lãnh Nam, làm thường dân ở Tân Châu. Cha ngài mất sớm. Mẹ con bèn dời đến xứ Nam Hải, nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Nhà nghèo, ngài phải đi đốn củi bán mà nuôi mẹ.

Đến năm hai mươi bốn tuổi, tức là vào năm 661 Dương lịch, ngài Huệ Năng tới chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, tỉnh Kỳ Châu mà tham kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và được truyền y bát.

Khi Huệ Năng vừa đến chùa, Ngũ Tổ hỏi rằng: “Nhà ngươi là người phương nào? Muốn cầu việc chi?”

Huệ Năng bạch rằng: “Đệ tử là thường dân ở Tân Châu, xứ Lãnh Nam, từ xa xôi đến đây lễ bái, chỉ cầu làm Phật, chớ chẳng cầu việc chi khác.”

Tổ nói: “Ngươi là người xứ Lãnh Nam, là giống mường mán, mọi rợ, làm sao làm được Phật?”

Huệ Năng bạch rằng: “Người ta có Nam Bắc, Phật tánh chẳng có Bắc Nam. Thân mường mán này với thân Hòa thượng tuy chẳng đồng, nhưng Phật tánh có chi là khác biệt.”

Tổ nghe biết là bậc pháp khí, nhưng chỉ thầm lưu tâm mà không nói cho ai biết, vì sợ có sự ghen tỵ trong đồ chúng.

Tám tháng sau, Ngũ Tổ khiến các môn đồ mỗi người làm một bài kệ nói chỗ sở kiến của mình, trình lên ngài để ngài xét ai có tài đức mà truyền y bát. Chẳng có ai dám làm kệ, vì nghĩ rằng chỉ có Thượng Tọa Thần Tú, lúc ấy đang làm Giáo thọ, là xứng đáng với ngôi Tổ mà thôi.

Thần Tú biết không có ai trình kệ, buộc lòng mới làm bài kệ rằng:



Thân thị Bồ-đề thụ,

Tâm như minh kính dài,

Thời thời cần phất thức,

Vật sử nhạ trần ai.

身是菩提樹,

心如明鏡臺。

時時勤拂拭,

勿使惹塵埃。

Dịch nghĩa



Thân là cây Bồ-đề,

Tâm như đài gương sáng.

Thường siêng lau siêng rửa,

Chớ để bám bụi nhơ.



Tổ xem kệ, biết là chưa thấy tánh, chỉ đến ngoài cửa chưa bước được vào trong.

Huệ Năng tuy không biết chữ, nhưng nghe đọc kệ ấy, liền mượn người khác viết thay mình, làm một bài kệ rằng:



Bồ đề bổn vô thụ,

Minh kính diệc phi đài,

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ nhạ trần ai?

菩提本無樹,

明鏡亦非臺。

本來無一物,

何處惹塵埃。

Dịch nghĩa

Bồ-đề vốn chẳng phải cây,

Gương sáng cũng chẳng phải đài.

Xưa nay vốn không một vật,

Chỗ nào bám được bụi nhơ ?



Tổ nhận biết Huệ Năng đã ngộ được đạo ý, liền truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu. Đó là vào năm 661 Dương lịch.

Mười sáu năm sau, Huệ năng hội kiến với Ấn Tông Pháp sư và được truyền giới cụ túc. Qua năm sau, ngài đến trụ trì tại chùa Bảo Lâm. Tại chùa ấy, ngài tuyên dương pháp giáo, đồ chúng theo về số đông vô kể. Đệ tử đắc pháp của ngài cũng nhiều hơn các vị Tổ sư trước đây, về sau chia ra khắp các phương mà xiển dương giáo pháp Đại thừa.



Tổ Huệ năng giỏi biện luận, phá chấp cho người, làm cho họ liễu ngộ lẽ chân không, lẽ trung đạo. Những bài giảng của ngài, sau được môn đệ ghi chép lại thành quyển kinh “Pháp Bảo Đàn”.

Cuối đời, Tổ sư trở về xứ Tân Châu, trụ tại chùa Quốc Ân và tịch năm 713 Dương lịch, thọ 76 tuổi.

Sau khi ngài tịch, đến đời vua Hiếu Tông nhà Đường, triều đình thụy phong cho ngài là Đại Giám Thiền sư, tòa tháp của Tổ là Nguyên Hòa Linh Chiếu Tháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2013(Xem: 5405)
Nhiều năm về trước, tôi đã không đồng tình về nhiều dịch bản cũng như bình giải về bài kệ thơ “Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô...” trước khi thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh. Dường như chưa có dịch giả nào đào xới cái vỉa quặng giáo pháp ẩn giấu kín đáo dưới 28 con chữ cô đọng của bài thất ngôn tứ tuyệt ấy. Tôi chờ đợi. Và cứ chờ đợi mãi xem thử có ai giải mã nó không. Hằng năm. Hằng chục năm như thế. Vẫn tăm bóng. Nghĩ mình vốn liếng chữ Hán bỏm bẻm không có bao nhiêu,
21/06/2013(Xem: 6514)
Ở Việt Nam, người viết về triết gia Friedrich Nietzsche nhiều nhất là Phạm Công Thiện. Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát. Nhưng người nghiên cứu nghiêm chỉnh là Linh Mục Lê Tôn Nghiêm. Thái độ nghiêm chỉnh này đưa đến chuyện mất niềm tin vào một Thượng Đế giả định của lý trí. Lê Tôn Nghiêm có một phản ứng can đảm là trả áo vì không còn niềm tin của một người chăn chiên.
17/06/2013(Xem: 8026)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
10/06/2013(Xem: 6147)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
29/05/2013(Xem: 4288)
Thế nào là Tánh Không? Khi nói tới Tánh Không, chúng ta phải nhớ Tánh Không Duyên Khởi, khi nói tới Chân Không chúng ta phải nhớ Chân Không Diệu Hữu. Hai từ này nên nhận cho thật kỹ. Tánh Không là thể tánh của tất cả các pháp. Thể tánh của tất cả các pháp là không, do duyên hợp nên sanh ra muôn pháp. Vì vậy nói Tánh Không duyên khởi.
25/05/2013(Xem: 5039)
Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới.
16/05/2013(Xem: 16109)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
09/05/2013(Xem: 8962)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
05/05/2013(Xem: 9955)
Bộ là sự tập hợp các kinh luận dài ngắn, có nội dung quy về một chủ đề.Đó là các bộ: Bộ Bản duyên(tạng kinh), Bộ Thích kinh luận, Bộ A-tỳ-đàm(Tạng luận). BộBản duyênlà tập hợp các kinh dài, ngắn, vừa, có chung chủ đề là viết về lịch sử Đức Phật, tiền thân Phật, Bồ-tát, Pháp cú v.v… Bộ Thích kinh luận là tập hợp các luận dài ngắn,… có chung chủ đề là giải thích, luận giảng về kinh (tác giả là chư vị Bồ-tát, Luận sư của Phật giáo Ấn Độ, tác phẩm đã được Hán dịch. Nếu các tác phẩm giải thích, luận giảng về kinh luận do các Đại sư, học giả của Phật giáo Trung Hoa viết thì được tập hợp ở phần sớ giải). Bộ A-tỳ-đàmthì tập hợp các luận dài ngắn vừa thuộc mảng A-tỳ-đàm của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ, phần lớn do Pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán ngữ (dịch lại hoặc dịch mới). Như các luận A-tỳ-đạt-ma lục túc, luận A-tỳ-đạt-ma phát trí, luận A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa, luận A-tỳ-đạt-ma câu-xá…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]