Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

11/01/201115:39(Xem: 6211)
19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

VÀI NHẬN XÉT VỀ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO

Nghi lễ là một bộ phận sinh hoạtkhông thể thiếu được trong Phật giáo. Tuy nhiên, sinh hoạt đó gần như chiếm hếtthì giờ trong đời sống người xuất gia hiện nay! Nếu nghi lễ không được đặt đểtrong khuôn khổ chính đáng của Phật pháp, không được dùng với mục đích mượnhình thức để tuyên dương Phật pháp, dẫn kẻ sơ cơ vào đạo, dùng nghi lễ để điềuhòa tình cảm và lý trí, làm sao cho con người được nhịp nhàng tiến bộ như ngườixưa chế ra nó, thì nghi lễ sẽ thiếu năng lực đưa người vào chánh đạo, và có tácđộng xấu đến tâm lý, sẽ gây ngộ nhận đối với quần chúng. Nghi lễ khi đã khôngđi đúng quỹ đạo làm phương tiện phụng sự đạo pháp, chắc rằng người đời sẽ mãicho đạo Phật là mê tín, dị đoan, thoái hóa, ru ngủ quần chúng.

Nói như thế, nhưng Phật giáo có nênbỏ hẳn nghi lễ được không? Theo tôi, không thể được. Vì tất cả các tôn giáo,đoàn thể giữa thế gian này không ai là không dùng nghi lễ để phục vụ cho tínngưỡng của mình. Nếu Phật giáo bỏ phần đó tức là đã bỏ rơi một số người muốnquay về với Chánh pháp. Hơn nữa, đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, dùng bốnvạn tám ngàn pháp môn phương tiện để đưa người đến bờ giải thoát. Đức Phật,ngoài giảng dạy trực tiếp cho các Tỷ-kheo, Tỷ kheo-ni, các nam nữ cư sĩ, Ngàicòn lấy tâm truyền tâm cho Tôn giả Ca-diếp gọi là "Niêm hoa vi tiếu".Kinh luận Phật giáo Đại thừa thường hay nhắc câu chuyện: Một hôm, trong hộichúng đông đảo, đức Thế Tôn không nói gì khi Ngài ngồi trên Pháp toà, im lặngnhư Chánh Pháp. Thính chúng ai nấy cũng im lặng. Lúc ấy Thế Tôn nhẹ nhàng đưamột cành hoa lên trước đám đông, hội chúng không ai hiểu gì trước cử chỉ có ýnghĩa của đức Thế Tôn. Chỉ có Tôn giả Ca-diếp im lặng mỉm cười và Thế Tôn mỉmcười hoan hỷ. Câu chuyện lấy tâm truyền tâm chỉ có một nụ cười trực ngộ giảithoát là như vậy, cho nên trong Phật giáo, ngoài phần tâm truyền phải có phầncông truyền thì mới tùy cơ giáo hóa chúng sinh được. Trong phần công truyền,hình thức nghi lễ là một, và thực tế nó đã có một nhiệm vụ lớn lao, cảnh tỉnhđa số quần chúng mà căn cơ chỉ duyên cảm để tin Phật trước khi cần hiểu đểtheo.

Nghi lễ Phật giáo có công năng tốtđẹp như thế, vậy thì tư cách của người thi hành nó phải như thế nào để quầnchúng Phật tử và người đời khỏi hiểu lầm là Phật giáo lợi dụng hình thức nghilễ để buôn bán thánh thần? Theo tôi, nghi lễ ngày nay cần chú ý các mặt sauđây:

- Tư cách người thi hành lễ phảixứng đáng, để gây sự tôn kính và tin tưởng Tam Bảo trong lòng mọi người.

- Tránh mọi hình thức rườm rà, thiếutrang nghiêm trong khi hành lễ. Phải giữ điều cần yếu khi hành lễ là ThànhtâmKính Phật.

- Không xen lẫn những hình thức nghilễ của ngoại đạo vào Phật giáo, hoặc đem nghi lễ Phật giáo thi thố ở những nơità đạo. Nghĩa là phải nhận thức đại cương về các nghi lễ, trong đó thứ nào nêntránh và thứ nào nên theo. Thiết nghĩ, chúng ta nên chia ra các mục sau đâytrong nghi lễ Phật giáo.

1. Thờ tự

Thờ tự có nhiều ý nghĩa. Thờ vớitính cách tri ân như thờ cha mẹ, sư trưởng. Thờ với tính cách tôn kính như thờcác vị anh hùng hiền triết trong lịch sử. Đối với người xuất gia, khi làm lễthọ giới pháp của Phật chế, trước hết, họ phải làm lễ lạy tạ cha mẹ, từ đó vềsau trên danh nghĩa là một người "nhân thiên nhãn mục", không còn trởlại bái phục quân vương, phụ mẫu nữa. Tuy nhiên, người xuất gia cũng luôn luôntưởng niệm các vị ân nhân, nhất là ân cha mẹ và cầu nguyện hết thảy đều đượcsiêu sanh Lạc độ. Duy nhất, với tính cách vừa tri ân vừa tôn kính đối với bậcĐạo sư chỉ đường thoát khổ, người xuất gia nên thờ Tam Bảo mà thôi. Nhưng Tam Bảotheo quan niệm Bắc tông và Nam tông khác nhau. Theo quan niệm Nam tông thì chỉthấy Phật trong một đời. Khi ngài nhập diệt rồi thì Phật thân đã an trú trongcảnh Niết-bàn, nhưng họ tin vào Phật, họ tín ngưỡng, tôn thờ như Phật còn tạithế. Vậy nên, các nước theo Nam tông như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến điện,Tích Lan... họ thờ Phật là cốt để tri ân Đấng giáo chủ ban bố Chánh Pháp chochúng sinh đã qua đời, hơn là để mong cầu cảm ứng. Trái lại, theo quan niệm Bắctông, với pháp nhãn đạt quang, thấy Phật khắp cả mười phương, thông suốt tươngtục vô thỉ vô chung, ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai không gián đoạn tâm Phậttrong mỗi người thờ Phật như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật bản, Đại Hàn, Mông Cổ...Vì vậy, họ thờ Phật vừa để kỷ niệm, mà cũng vừa cầu sự cảm ứng gia hộ cho đệ tửtrên bước đường tu tập. Họ quan niệm: Phật thường trú thế gian, nên một khitượng Phật đã tôn thờ trên toà sen tức xem như Phật còn tại thế, Ngài luôn luônnhìn thấy hành động của đệ tử mà cảm ứng đạo tâm, hiển hiện Phật lực để an ủi,khuyên răn và gia trì hộ niệm.

Thế nhưng, ở Việt nam chúng ta ngàynay vấn đề thờ tự đã trở nên phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý để thờ TamBảo hoặc thờ Tam Thế Phật nhưng nơi lại thờ luôn Quan Thánh, Ngọc hoàng, Thánhmẫu, Thập điện như nhiều chùa thuộc khu vực miền Nam và miền Trung. Thờ luôn cảthánh mẫu thì nhiều nhất là các chùa miền Bắc. Đó là chưa nói thờ nhiều hìnhtượng khác không dính dáng gì đến đạo Phật. Thế gian, một số người cho rằng,bất cứ tượng nào, hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở nên linh thiêng, đưa vàochùa thờ được cả, thậm chí còn có cả ông địa nữa. Tệ hại hơn có người không thờtại chùa, lại bày vẽ a tòng những nơi thờ thiếu trang nghiêm, có vẻ tà mị yêuquái, mê tín dị đoan...

Đau lòng thay! Một ngôi chùa đáng lýđể làm nơi tập Chúng tu hành, hoằng dương Chánh pháp, lại biến thành một ngôichùa riêng độc quyền chiêm ngưỡng, hoặc lấy đó làm nơi cúng kiến để nuôi thân.Dầu có nơi khá hơn, trong chùa cũng thờ Phật, nhưng lại thiếu tấm lòng thànhkính, tôn trí những hình tượng Phật và Bồ-tát không có tướng hảo trang nghiêm,lại còn treo những ảnh tượng hình thù kỳ quái ở hai bên bàn thờ, cắm những tờbùa, câu chú trước điện Phật. Thật là một điều tội lỗi lớn, như trong kinh TạoTượng đã nói. Với những ngôi chùa như vậy, mục đích là chỉ biết cúng kiến, nàođâu phải vì vấn đề giải thoát sanh tử đại sự, tập Chúng tu học cầu mong giảithoát. Thảm thương thay! Một lối thờ cúng như vậy lại làm cho Đạo Phật suy yếubiết dường nào.

2. Cúng kính

Đã có thờ tất nhiên có cúng. Vì nhớân, trọng nghĩa mà cúng, vì linh khí kẻ mất người còn giao cảm nhau mà cúng.Nhưng với người xuất gia thì thường chỉ cúng Tam Bảo mà thôi. Ngoài ra, vì sựlợi tha và báo hiếu, người xuất gia có thể cúng vọng tiến linh, cúng thí thực,cô hồn, kỳ an, kỳ siêu. Tuy nhiên, trong những cách cúng nói trên, một số ngườiđã quá lạm dụng nghi lễ, biến nó trở nên phức tạp và cầu kỳ, khiến cho quầnchúng cảm thấy nhà Sư là ông thầy cúng nhiều hơn là một vị tu hành để truyền báChánh pháp. Dưới mắt Phật tử và quần chúng đối với các nhà Sư trên, hầu như mụcđích của nhà Sư là cúng, cho đến chí nguyện của nhà Sư cũng chỉ cúng mà thôi.

Trong thời trước, tôi thấy thế gianbiết cúng một chuyện thì nhà Sư biết cúng trăm chuyện, thế gian biết một vịthần thì nhà Sư biết đến trăm vị thần. Ngoài lối cúng kiến nói trên, nhà Sư cònthạo cúng đất, cúng sao, cúng nam thương, yểu tử, cúng giải đàn oan, sai phan,sai phướng, cúng ngũ hành, thổ địa, hạ khoán, sai muội, cúng thánh, cúng thần,cúng tiên nương, Tôn giả, bổn mạng, bà mẫu... Lại còn cúng tốt vườn, tốt đất,tốt nhà, tốt bếp, cúng đưa ông Táo về trời... Bởi vậy chốn Già-lam mất hẳn tínhcách trang nghiêm thanh tịnh, không thể tập Chúng tu hành, tuyên dương chánhgiáo. Ngược lại, chùa trở thành nơi tập trung mọi sự cúng kính vì lẽ này hay kếnọ. Thậm chí có nơi còn khuyên tín đồ thờ cúng, lạy lục quỷ thần hơn lạy Phật,mà quên đi rằng: Người Phật tử đã quy y Tam Bảo là phát nguyện: Quy y Phật,thề không quy y thiên thần quỷ vật.Nếu không tỉnh ngộ, chánh pháp vì vậycàng xa, tà pháp càng gây hoạ cho người. Thật xót thương thay!

3. Lễ phục

Theo Phật chế, ba pháp y là áo mặcduy nhất của Tăng đồ, và khi thọ giới, Tăng-già đã nguyện mặc y phấn ảo, một ytrong ba y để làm trang phục hoạt dung hàng ngày như thuyết pháp, hành lễ, thọtrai... Vì đó là y phước điền, y giải thoát, không gì hơn nữa, miễn là giới đứctinh nghiêm thì đó là sự trang sức, là lễ phục đẹp nhất để cúng dường Tam Bảovậy.

Nay vì quốc độ, và tùy theo phongtục khác nhau, Phật giáo Bắc tông đã cải hóa theo thế nghi, tạo thành một lốilễ phục rườm rà hơn trước. Khi đến Việt Nam, nó lại cải hóa thêm một lần nữa.

Một chuyện đau lòng mà vào thời tôiđã chứng kiến, đó là sự phục sức lai hóa đến mức khó chịu. Thế nhưng nó vẫn cứlà cái mẫu lai tạpcủa thời đại trong Phật giáo. Những nhiễu y viền kimtuyến, nhưng đôi giày Tàu gắn bông đỏ, được mang vào một cách trịnh trọng và tỏvẻ sang trọng hào nhoáng trong mỗi kỳ đại lễ. Trong những lễ này, dẫu ai tuhành cho mấy mà thiếu cái y kim tuyến, đôi giày Tàu thì cũng phải nhường chỗcho người có nó đứng làm chủ lễ. Lẽ tất nhiên, khi mang chiếc y đẹp thì nó bắtngười mang phải nhớ nó hơn nhớ Phật, chú trọng mình hơn trọng người khác. Vìvậy, buổi lễ thiếu hẳn tinh thần cao quí vốn có của nó. Nhớ lại lời di huấn củaPhật: Pháp dục diệt thời ca-sa biến vị ngũ sắc, thì hiện trạng y phụcnày thật đáng buồn! Tôi nghĩ, những lễ phục, nhạc điệu đơn thuần mà đứng đắn,điều hòa mà tôn nghiêm có lẽ giữ cho buổi lễ tăng phần trang trọng lợi lạc hơn.

4. Truyền giới

Lễ truyền giới cũng là lễ thườngxuyên và thiết yếu của Tăng-già như lễ truyền giới Tam qui, Ngũ giới, Bát quantrai giới, Cụ túc giới và Bồ-tát giới, nhưng cũng phải theo quy tắc đã chỉ dạytrong các bộ Đại học Hoằng giới, Yết-ma Chỉ nam, Thọ giới Nghi Quỷ hoặc trongLuật tạng; và người truyền cũng như người thọ phải thành tâm thành kính, biếttôn trọng giới thể mới được. Nếu không thì lễ thọ giới chỉ là một kiểu mẫu thờitrang, trong đó người truyền không biết truyền gì, còn người thọ không biết thọgì, thế mà vẫn truyền, vẫn thọ.

Khi sắp Niết-bàn, đức Phật đã ân cầndặn dò: "Giới Ta còn thì như Ta còn, giới Ta còn thì đạo ta còn". Nhưthế, truyền giới là lễ rất quan trọng định đoạt sự nghiệp còn mất của Phậtgiáo.

Tóm lại, theo tôi: Nghi lễ có côngdụng gần quần chúng, làm phương tiện tiên phong để truyền bá đạo Phật. Thếnhưng, một khi vai trò tiên phong đã không đi đúng pháp, không hướng người theochánh pháp thì chỉ dẫn người vào ma đạo mà thôi. Vậy để văn hồi địa vị cao cảcủa đạo Phật, tất cả Tăng giới phải chỉnh đốn hết thảy mọi mặt mà trong đó cócả nghi lễ. Về nghi lễ, phải chỉnh đốn như thờ tự đơn giản, sự cúng kính phảitrang nghiêm, gạt bỏ những lối thờ cúng thần đạo ra ngoài, lễ phục cũng như tưcách người thực hành nghi lễ, đều phải chỉnh đốn đúng Luật và trang nghiêm mớimong gây được thiện cảm và tín tâm trong lòng người muốn quay về với đạo.

Tôi hy vọng những điều nhận xét trênđây được chư Tăng, Ni đồng cảm và nếu thấy sai thì nên sửa chữa. Tôi cũng mongGiáo hội sẽ sớm đưa ra các nghi thức hành lễ chung cả Tăng tín đồ toàn quốc ápdụng, hầu đem lại lợi lạc cho Phật giáo vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2013(Xem: 17930)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
02/11/2013(Xem: 6365)
Trước đây, tôi bắt đầu cuộc thảo luận này bằng cách nói về phương thức mà các pháp tồn tại chỉ đơn thuần do tâm quy ước và tiếp tục giải thích rõ các pháp chỉ mang tính quy ước là không đủ để chúng tồn tại, bởi vì một vật nào đó chỉ đơn thuần bị quy ước thì không có nghĩa nó tồn tại. Tôi tiếp tục trình bày về ba phạm trù cần thiết đối với một pháp tồn tại: nền tảng hợp lý, không có tổn hại xuất phát từ tâm vững chải của người khác và không có tổn hại xuất phát từ trí tuệ nhận thức tánh không.
31/10/2013(Xem: 18446)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 39068)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 62454)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 29941)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 40972)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
06/10/2013(Xem: 9307)
Con người chỉ là một loài động vật. Nhưng lại là một loài động vật hơn hẳn tất cả các loài khác trên mặt đất này. Các loài thú thường thì có loài phải sống tập đoàn, có loài chỉ sống riêng lẻ, trừ những lúc cần gặp nhau để giao phối, rồi lại trở về cuộc sống riêng biệt. Loài người, trái lại, có thể sống quây quần bên nhau nhưng lại có những riêng tư --nhiều khi đó lại là những riêng tư không thể chia sẻ với ai được, sống để bụng chết mang theo:
18/09/2013(Xem: 14035)
Bản luận này ngoài các bài tựa ra còn có 26 chương. 25 chương đầu trình bày cụ thể triết lý căn bản giáo lý Phật giáo, giải thích hiện tượng vũ trụ nhân sinh quy về bản thể Chân như tuyệt đối. Chương thứ 26 trình bày vai trò của pháp tu Tịnh độ; và có phải đây là mục đích Luận chủ giúp người đọc trước hết nhận thức rõ ràng vấn đề và sau đó tìm về một pháp tu thích hợp? Mong những ai có dịp đọc trọn tác phẩm này có thể tìm được câu trả lời cho chính mình!
26/06/2013(Xem: 11796)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta ra khỏi đại dương của Luân hồi, cơ sở con người đó giúp ta biết lắng nghe, suy nghĩ và thiền định, cả ngày lẫn đêm không ngưng nghỉ, đấy là cách tu tập của những người Bồ-tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]