Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư duy Hệ thống, Công nghệ, Đạo đức và Phật pháp

15/04/202305:47(Xem: 2710)
Tư duy Hệ thống, Công nghệ, Đạo đức và Phật pháp

phat giang phap-1

Tư duy
Hệ thống, Công nghệ, Đạo đức và Phật pháp

(Technology, Systems Thinking, Ethics, and the Dharma)

 

Chuyên mục khám phá những điểm tương đồng giữa kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật và các khía cạnh khác nhau của công nghệ đương đại là Nguyệt san thảo luận về lĩnh vực hệ thống – thường được gọi là Tư duy hệ thống ‘khía cạnh lý thuyết’ (cách nhìn tổng thể, có tính đa chiều và mục tiêu) và Kỹ thuật hệ thống ‘khía cạnh phát triển thực tế’ (kỹ thuật hệ thống là tận dụng các nguyên lý của tư duy hệ thống để tổ chức tổ hợp tri thức đó) – và một số khái niệm liên quan trong Phật pháp, nhấn mạnh sự liên quan của việc hội tụ này với tư duy đương đại, đặc biệt là liên quan đến Đạo đức trong khoa học và công nghệ.

 

Công nghệ được một số người xem là sản phẩm của phép tính và toán học. Từ các hệ thống cơ khí lớn đến cơ sở hạ tầng như tàu thủy, máy bay, cầu đường bộ, cũng như hệ thống phần mềm và phần cứng chỉ mới tồn tại trong thế kỷ trước đã cho thấy nhiều trường hợp công nghệ đang thay đổi thế giới xung quanh chúng ta theo hướng hoàn hảo hơn. Tuy nhiên, thật hữu ích khi chợt nhớ lại rằng, nhân loại có một lịch sử lâu đời, trong số đó phần lớn là bất thành văn và không có tài liệu. Lịch sử này được củng cố bởi việc sử dụng công nghệ dưới các hình thức khác nhau. Công nghệ đã tồn tại hàng nghìn năm và thuở sơ khai nó dựa trên sự sáng tạo và kỹ năng.

 

Hình 1: Đền Parthenon, biểu tượng văn hoá đỉnh cao của Hy Lạp, quần thể Acropolis của Athens là nổi tiếng nhất. Ảnh: thinkco.com

 

Theo cách nói cổ điển, từ thuật ngữ Hy Lạp technē (nghệ thuật, nghề thủ công) và logos (từ ngữ, lời nói), có nghĩa là “diễn ngôn về nghệ thuật” và lần đầu tiên xuất hiện bằng Anh ngữ vào thế kỷ 17. Ban đầu, nó chỉ được sử dụng với ý nghĩa là một cuộc thảo luận về nghệ thuật ứng dụng. Vào đầu thế kỷ 20, thuật ngữ này mới bắt đầu được sử dụng để chỉ các phương tiện, quy trình, ý tưởng, công cụ và máy móc. Đến giữa thế kỷ 20, công nghệ được định nghĩa bằng những cụm từ như: “Phương tiện hoặc hoạt động nhân loại dùng để biến đổi môi trường tự nhiên hoặc thao túng tâm lý”. (Bách khoa toàn thư Britannica)

 

Hiểu biết về công nghệ là rất quan trọng đối với thời đại của chúng ta, vì hầu hết các hoạt động xã hội và nhân loại ngày nay đều được “sử dụng phần mềm trung gian của công nghệ, để hỗ trợ phát triển ứng dụng và đơn giản hóa các quy trình thiết kế”, với các hệ thống công nghệ lớn hơn, ngày càng phức tạp, trở nên quan trọng và thậm chí chiếm ưu thế. Điều này đã đạt đến mức có nguy cơ bởi phần mềm trung gian của công nghệ, có thể ảnh hưởng đến tương lai của nhân loại, theo những cách nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. 

 

Lip video

 

Tôi Là Robot (2004) |

https://thuyetminhviet.com/movies/i-robot-2004/

 

 Rủi ro đang hiện hữu từ một số nguồn, bao gồm sự phát triển tác nhân gây mầm bệnh, trí tuệ nhân tạo tiên tiến và kỹ thuật địa lý. * Trong quá trình phát triển công nghệ, đặc biệt quan trọng là chúng ta tuân thủ đạo đức để giảm thiểu – ít nhất là một phần – có thể xảy ra một số rủi ro do việc áp dụng nó. Khi các công nghệ trở nên phức tạp và nhiều lớp hơn, chúng đòi hỏi phải hiểu và giải thích các lý thuyết tiên tiến hơn, chẳng hạn như các lý thuyết từ lĩnh vực hệ  thống.

 

Khi các hệ thống phát triển vượt ra ngoài một Domain (tên miền, địa chỉ trực tuyến cho website mà người dùng internet), ứng dụng duy nhất và điểm biên của chúng, bao trùm các lĩnh vực và nguyên tắc khác nhau, chúng sẽ trở thành hệ thống phức tạp. Ngày nay chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều này, nhờ sự xuất hiện của một ngành học tương đối mới lạ: khoa học phức hợp. Tôi đang giới thiệu ngắn gọn một khám phá sơ lược về một số tương ứng giữa Phật giáo Mật tông Kim cương thừa và khoa học kỹ thuật, trong một bài diễn thuyết tại Hội thảo Phật giáo Kim cương thừa đầu tiên, tại Trung tâm Nghiên cứu về Bhutan và Hạnh phúc Quốc gia (GNH) vào năm 2016. (Các slide từ bài diễn thuyết có sẵn tại đây

https://fr.scribd.com/document/433088705/Vajrayana-Innovation-and-Complex-Systems#

 

Ngoài ra, ngày càng có thêm nhiều tài liệu học thuật dành cho chủ đề này. ** Thật thú vị, một thuật ngữ tiếng Phạn cổ có thể là một trong những nguồn gốc hoặc cùng nguồn gốc của hệ thống thuật ngữ: संस्थानम् (saṃsthānam), nghĩa là: 1. Bộ sưu tập, cấu trúc dữ liệu (heap), số lượng; 2. Sự tập hợp của các hạt hạ nguyên tử; 3. Cấu hình, vị trí.

 

Anthony Stafford Beer (1926–2002) là một nhà lý luận, nhà tư vấn, nhà tâm lý học và giáo sư người Anh tại Trường Kinh doanh Manchester, nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu hoạt động và điều khiển trong quản trị học, đã phục vụ ở Ấn Độ trong thời kỳ cai trị của Anh. (hầu hết được trích  dẫn trong tài liệu kỹ thuật vì đã đóng góp các khái niệm về tính khả thi của hệ thống). Một cách riêng tư, Giáo sư Stafford Beer đã thừa nhận với các đồng nghiệp rằng, ông là một Phật tử đang ứng dụng thực tiễn Phật pháp trong cuộc sống. Nhiều học giả và nhà lãnh đạo Phật giáo uyên bác – bao gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma – coi Phật giáo là một khoa học tôn giáo, theo nghĩa cả khoa học phương Tây và Phật giáo đều hướng đến mục tiêu mang lại lợi ích cho nhân loại. Ban đầu cả hai đều xác định các tiêu đề đầu tiên của họ, bằng cách khuyến khích các sinh viên đưa ra các giả thuyết về thực tế và đưa ra các phương pháp có thể lặp lại để kiểm tra xem các giả thuyết và kinh nghiệm thực tế có khớp với nhau không.

 

Hiện tại đã chính thức thiết lập mối tương quan giữa Phật giáo và Hệ thống lý thuyết nói chung (GST), cho thấy rằng theo quy định của GST, tất cả các hệ thống đều tuân theo các quy luật tổ chức giống nhau.

 

Quan hệ nhân quả, thường được định nghĩa là mối tương quan giữa nguyên nhân và kết quả, bao gồm cách mọi thứ xảy ra, cách thay đổi diễn ra, cách các sự kiện liên quan. Chúng có cùng sự tương đồng với thuật ngữ Phật giáo và Phật pháp. Nó cũng đề cập đến toàn bộ giáo lý của Đức Phật. . . bởi những cách hiểu biết về cuộc sống và thừa nhận cuộc sống bắt nguồn từ các quan hệ nhân quả.

 

Như vậy, trong quan điểm hệ thống mở về quan hệ nhân quả có những điểm tương đồng với giáo lý nhân quả của đạo Phật. . . Quan điểm nhân quả của Phật giáo được các tác giả khác nhau, diễn dịch khác nhau (ví dụ: Bukkyo Dendo Kyokai 1966; Harvey 1990; Macy 1991; Dumoulin 1994) là “quan hệ tương quan và nhân quả” , “nhân duyên cộng sinh”, “đồng thể cộng sinh”, “duyên khởi cộng sinh”, “quan hệ nhân quả và câu điều kiện.” (Shen và Midgely 2000)

 

Đáng chú ý là sự tương đồng giữa lĩnh vực hệ thống và đạo Phật. Một lăng kính khả dĩ để quan sát những mối liên hệ như thế là bản chất của tâm: cuối cùng thì chúng ta luôn chỉ nhìn thẳng vào tâm mình, và ghi nhớ dòng suy tư của chính mình lên các đối tượng quan sát và chú ý. Như thế, cả quan điểm toàn diện về các hệ thống như một tổng thể phức tạp, và sự nhận thứ về tâm như được tìm thấy trong truyền thống đại thủ ấn đều phát sinh từ một đặt điểm tiến hóa trong nhận thức của nhân loại: khả năng quan sát thực tế trong sự phức tạp của nó bằng cách sử dụng toàn bộ khối óc và trái tim.

 

Điều này bổ sung thêm một cấp độ cho sự kết hợp giữa hệ thống và đạo Phật: như nhận thức, kỹ năng nhận thức, và thậm chí có thể là khoa học thần kinh – có thể hưởng lợi từ di sản rộng lớn và tinh tế của các công cụ và kỹ thuật có thể bắt nguồn từ Phật giáo – có thể hưởng lợi từ cuộc đối thoại ngày càng tăng giữa Phật tử và các nhà lý thuyết hệ thống.

 

Phần kết luận, ở đây tôi muốn trình bày tập trung vào chức năng so với rối loạn chức năng trong các hệ thống. Trước đây, trong một bài viết đăng trên báo, tôi đã lưu ý rằng kỹ thuật hệ thống, giống như các thực hành đạo Phật, dựa vào việc tuân thủ các quy trình và nguyên tắc để đảm bảo tính toàn vẹn của hệ thống và cuối cùng là chức năng chính xác của hệ thống. *** Tôi cũng đã bắt đầu viết về sự sai lệch của hệ thống. ****

 

Một ví dụ trong Phật giáo về sự sai lệch có hệ thống, thực sự có thể được tìm thấy việc lạm dụng trong các tổ chức của các cơ sở tự viện, gần đây như trường hợp được báo cáo bởi tạp chí Buddhistdoor Global, cuối cùng trong đó tổ chức tâm linh không trở thành một nơi từ bi và lòng trắc ẩn mà là sự trừng phạt và lạm dụng. ****

 

Sai lệch hệ thống diễn ra khi các quy trình một tổ chức hoặc giao dịch nhất định mất kết nối với ý định (trách nhiệm) của chúng và trở nên méo mó, thường là để phục vụ một mục đích trái ngược (rối loạn chức năng). Điều này xảy ra rất nhiều. Một phần nó gây ra bởi khả năng sai lầm cố hữu của con người và các hệ thống xã hội. Khi phát triển các công nghệ mới, chúng ta phải ghi nhớ xu hướng sai lầm này của con người và thiết kế phù hợp: hệ thống của nó thiếu tuân thủ các nguyên tắc, có khả năng dẫn đến rối loạn chức năng hệ thống.

 

Trên góc độ lý thuyết và đạo đức, các hệ thống Phật pháp có thể hỗ trợ tính chính trực và tuân thủ các nguyên tắc. Từ góc độ thực dụng, các thông lệ tốt về công nghệ và kỹ thuật có thể hỗ trợ sự gắn kết của hệ thống. Thống nhất hai chủ đề này có khả năng tăng cường sức mạnh cho cả  hai.

 

* Đổi mới: Quản lý rủi ro chứ không phải tránh né nó (Văn phòng Khoa học Chính phủ Vương quốc Anh)

 

** Win, David Tin, “Lý thuyết hỗn loạn và Nghiệp (Khoa học phức hợp)”. Tạp chí ABAC Tập 28, Số 3 (Tháng 9–Tháng 12 năm 2008, trang 71–80)

 

*** Chánh Tinh Tấn trong Thiết Kế Hệ Thống (Buddhistdoor Global)

 

**** Di Maio, Paola, 2016. “Sự sai lệch hệ thống, hay còn gọi là: Cái ác trong cỗ máy” (Học viện)

 

***** Tiếng Chuông Báo Động Về Tình Trạng Lạm Dụng Trẻ Em Tại Các Chùa Phật Giáo Thái Lan (Buddhistdoor Global)

 

Tác giả Paola Di Maio

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn 佛門網

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2018(Xem: 10502)
Sau bài giới thiệu “Đọc Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế của Thích Tín Nghĩa” phổ biến tới bạn đọc ngày 7/12/2017, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa lại gửi biếu tôi thêm hai cuốn sách : - Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập tái bản lần thứ nhất 2013. - Đạt Ma và Huyền Trang tái bản lần thứ ba 1998.
02/01/2018(Xem: 6684)
Phái đoàn chúng tôi đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu về đến đây, tức là chùa Châu Lâm, thôn Quảng Đức, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên để thăm viếng bà con và chia sẻ một số tịnh tài, phẩm vật đến với bà con khốn khó trong cơn bão lũ vừa qua tại tỉnh nhà chúng ta. Thưa quý vị! Phú Yên là quê hương yên bình, được che chở bởi trời đất, bởi hồn thiêng sông núi, bởi lịch đại Tổ sư Phật giáo. Quê hương của chúng ta có biển, có núi, có đầm, có sông và có bình nguyên, cho nên cũng từ đó, mà quê hương chúng ta đã phát sinh ra nhiều bậc anh tài cho đất nước, nhiều bậc cao Tăng cho Đạo Pháp một thời.
21/12/2017(Xem: 7668)
Hôm nay là ngày 9/10/Đinh Dậu, tức ngày 26/11/2017, tại chùa Quang Sơn, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, thay mặt chư Tôn Đức Tăng hiện tiền, cũng như chư Tôn Đức Tăng Ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, các Phật tử của Âu Châu hảo tâm, các nhà mạnh thường quân tại Âu Châu, phái đoàn chúng tôi xin gửi lời thăm hỏi chân tình nhất đến bà con hiện diện hôm nay.
15/12/2017(Xem: 77219)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121772)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15765)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
30/11/2017(Xem: 6218)
Định nghĩa. Vô Trước. Vô, nghĩa là không. Trước, nghĩa là dính mắc, bị dính vào, mắc vào, kẹt vào. Cụm từ Vô Trước, nói cho đủ: Không bị dính mắc, kẹt vào. Danh từ kép này, được chỉ cho những hành giả trong đạo phật trên đường tu tập, để tìm cầu cho mình cơn đường giải thoát là không để cái Tâm bị dính vào, mắc vào, kẹt vào sắc trần, nói như pháp môn thiền định “đối cảnh vô tâm. Như vậy, tâm con người thường bị dính trần hay sao, mà pháp thiền phải cảnh giác ? Đúng như vậy, tâm của kẻ phàm phu ưa dính, mắc vào, kẹt vào sắc trần vật chất, ưa trách móc, ưa chấp nê, ưa nghe lời khen ngợi
21/11/2017(Xem: 9420)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
19/11/2017(Xem: 5040)
Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo.Khiêm Tốn TrướcHư Không(Humble Before the Void ), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014
01/11/2017(Xem: 8914)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567