Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Cây nêu ngày Tết

11/01/201115:33(Xem: 5106)
13. Cây nêu ngày Tết

THỨC BIẾN

Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

CÂY NÊU NGÀY TẾT

Những năm trước đây, khi đang đảm trách Phật sụ tại tỉnh nhà, tôi thường xuyên xuống thăm viếng các đạo hữu. Nhưng ba năm lại đây, vìđảm trách Phật sự ở các phương xa, nên sự thăm viếng đó đã bớtđi nhiều. Hôm nay là một dịp nay mắn, tôi được viếng chung hết cácđạo hữu trong các Khuôn, các Gia đình Phật tử thuộc huyện Giáo hội Phú Vang.

Dù là xa cách, nhưng tôi luôn luôn để tâm hỏi thăm đến tinh hình tu học của các đạo hữu, và tôi tin tưởng rằng: Dù trong hoàn cảnh nào,đạo tâm của các đạo hữu, của các em Gia đình Phật tử, cũng như tất cả các Phật tử khác luôn luôn bền vững kiên cố, không vì một lẽ gì mà thay đổi. Bởi đạo tâm của quý đạo hữu không phải chúng chỉ một ngày hai ngày mà nó đã bắt nguồn từ bao thế kỷ, khi đạo Phật có mặt trênđất nước này.Đạo tâm của các Phật tử đãđược hun đúc, vun xới, bồi bổ từ bao thế hệ bởi các bậc tiền nhân, lúc đất nước chúng ta đang còn ở vào những giai đoạn chưa được văn minh, chưa được mở mang. Vì vậy, việc giữ đạo tâm cũng là một phần đem lại sự an lạc và giải thoát mà giáo lý của đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta, phần khác cũng để bảo vệ lòng tín ngưỡng của tiền nhân để lại. Khi giữ vững được đạo tâm cũng có nghĩa chúng ta giữ được lòng hiếu thảođối với các bậc tiền nhân của chúng ta. Giữ được đạo tâm đồng nghĩa với sự bảo vệ những cái đẹp của ông bà tổ tiên ta đã gây dựng cho xưa sở, chođất nước. Qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, đạo Phật đã góp phần góp sức một cách tích cực, gắn bó giữa đạo pháp và dân tộc làm một, mà trong lịch sử không có một giai đoạn nàođạo pháp lại tách rời dân tộc và dân tộc lại tách rời đạo pháp. Lịch sử đã nói lên điều đó và không ai có thể chối cãi được. Ngày hôm nay Phật tử chúng ta lại càng có bổn phận phải bảo trì sự nghiệpđạo pháp và dân tộc làm một,để không phụ ơn các bậc tiền nhân của chúng ta đã dày công xây dựng. Nếu các đạo hữu muốn tìm hiểu sâu hơn nữa, qua những câu chuyện mà sách sử còn ghi lại thì chúng ta càng thấy rõ, thuở sơ khai từ khi nhân dân ta chưađược an cư lạc nghiệp thìđức Phật đã có mặt,đạo Phật đã có mặt,để dìu dắt dân tộc chúng ta qua những bước tối tăm lúc ban sơ.

Sử thoại đã kể lại một câu chuyện như thế này: Dân tộc Việt Nam lúc sơ khai sống rất cực khổ, phải chui rúc torng hang trong lỗ, bao nhiêu ruộng đất lọt vào trong gia đình ma quỷ hết. Vì không có đất đai để canh tác nên dân tộc Việt Nam phải sống đời sống vất vả, cực khổ, kiếm ăn không đủ, đành phải đến xin với ma quỷ làm thuê vớiđiều kiện: Đến mùa gặt thìđem ngọn về cho nó mà gốc thì thuộc của mình. Dân chúng ráng sức làm với bao vất vả khó nhọc, nhưngđến mùa gặt bao nhiêu lúa (ngọn)đều thuộc về gia đình ma quỷ, dân mình còn lại bao gốc rạ, chẳng biết làm sao để nuôi sống! Vì đói khó, cực khổ nên dân tình lầm than, rên xiết động đến trời đất.

Lúc bấy giờ Bụt ở trên tòa sen, động lòng từ bi nên ngài hiện xuống và chỉ cho dân tộc Việt Nam rằng: "Các con, mùa này không trồng lúa nữa mà tất cả hãy trồng khoai". Nghe lời Ngài, mọi người đua nhau trồng khoai khắp nơi, khắp chốn. Đến mùa thu hoạch khoai, theo lời giao ước cũ, dân ta gánh ngọn về nhà cho ma quỷ còn gốc gánh về nhà mình. Ma quỷ bị mất mùa thất trận lấy làm buồn bực, nên nó càng tức tối thêm. Sau khi suy nghĩ, nó lại giao hẹn ngược lại: "Thôi, lần này ta lấy gốc, các người lấy ngọn". Dân chúng thưa Phật, khi đó Phật lại bảo: "Thế thì các con nên trở lại trồng lúa hết". Dân tộc Việt Nam lại trồng lúa tất cả. Mùa đó bao nhiêu ngọn gặt về nhà mình, còn gốc rạ thì giao cho ma quỷ. Ma quỷ lại mất thêm một mùa nữa. Lần thứ ba, nó tức quá và nói rằng: "Bây giờ các ngươi hãy gặt về giao cho ta cả ngọn lẩn gốc". Phật lại bảo dân tộc Việt Nam rằng: "Thôi, lần này các con hãy trồng bí đi. Ta cho các con một số giống hạt bí đây, các con hãyđem về mà trồng". Mọi người vâng lời Phật trồng bí hết. Tới mùa, dân chúng hái trái về nhà mình, còn gốc và ngọn bí thì đem về cho ma quỷ. Ma quỷ bị mất luôn ba mùa nên đâm ra túng thiếu.

Ngày trước gia đình ma quỷ sống sung sướng đầy đủ, đêm ngày phè phởn, chẵng nghĩ tới sự đau thương của dân chúng; thì ngược lại, ngày nay, nó phải bán ruộng, bánđất. Phật nghe được, tới muađất, mua ruộng, thì nó bằng lòng bán nhưng lại hỏi Phật mua bao nhiêu? Phật trả lời là không bao nhiêu hết, chỉ vừa chiếc áo cà-sa thôi. Phật trưng chiếc áo cà-sa cho nó xem, nó coi xong bằng lòng bán. Phật bảo dân chúng trồng một cây tre thật cao, và Phật hiện lên trên đọt tre đó trương chiếc áo cà-sa trước ánh mặt trời. Bóng chiếc áo cà-sa nhỏ xíu mà nó toả mênh mông quá nên nó chiếm hết đất của ma quỷ. Vìđã hứa với Phật, nóđành chịu. Và Phật nói: "Bao nhiêu ruộng đất ta đã mua. Các ngươi khôngđược xâm phạm tới". Ma quỷ vìđã hứa hẹn bánđất cho Phậtđám đất đã bánđó, nó phảiđể dành cho Phật và kéo nhauđi ra ngoài biên giới, ngoài góc biển, dưới chân đồi để ở. Không cònđất để ở, ruộng để làmăn, nên lần này nó dựđịnh dùng các bạo lựcđể chiếm lại. Đức Phật biết ma quỷđang âm mưu đưa người đi dò thám thực lực bên Phật để sau đó dùng bạo lực chiếm lại đất ruộng, nên Phật mới bảo dân chúng rằng: "Nếu ma quỷ đến dò hỏi thì các con phải nói cho ma quỷ biết rằng: - Bụt sợ oản, sợ chuối và sợ xôi nhé". Trong khi đó Phật biết ma quỷ sợ vôi, sợ roi dâu và sợ huyết chó. Ma quỷđã biết tình hình Bụt sợ oản, sợ chuối, sợ xôi cho nên nó sắm đủ ba thứ khí giới để chờ ngày xuất quân.

Xuất quân lần thức nhất, nó tập trung tất cả oảnđem ném vào Phật, ném tứ tung, nhưng ném bên đông Phật hiện ra bên tây, ném bên tây Phật hiện ra bên bắc, ném không trúng nên bao nhiêu oảnđều sạch hết. Phật bảo dân chúng lượm tất cả oản đó để làm lương thực và đem vôi rải ra. Thấy vôi, ma quỷ sợ khiếp vía nênđã bỏ chạy và thế là thất trận thứ nhất.

Trận thứ hai, nó nghĩ Phật rất sợ chuối. Lần này nóđem chuối ra ném. Nó ném tứ tung, Phật cũng hiện qua đông, hiện qua bắc. Ném không trúng nên bao nhiêu chuối dự trữ đều sạch hết. Phật bảo dân chúng lượm chuối ăn và đem roi dâu ra đánh. Maquỷ lại thất thêm một trận thứ hai

Trận thứ ba, nó nghĩ rằng: Phật rất sợ xôi. Lần này nó lạiđem xôi ra ném. Nhưng khi nó ném sạch hết xôi cũng chẳng hơn đức Phật, mà dân chúng thì ngày càng thịnh vượng. Sau khi đã thua nhiều trận, ma quỷ không còn mưu kế nào có thể thi hành, lúc bấy giờ mới lạy lục cúng bái, xin Phật mở lượng từ bi để nó cứ đến ngày tết được trở về thăm mồ mả ông bà tổ tiên.

Phật bảo: "Được, nhưng khi các ngươi về, hễ thấy chỗ nào dân ta có cắm nêu thì các ngươi khôngđược xâm phạm tới". Phật dạy tất cả dân chúng rằng: "Ngày 30 tết là này lễ lớn nhất, ông bà cha mẹ về thăm, trong ngày đó, hễ cắm nêu lên trong nhà là cốt làm ranh giới cho ma quỷ biếtđể nó không được xâm phạm vào".Đó là sự tích Cây Nêu mà nhân dân ta dùng từ trước tới nay mỗi dịp tết đến.

*

Kể câu chuyện như vậy, chúng ta có thể nói rằngđó là câu chuyện thần thoại, không chắc đã có thật trongđời sống thực tế, nhưng mà rất có thật về mặt tâm lý, về mặt luân thường đạo lý của nhân sinh và xã hội. Tại sao? Vì trong cổ tích Việt Nam chúng tađã có câu chuyệnđó, có lẽ ngay từ phút đầu,đất nước chúng ta khi khai quốc đã có mặt đức Phật, có mặtđạo Phật, vàđạo Phật đãđem lại sự lợi lạc cho dân chúng, giúpđỡ cho dân chúng trong khi khốn khó.Đạo Phật đã tạo lậpđược nơi nương tựa tinh thần trong khi dân chúng đang rối ren, khổ cực. Đạo Phật đã tạo lập một tinh thần tự lập tự cường cho dân chúng. Vì công ích đó mà dân chúng Việt Nam không quên đến Đức Phật. Dân chúng Việt Nam đã kể câu chuyện đó để nhớ ơn đức Phật, dẫu câu chuyện đó không có thật trên thực tế 100% nhưng trên ý nghĩa, trên tinh thần, nó vẫn là câu chuyện thật, còn thật hơn là giữa cácđạo hữu với chúng tôi gặp nhau ngày hôm nay. Vì câu chuyện nó thật như thế, nên câu chuyệnđó vẫn còn mãi mãi ở trong tâm tư của chúng ta, nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ đi ngược lại tinh thần đó.

Ngày xưa đức Phật đã giúp ích cho dân tộc như thế nào, giáo pháp của Ngài ban bốđã làm lợi lạc cho dân tộc như thế nào, giáo pháp của Ngài ban bố đã làm lợi lạc cho dân tộc như thế nào, thì ngày nay, hàng Phật tử chúng ta phải có bổn phận bồi bổ cho sự nghiệp đó, duy trì nó và chúng ta không có quyền phản bội lại tổ tiên, phản bộiĐạo giáo chúng ta. Nếu phản bội Đạo giáo tức là phản bội tổ tiên. Nếu phản bội tổ tiên là tựđày đoạ mình và tự đánh mất sự sống của chính mình.

Qua câu chuyện đó, Phật tử chúng ta rất hãnh diện và quyết tâm giữ vững đạo tâm của mình. Muốn giữ đạo tâm thì phải thức tỉnh, đề phòng, chế ngự bađộc tham, sân, si để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2013(Xem: 18353)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
02/11/2013(Xem: 6413)
Trước đây, tôi bắt đầu cuộc thảo luận này bằng cách nói về phương thức mà các pháp tồn tại chỉ đơn thuần do tâm quy ước và tiếp tục giải thích rõ các pháp chỉ mang tính quy ước là không đủ để chúng tồn tại, bởi vì một vật nào đó chỉ đơn thuần bị quy ước thì không có nghĩa nó tồn tại. Tôi tiếp tục trình bày về ba phạm trù cần thiết đối với một pháp tồn tại: nền tảng hợp lý, không có tổn hại xuất phát từ tâm vững chải của người khác và không có tổn hại xuất phát từ trí tuệ nhận thức tánh không.
31/10/2013(Xem: 18594)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 39998)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 63801)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 30567)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 41608)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
06/10/2013(Xem: 9371)
Con người chỉ là một loài động vật. Nhưng lại là một loài động vật hơn hẳn tất cả các loài khác trên mặt đất này. Các loài thú thường thì có loài phải sống tập đoàn, có loài chỉ sống riêng lẻ, trừ những lúc cần gặp nhau để giao phối, rồi lại trở về cuộc sống riêng biệt. Loài người, trái lại, có thể sống quây quần bên nhau nhưng lại có những riêng tư --nhiều khi đó lại là những riêng tư không thể chia sẻ với ai được, sống để bụng chết mang theo:
18/09/2013(Xem: 14181)
Bản luận này ngoài các bài tựa ra còn có 26 chương. 25 chương đầu trình bày cụ thể triết lý căn bản giáo lý Phật giáo, giải thích hiện tượng vũ trụ nhân sinh quy về bản thể Chân như tuyệt đối. Chương thứ 26 trình bày vai trò của pháp tu Tịnh độ; và có phải đây là mục đích Luận chủ giúp người đọc trước hết nhận thức rõ ràng vấn đề và sau đó tìm về một pháp tu thích hợp? Mong những ai có dịp đọc trọn tác phẩm này có thể tìm được câu trả lời cho chính mình!
26/06/2013(Xem: 12119)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta ra khỏi đại dương của Luân hồi, cơ sở con người đó giúp ta biết lắng nghe, suy nghĩ và thiền định, cả ngày lẫn đêm không ngưng nghỉ, đấy là cách tu tập của những người Bồ-tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]