Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV. Kệ truyền của chư Phật

12/03/201102:44(Xem: 4938)
IV. Kệ truyền của chư Phật

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

IV. Kệ truyền của chư Phật

1. ĐỨC PHẬT TỲ-BÀ-THI

(Đức Thế-tôn thứ 998 về Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp)


Thân tùng vô tướng trung thụ sanh,

Du như huyễn do chư hình tượng.

Huyễn nhân tâm thức bổn lai vô,

Tội phúc giai không vô sở trụ.

身 從 無 相 中 受 生

猶 如 幻 由 諸 形 象

幻 人 心 識 本 來 無

罪 福 皆 空 無所 住 。

Dịch nghĩa

Thân thọ sanh từ nơi không tướng,

Như giấc mơ do tượng hình ra.

Người mơ tâm thức đâu mà?

Trụ đâu tội phước đều là thành không.


Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ tám muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu Bà-đề. Ngài ở thành Bàn-đầu Bà-đề, ngồi dưới cây Ba-ba-la, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 348.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Khiên-trà, phép thứ hai tên là Đề-xá. Thị giả là ngài Vô-ưu-tử Phương Ưng.

2. ĐỨC PHẬT THI-KHÍ

(Đức Thế-tôn thứ 999 về Trang Nghiêm Kiếp)


Khởi chư thiện pháp bổn thị huyễn;

Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn.

Thân như tụ mạt, tâm như phong,

Huyễn xuất vô căn vô thật tánh.

起 諸 善 法 本 是 幻

造 諸 悪 業 亦 是 幻

身 如 聚 沫 心 如 凨

幻 出 無 根 無 實 性。

Dịch nghĩa

Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn;

Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra.

Mình bọt đậu, lòng gió qua,

Không căn, không thật, tánh là huyễn thôi!


Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu. Ngài ở thành Quang Tướng, ngồi dưới cây Phân-đà-lỵ, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 250.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là A-tỳ-phù, phép thứ nhì tên là Bà-bà. Thị giả là ngài Nhẫn-hạnh-tử Vô Lượng.

3. ĐỨC PHẬT TỲ-XÁ-PHÙ

(Đức Thế-tôn thứ 1.000 về Trang Nghiêm Kiếp)


Giả tá tứ đại dĩ vi thân,

Tâm bổn vô sanh, nhân cảnh hữu.

Tiền cảnh nhược vô, tâm diệc vô,

Tội, phước như huyễn, khởi diệc diệt.

假 佐 四 大 以 為 身

心 本 無 生 因 境 有

前 境 若 無 心 亦 無

罪 福 如 幻 起 亦 滅。



Dịch nghĩa

Bốn vật lớn mượn làm thân đó,

Tâm không sanh, nhân cảnh mà sanh.

Cảnh không, tâm cũng không thành,

Đôi đàng tội phước như hình huyễn thôi!


Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Thiện Đăng; mẹ là Xương Giới. Ngài ở thành Vô Dụ, ngồi dưới cây Bà-la, thuyết Pháp hai hội, độ cho người ta được 113.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Phù-du, phép thứ nhì tên là Uất-đa-ma. Thị giả là ngài Tịch-diệt-tử Diệu Giác.

4. ĐỨC PHẬT CÂU-LƯU-TÔN

(Đức Thế-tôn thứ nhất về Hiện tại Hiền Kiếp)


Kiến thân vô thật thị Phật thân.

Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn,

Liễu đắc thân, tâm bổn tánh không.

Tư nhân dữ Phật hà thù biệt?

見 身 無 實 是 佛 身

了 心 如 幻 是 佛 幻

了 得 身 心 本 性 空

斯 人 與 佛 何 殊 別。



Dịch nghĩa

Thân không thật, thấy là thân Phật;

Rõ được tâm không, Phật cũng không.

Thân, tâm, tánh ấy vốn không,

Người ta với Phật cũng đồng như nhau.


Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bốn muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên là Lễ Đắc, mẹ là Thiện Chi. Ngài ở thành An Hòa, ngồi dưới cây Thi-lỵ-sa, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 40.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Tát-ni, phép thứ hai tên là Tỳ-lâu. Thị giả là ngài Thiện-giác-tử Thượng Thắng.

5. ĐỨC PHẬT CÂU-NA-HÀM MÂU-NI

(Đức Thế-tôn thứ 2 về Hiền Kiếp)

Phật bất kiến thân, tri thị Phật,

Nhược thật hữu tri, biệt vô Phật.

Trí giả năng tri tội tánh không,

Thản nhiên bất bố ư sanh tử.

佛 不 見 身 知 是 佛

若 實 有 知 別 無 佛

智 者 能 知 罪 性 空

坦 然 不 怖 於 生 死。


Dịch nghĩa

Thân chẳng thấy, biết là thân Phật,

Nếu biết rồi, thì Phật là không.

Người khôn biết tội tánh không,

Thản nhiên chẳng sợ trong vòng tử sanh.


Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ ba muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng. Ngài ở thành Thanh Tịnh, ngồi dưới cây Ô-tàm Bà-la-môn, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 30.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Thư-hàm-na, phép thứ nhì là Uất-đa-lâu. Thị giả là ngài An-hòa-tử Đạo Sư.

6. ĐỨC PHẬT CA-DIẾP

(Đức Thế-tôn thứ 3 về Hiền Kiếp)


Nhất thiết chúng sanh tánh thanh tịnh,

Tòng bổn vô sanh, vô khả diệt.

Tức thử thân, tâm thị huyễn sanh,

Huyễn hóa chi trung vô tội, phước.

一 切 衆 生 性 清 淨

從 本 來 生 無 可 滅

即 此 身 心 是 幻 生

幻 化 之 中 無 罪 褔。


Dịch nghĩa

Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết,

Do không sanh, không diệt mà ra.

Thân, tâm là huyễn thôi mà,

Huyễn thì tội, phước hóa là đều không.


Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ hai muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ. Ngài ở thành Ba-la-nại, ngồi dưới cây Ni-câu-luật, thuyết Pháp một hội, độ được người ta 20.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Đề-xá, phép thứ nhì là Bà-la-bà. Thị giả ngài là Thiện-hữu-tử Lập Quân.

7. ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI

(Đức Thế-tôn thứ 4 về Hiền Kiếp)


Pháp bổn pháp vô pháp,

Vô pháp, pháp diệc pháp.

Kim phó vô pháp thì,

Pháp pháp hà tằng pháp.

法 本 法 無 法

無 法 法 亦 法

今 付 無 法 時

法 法 何 曾 法。


Dịch nghĩa

Pháp là pháp, vốn xưa không pháp,

Không pháp mà cũng pháp đó đây.

Ta trao không pháp hôm nay,

Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào.



Ngài giáng sanh trong dòng nhà vua Sát-lỵ, phóng đại quang minh; dưới đất nảy lên hoa sen vàng. Ngài đi ngang bảy bước, đưa tay ra chỉ trời, chỉ đất, dùng tiếng Sư tử hống mà nói rằng: Trên trời, dưới đất, chỉ có một mình ta là tôn quý! Thuở đó, tức là ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Dần (trước dương lịch 563 năm) đời vua Chiêu Vương nhà Châu, ngài giáng sanh; 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành Phật. Chuyển Pháp Luân Tứ Diệu Đế, thuyết Diệu Pháp Tam Tạng, hành đạo 49 năm.

Sau Ngài phán với đệ tử là Ca-diếp rằng:

“Ta đem Pháp Nhãn, diệu tâm Niết-bàn phó cho nhà ngươi.”

Nói rồi Ngài thuyết bài kệ trên.





Ngài thuyết kệ xong rồi, ngồi ngay thẳng, lặng thinh nhập tịch ở dưới cây Sa-la. Các đệ tử liền lấy củi thơm thiêu hóa. Khi ấy cỗ quan tài vàng do chỗ ngồi khởi lên, cao thẳng bảy cây Sa-la, qua lại ở trong không, hóa ra lửa Tam muội, giây lát được 8 hộc 4 đấu xá-lỵ. Thuở đó, tức là năm Nhâm Thân đời vua Mục Vương nhà Chu. Phật trụ thế 83 năm, thị giả của Ngài là A-nan.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2013(Xem: 5345)
Nhiều năm về trước, tôi đã không đồng tình về nhiều dịch bản cũng như bình giải về bài kệ thơ “Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô...” trước khi thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh. Dường như chưa có dịch giả nào đào xới cái vỉa quặng giáo pháp ẩn giấu kín đáo dưới 28 con chữ cô đọng của bài thất ngôn tứ tuyệt ấy. Tôi chờ đợi. Và cứ chờ đợi mãi xem thử có ai giải mã nó không. Hằng năm. Hằng chục năm như thế. Vẫn tăm bóng. Nghĩ mình vốn liếng chữ Hán bỏm bẻm không có bao nhiêu,
21/06/2013(Xem: 6419)
Ở Việt Nam, người viết về triết gia Friedrich Nietzsche nhiều nhất là Phạm Công Thiện. Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát. Nhưng người nghiên cứu nghiêm chỉnh là Linh Mục Lê Tôn Nghiêm. Thái độ nghiêm chỉnh này đưa đến chuyện mất niềm tin vào một Thượng Đế giả định của lý trí. Lê Tôn Nghiêm có một phản ứng can đảm là trả áo vì không còn niềm tin của một người chăn chiên.
17/06/2013(Xem: 7925)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
10/06/2013(Xem: 6099)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
29/05/2013(Xem: 4266)
Thế nào là Tánh Không? Khi nói tới Tánh Không, chúng ta phải nhớ Tánh Không Duyên Khởi, khi nói tới Chân Không chúng ta phải nhớ Chân Không Diệu Hữu. Hai từ này nên nhận cho thật kỹ. Tánh Không là thể tánh của tất cả các pháp. Thể tánh của tất cả các pháp là không, do duyên hợp nên sanh ra muôn pháp. Vì vậy nói Tánh Không duyên khởi.
25/05/2013(Xem: 4980)
Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới.
16/05/2013(Xem: 15957)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
09/05/2013(Xem: 8905)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
05/05/2013(Xem: 9811)
Bộ là sự tập hợp các kinh luận dài ngắn, có nội dung quy về một chủ đề.Đó là các bộ: Bộ Bản duyên(tạng kinh), Bộ Thích kinh luận, Bộ A-tỳ-đàm(Tạng luận). BộBản duyênlà tập hợp các kinh dài, ngắn, vừa, có chung chủ đề là viết về lịch sử Đức Phật, tiền thân Phật, Bồ-tát, Pháp cú v.v… Bộ Thích kinh luận là tập hợp các luận dài ngắn,… có chung chủ đề là giải thích, luận giảng về kinh (tác giả là chư vị Bồ-tát, Luận sư của Phật giáo Ấn Độ, tác phẩm đã được Hán dịch. Nếu các tác phẩm giải thích, luận giảng về kinh luận do các Đại sư, học giả của Phật giáo Trung Hoa viết thì được tập hợp ở phần sớ giải). Bộ A-tỳ-đàmthì tập hợp các luận dài ngắn vừa thuộc mảng A-tỳ-đàm của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ, phần lớn do Pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán ngữ (dịch lại hoặc dịch mới). Như các luận A-tỳ-đạt-ma lục túc, luận A-tỳ-đạt-ma phát trí, luận A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa, luận A-tỳ-đạt-ma câu-xá…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]