Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

TRÍ HUỆ VÀ ĐẠI BI

26/02/201322:58(Xem: 4158)
TRÍ HUỆ VÀ ĐẠI BI
lotus_1
TRÍ HUỆ VÀ ĐẠI BI
Nguyễn Thế Đăng

Kinh Đại Bát Nhã nói Bồ-tát là người “Vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cứu độ những chúng sanh điên đảo chấp ngã” (Phẩm Đạo thọ thứ 71), “vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác” (Phẩm Nhất niệm thứ 76), “hành sáu ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại, mười tám pháp bất cọng, hành đại từ đại bi, hành nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh” (Phẩm Bồ-tát hạnh thứ 72).

Bồ-tát ngay từ khi mới phát tâm đã kết hợp hai công việc, hai con đường:

- Trí huệ Bát nhã thấu suốt tánh Không để tự giải thoát, giác ngộ.

- Đại bi cứu độ chúng sanh.

Nếu không nghe, suy nghĩ, thực hành Bát-nhã ba-la-mật, chúng ta dễ thấy rằng đây là hai công việc, hai con đường trái nghịch nhau. Làm sao có thể kết hợp tánh Không với việc độ chúng sanh, hết đời này qua đời khác?

Trước hết, thực hành trí huệ Bát-nhã là:

“Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát có thể học rằng các pháp không có tự tánh, cũng có thể nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh. Biết quốc độ và chúng sanh không có tự tánh, đó là sức phương tiện của Bát-nhã” (Phẩm Đạo thọ thứ 71).

“Này Tu-bồ-đề! Biết thật nghĩa của các pháp nên gọi là Phật. Chứng thật tướng của các pháp nên gọi là Phật. Thông suốt thật nghĩa của các pháp nên gọi là Phật. Biết như thật tất cả các pháp nên gọi là Phật.

Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-đề (giác ngộ) nghĩa là gì?

Này Tu-bồ-đề! Nghĩa Không là nghĩa Bồ-đề. Nghĩa Như, nghĩa pháp tánh, nghĩa thật tế, là nghĩa Bồ-đề… Thật nghĩa của Bồ-đề không thể hoại, không thể phân biệt, đó là nghĩa Bồ-đề. Lại nữa, thật tướng của các pháp chẳng hư dối, chẳng dị biệt, là nghĩa Bồ-đề” (Phẩm Bồ-tát hạnh thứ 72).

Trí huệ Bát-nhã là quán thấy các pháp vốn không có tự tánh. Không có tự tánh cho nên được gọi là tánh Không. Tánh Không này là “thật nghĩa của các pháp”, là “thật tướng của các pháp”. Bồ-đề là giác ngộ trọn vẹn nghĩa tánh Không này. Tánh Không ấy còn được gọi là Như, là pháp tánh, là thật tế, là giác-ngộ. Vị giác ngộ trọn vẹn tánh Không, hay Như, hay pháp tánh, hay thật tế, được gọi là bậc giác ngộ, bậc Phật.

Trí huệ soi thấy tánh Không này là nền tảng từ đó phát sanh mọi thực hành vị tha của Bồ-tát, mọi Bồ-tát hạnh: Sáu ba-la-mật, từ bi hỷ xả, bốn nhiếp pháp… cho đến “tôi phải dùng ba thừa độ thoát hết thảy chúng sanh, tôi sẽ thay cho tất cả chúng sanh mười phương mà chịu khổ đau” (Phẩm Kim Cương thứ 13).

Để biết sự kết hợp của trí huệ và đại bi như thế nào, chúng ta trích dẫn một đoạn kinh về Nhẫn nhục ba-la-mật.

“Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn, làm thế nào Bồ-tát ở trong các pháp vô tướng, vô tác, vô đắc mà có thể đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật?

- Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát từ khi mới phát tâm đến nay cho đến khi ngồi đạo tràng, trong thời gian ấy nếu có bị bất cứ chúng sanh nào đến đánh đập đâm chém, Bồ-tát này không khởi tâm giận dữ dù chỉ một niệm. Bồ-tát phải tu hai thứ nhẫn.

Một là không khởi tâm oán giận đối với bất cứ chúng sanh nào đến mắng chửi đánh đập đâm chém.

Hai là tất cả pháp không sanh.

Bồ-tát tu nhẫn như vậy, nếu có người đến mắng chửi, đánh đập, bèn suy nghĩ: ai mắng, ai chê, ai chửi, ai đánh đập? Ai là người nhận chịu? Bồ-tát phải suy nghĩ thật tánh của các pháp là rốt ráo Không, không có pháp, không có chúng sanh. Các pháp còn bất khả đắc huống gì chúng sanh. Lúc quán tưởng các pháp như vậy, Bồ-tát chẳng thấy có người mắng chửi, chẳng thấy có người đánh đập. Khi Bồ-tát quán tướng các pháp như vậy liền được vô sanh pháp nhẫn.

Sao gọi là vô sanh pháp nhẫn? Biết tướng các pháp thường không sanh, các phiền não từ xưa đến nay cũng thường không sanh. An trụ trong hai nhẫn ấy thì có thể đầy đủ bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn niệm xứ, ba môn giải thoát, mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cọng, đại từ đại bi…

Này Tu-bồ-đề! Ở trong pháp vô tướng, vô tác, vô đắc, đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật như vậy” (Phẩm Nhất niệm thứ 76).

Thực hành sáu ba-la-mật trong tánh Không như vậy, thì sáu ba-la-mật thành “Sáu ba-la-mật vô tướng”, nghĩa là giải thoát ngay khi hành (Phẩm Lục dụ thứ 77).

Bốn nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự là hoạt động do lòng bi của Bồ-tát cho chúng sanh. Bốn nhiếp pháp, như tất cả mọi hoạt động khác của Bồ-tát, được nối kết với trí huệ tánh Không. Ở đây chúng ta trích một đoạn về bố thí pháp:

“Đức Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, vì thế nên phải biết, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, vì chúng sanh mà thuyết pháp một cách thích hợp, đem chúng sanh ra khỏi điên đảo, khiến chúng sanh được vào chỗ nên an trụ, vì pháp thì không trói không mở. Vì sao thế? Vì sắc không trói không mở, thọ tưởng hành thức không trói không mở. Sắc không trói không mở thì chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức không trói không mở thì chẳng phải thọ tưởng hành thức. Vì sao thế? Vì sắc rốt ráo thanh tịnh, thọ tưởng hành thức cho đến hết thảy pháp, hoặc hữu vi hoặc vô vi, cũng đều rốt ráo thanh tịnh.

Như vậy, Bồ-tát vì chúng sanh thuyết pháp cũng không thủ đắc tướng chúng sanh và tất cả pháp, vì tất cả pháp bất khả đắc vậy. Bồ-tát không trụ nên trụ trong thật tướng của các pháp, đó là sắc Không cho đến hữu vi vô vi pháp Không.

Tại sao thế? Vì sắc cho đến hữu vi vô vi pháp, tự tánh bất khả đắc nên không có chỗ an trụ. Pháp vô sở hữu chẳng trụ pháp vô sở hữu. Tự tánh pháp không trụ trong tự tánh pháp, tha tánh pháp không trụ trong tha tánh pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều bất khả đắc. Pháp bất khả đắc thì an trụ chỗ nào?

Như vậy, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật do các pháp Không mà có thể thuyết pháp như vậy. Hành Bát-nhã ba-la-mật như thế, với chư Phật, chư Thanh văn, Độc giác Phật không có lỗi. Vì sao thế? Chư Phật, chư Bồ-tát, Độc giác Phật được pháp này rồi, vì chúng sanh thuyết pháp mà chẳng hề chuyển đổi thật tướng của các pháp. Vì Như, pháp tánh, thật tế không thể chuyển đổi. Tại sao thế? Vì các pháp không có tánh vậy” (Phẩm Tứ nhiếp pháp thứ 78).

Nhờ hành sáu ba-la-mật vô tướng, tất cả các Bồ-tát hạnh vô tướng mà Bồ-tát có thể “độ thoát hết chúng sanh mà không có dẫu chỉ một người được vào Niết-bàn”.

“Đức Phật nói: Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nên sanh tâm như vầy: Ở trong vô lượng đời sanh tử, tôi sẽ đại thệ trang nghiêm. Tôi sẽ xả bỏ mọi sở hữu, tôi phải ở trong tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh, tôi phải dùng ba thừa độ thoát tất cả chúng sanh, khiến tất cả họ vào Niết-bàn vô dư. Nhưng độ hết chúng sanh rồi mà không có dẫu chỉ một người vào Niết-bàn. Tôi phải hiểu rõ tướng bất sanh của tất cả các pháp, tôi phải thuần dùng tâm Nhất thiết chủng trí để thực hành sáu ba-la-mật, tôi phải học trí huệ thấu suốt tất cả pháp, tôi phải thông đạt trí huệ tất cả các pháp là Một tướng, tôi phải thông đạt đến trí huệ rõ suốt vô lượng tướng của các pháp.

Đây gọi là đại Bồ-tát phát sanh đại tâm không thể hư hoại như kim cương. An trụ trong đại tâm này, đại Bồ-tát là bậc thượng thủ trong quyết định chúng. Vì pháp dụng đây vô sở đắc vậy” (Phẩm Kim cương thứ 13).

Chính vì “pháp dụng vô tướng, vô sở đắc” cho nên lòng bi trở thành vô biên, mà người xưa nói là “đồng thể đại bi”.

Nếu không kết hợp với trí huệ tánh Không, lòng bi dễ thành “lòng bi ái kiến”, nói theo kinh Duy Ma Cật. Lòng bi ái kiến là lòng bi mà có nhiễm sự yêu thích ràng buộc vào sắc thọ tưởng hành thức của các đối tượng. Và khi đã có yêu thích thì phải có cái không yêu thích, cái chán ghét.

Phẩm Văn Thù thăm bệnhnói: “Nếu đối với chúng sanh mà khởi lên lòng bi ái kiến thì đối với sanh tử tái sanh có lòng chán mệt. Như Đức Phật có nói: Nếu tự mình bị trói buộc mà giải thoát cho sự trói buộc của người khác, chuyện ấy không thể có. Nếu tự mình không bị trói buộc mà giải thoát cho sự bị trói buộc của người khác, chuyện ấy có thể được”.

Một lần nữa, chúng ta trích một đoạn kinh nói về lòng bi độ hết chúng sanh nhưng lòng bi ấy kết hợp với trí huệ tánh Không, nên tuy làm công việc độ thoát chúng sanh nhưng vẫn thấy sắc thọ tưởng hành thức của mình và người đều là tánh Không:

“Ngài Tu-bồ-đề nói với các thiên tử: Chư đại Bồ-tát đối với các pháp bình đẳng, không thủ chứng bậc Thanh văn, Độc giác Phật thì vẫn chưa là khó. Chư đại Bồ-tát đại trang nghiêm với thệ nguyện rằng: Tôi sẽ độ vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Biết chúng sanh rốt ráo bất khả đắc mà độ chúng sanh, đây mới là khó.

Này các thiên tử! Đại Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề nguyện rằng: Tôi sẽ độ hết chúng sanh. Chúng sanh thật không thể có được mà vị ấy muốn độ chẳng khác nào muốn độ hư không. Tại sao thế? Vì hư không lìa tướng, phải biết chúng sanh cũng lìa tướng. Vì hư không là Không, phải biết chúng sanh cũng là Không. Vì hư không không kiên cố phải biết chúng sanh cũng không kiên cố. Vì hư không hư huyễn phải biết chúng sanh cũng hư huyễn. Vì thế nên biết việc Bồ-tát làm là khó. Vì lợi lạc cho chúng sanh bất khả đắc mà đại trang nghiêm. Vị ấy cam kết thệ nguyện vì chúng sanh tức là muốn tranh đấu cùng hư không. Bồ-tát này cam kết thệ nguyện rồi cũng không thấy có chúng sanh mà vẫn vì chúng sanh cam kết thệ nguyện.

Vì sao thế? Vì chúng sanh lìa tướng nên biết đại thệ nguyện cũng lìa tướng. Vì chúng sanh hư huyễn nên biết đại thệ nguyện cũng hư huyễn. Nếu đại Bồ-tát nghe pháp như vậy tâm không sợ, không nghi, nên biết đại Bồ-tát ấy tu Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao thế? Vì sắc lìa tướng tức chúng sanh lìa tướng, thọ tưởng hành thức lìa tướng tức chúng sanh lìa tướng. Sắc thọ tưởng hành thức lìa tướng tức là Sáu ba-la-mật lìa tướng. Cho đến Nhất thiết chủng trí lìa tướng tức là sáu ba-la-mật lìa tướng. Nếu nghe tất cả pháp lìa tướng như vậy mà tâm chẳng sợ, chẳng nghi, chẳng mê mờ, phải biết đó là đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật” (Phẩm Độ không thứ 65).

Đại bi là cái phân biệt hai con đường, con đường Thanh văn, Độc giác Phật và con đường Bồ-tát, mặc dầu cả hai đều thực hành Bát-nhã ba-la-mật thấu đạt tánh Không:

“Những thiện nam tử thiện nữ nhân muốn học bậc Thanh văn cũng phải nghe Bát-nhã ba-la-mật để thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, thực hành. Người muốn học Độc giác Phật cũng phải nghe Bát-nhã ba-la-mật để thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, thực hành. Người muốn học bậc Bồ-tát cũng phải nghe Bát-nhã ba-la-mật để thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, thực hành.

Tại sao vậy? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật nói rộng về ba thừa, nên Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác Phật đều phải học” (Phẩm Khuyến học thứ 8).

Sự khác biệt của Bồ-tát so với Thanh văn, Độc giác Phật là lòng đại bi, “cam kết thệ nguyện độ thoát vô lượng vô biên vô số chúng sanh”. Công việc ấy trải qua vô lượng vô biên vô số đời, như trong kinh Phổ Hiền hạnh nguyện, Bồ-tát Phổ Hiền nói: “Cho đến thế giới, hư không tận. Chúng sanh và nghiệp, phiền não tận. Trong tất cả vô tận thời gian. Nguyện này rốt ráo hằng vô tận”.

Bồ-tát thừa khác với Thanh văn thừa, Độc giác thừa ở chỗ vì đại bi đại nguyện, mặc dầu có thể nhập Niết-bàn ở đệ thất địa và đệ bát địa, Bồ-tát vẫn tiếp tục con đường vì chúng sanh cho đến khi thành Phật. Điều này chúng ta có thể tham khảo ở phẩm Thập địa kinh Hoa Nghiêm.

Với kinh Đại Bát Nhã, điều này được gọi là “học Không bất chứng”:

“Lúc an trụ trong pháp Không, đại Bồ-tát tự nghĩ nay là lúc tôi học chứ chẳng phải là lúc chứng”.

“Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát phải nghĩ rằng nay là lúc tôi học Bố thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật chứ chẳng phải là lúc chứng, là lúc tôi tu bốn niệm xứ chứ chẳng phải là lúc chứng, là lúc tu ba tam muội Không, Vô tướng, Vô tác chứ chẳng phải là lúc chứng, cho đến là lúc tôi học Nhất thiết chủng trí chứ chẳng phải là lúc chứng quả A-la-hán và Độc giác Phật…

Đại Bồ-tát nghĩ rằng tôi chẳng nên rời bỏ tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh chìm đắm trong cái hoàn toàn không có gì, mãi đi trong bóng tối của cái tôi và cái của tôi, tôi phải độ thoát họ. Bấy giờ Bồ-tát hành ba môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô tác mà chẳng chứng lấy thật tế (Niết-bàn). Vì chẳng chứng nên chẳng sa vào bậc Thanh văn và Độc giác Phật. Vì có sức phương tiện nên Bồ-tát này thường tăng ích pháp lành, căn trí thông lợi hơn căn trí của bậc A-la-hán, Độc Giác Phật” (Phẩm Học Không bất chứng thứ 60).

Đại bi chính là một cánh, cánh kia là trí huệ Bát-nhã, để Bồ-tát đủ hai cánh bay trong tánh Không mà chẳng chứng nhập tánh Không, chẳng rơi rớt xuống sanh tử mà cũng chẳng tan biến vào Niết-bàn. Nhờ đôi cánh đại bi và trí huệ, Bồ-tát làm việc khó làm: bay giữa sanh tử và Niết-bàn, giữa sự không lấy cũng không bỏ việc giải thoát cho chính mình và giải thoát cho chúng sanh:

“Này Tu-bồ-đề! Cũng vậy, đại Bồ-tát ở giữa tất cả chúng sanh với tâm từ bi hỷ xả tràn đầy cùng khắp. Khi ấy đại Bồ-tát an trụ trong bốn tâm vô lượng, đầy đủ sáu ba-la-mật, chẳng chứng lấy quả vô lậu, học Nhất thiết chủng trí, vào ba giải thoát môn Không, Vô tướng, Vô tác. Bấy giờ Bồ-tát chẳng duyên theo tất cả các tướng cũng chẳng chứng tam muội Vô tướng. Vì chẳng chứng tam muội Vô tướng nên chẳng sa vào các bậc Thanh văn và Độc giác Phật.

Này Tu-bồ-đề! Ví như chim có đủ hai cánh bay lượn trong hư không chẳng bị rơi rớt, dầu chim ở trong hư không mà cũng chẳng an trụ trong hư không (Phẩm Học Không bất chứng thứ 60).

(Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 169)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2014(Xem: 21013)
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát.
22/01/2014(Xem: 9043)
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín có từ “phát thú đạo tướng” , phân tách Tướng Đạo mà tất cả chư Phật chứng đắc, tất cả chư vị Bồ Tát phát tâm tu hành để mau chứng đắc quả vị Phật. Trên có từ “Phát Thú” nghĩa là phát tâm hướng về, cất bước ra đi hướng thẳng về một mục tiêu nhất định gọi là “Thú Hướng”. “Phát Thú Đạo Tướng” nghĩa là phân định các tướng sai khác của sự phát tâm hướng đến Đạo. Đạo tức là Bồ Đề, Niết Bàn mà chư Phật đã chứng đắc. Đó là Bản Giác, Nhất Tâm Chân Như, tự tướng của Nhất
19/01/2014(Xem: 8720)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
12/01/2014(Xem: 11757)
Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là „Buddhism: A Quest for Unity and Peace” (1993). Các tiểu tựa là của người dịch.
25/12/2013(Xem: 6932)
Toàn tri toàn giác không thể được phát sinh mà không có nguyên nhân, bởi vì đâu phải mọi thứ luôn luôn là tòan tri toàn giác đâu. Nếu mọi thứ được sinh ra mà không liên hệ đến điều gì khác, chúng có thể tồn tại mà không có sự câu thúc - sẽ không có lý do tại sao mọi thứ không thể là toàn tri toàn giác.
24/12/2013(Xem: 7913)
Phần khảo sát trong Phật Học Từ Điển (đã trích dẫn) viết về Chân Như như sau: “Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt. Cái Chân Như thì đầy đủ nơi Phật. Nó cũng vẫn có nơi chúng sinh. Những chử dưới đều đồng nghĩa, đồng thể với Chân Như: Tự tánh thanh tịnh, Phật tánh, Pháp Thân, Như Lai Tạng, thật tướng, pháp giới, pháp tánh, viên thành thật tánh, Pháp vị.” Trong Duy Thức Luận có viết về ba Chân Như như sau: 1/ Vô tướng Chân Như: Chân Như không tướng; là cái thể của các pháp khắp cả, không có tướng hư chấp. 2/ Vô sanh Chân Như: Chân Như không sanh; các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra chứ hẳn là không thật có sanh .
24/12/2013(Xem: 10152)
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì : “Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác (vốn tỉnh giác sẳn). Cái Bổn Gíac ấy do bề trong ung đúc và nhờ cái duyên ngoài thầy dạy, mới khởi ra cái lòng chán chuyện tham cứu thuận theo bổn giác lần lần sanh ra có trí giác ngộ kêu là Thủy Giác (sau mới tỉnh giác). Bổn Giác đó tức là bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) vốn thành sẵn vậy. Thủy Giác là bốn đức mới thành ra sau nầy vậy.”
20/12/2013(Xem: 37281)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
17/12/2013(Xem: 18068)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 8889)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]