Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam

06/01/201815:50(Xem: 13590)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam


tieng Phan

Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn
trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam

 Lê Tự Hỷ


               Năm nay, kỷ niệm 20 năm thành lập Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế, chúng tôi xin chúc mừng sự phát triển tốt và những thành tựu to lớn của Viện trong việc đào tạo Tăng, Ni tài cho Phật giáo trong suốt 20 năm qua.
           Nhân đây, chúng tôi xin nêu lên vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong chương trình Cử nhân Phật học Học Viện Phật Học Việt Nam tại Huế nói riêng và tất cả các Học viện Phật giáo tại nước ta nói chung.

       1. Có cần thiết phải học chữ Phạn không?.
        Chúng ta đã biết kinh sách Phật giáo Đại thừa nguyên được viết bằng chữ Phạn tại Ấn Độ, rồi được dịch ra chữ Hán, chữ Tây Tạng. Rồi từ các bản Hán dịch này mới dịch ra chữ Việt. Tuy Hán tạng rất đầy đủ, nhưng việc dịch sách từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác vốn không luôn luôn tạo ra những ý nghĩa tuyệt đối giống nhau và hơn nữa bản dịch còn phụ thuộc người dịch. Riêng các bản Việt dịch lại là bản dịch của bản dịch, cho nên dễ xa bản gốc chữ Phạn hơn và có thể gây ra khó hiểu hay hiểu không chính xác  
       Vì vậy, trong những trường hợp gặp những chỗ khó hiểu, mơ hồ, mà muốn biết cho rõ ràng, chính xác thì không những phải truy về bản Hán mà cũng cần phải truy về bản Phạn mới hy vọng làm sáng tỏ được.    
      Xin nêu vài thí dụ đơn giản: Bản Tâm Kinh, do ngài Huyền Trang dịch từ Phạn ra Hán là bản được dùng phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Câu đầu theo Hán Việt có : “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa …” . Chữ “thâm” này đã được nhiều bậc thầy của chúng ta dịch ra Việt văn để cho Phật tử Việt Nam đọc tụng nhưng theo  hai ý nghĩa khác nhau. Một: “thâm” là trạng từ bổ nghĩa cho động từ “hành”; hai: “thâm” là tính từ bổ nghĩa cho danh từ Ba La Mật Đa.
     Đại diện theo nghĩa một là Thiền sư Nhất Hạnh, trong bài Vì sao dịch lại Tâm Kinh gần đây đã dịch thành : “Bồ-tát Avalokiteśvara, trong khi quán chiếu sâu sắc với tuệ giác qua bờ…1. Như vậy chữ “thâm” được thầy Nhất Hạnh dịch thành một trạng từ “sâu sắc” phụ nghĩa cho động từ “quán chiếu” . Qua bản tiếng Anh của thầy: “while practicing deeply with the Insight that Brings Us to the Other Shore” thẩy dịch chữ “thâm” thành “deeply” là một adverb (trạng từ) phụ nghĩa cho từ “practicing”2 .
     Đại diện theo nghĩa hai: Hòa thượng Thích Trí Thủ  dịch thành: Bồ tát Quán Tự Tại khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa…”3  và giảng rõ thêm là “thâm là sâu xa, nói rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là sâu xa, vi diệu không dễ gì thể nhập mà đòi hỏi một quá trình hạ thủ công phu hành trì”4. Như vậy thầy Trí Thủ dịch chữ “thâm” thành tính từ “sâu xa” bổ nghĩa cho danh từ Bát Nhã Ba La Mật Đa
     Vị nào dịch đúng hơn?  Hay đệ tử của ngài nào thì cho ngài ấy là đúng? Chúng ta có thể tìm hiểu vấn đề như sau.
     Nếu chỉ căn cứ vào câu Hán văn thì “thâm” trong “hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa” cũng đã thấy chữ “thâm” là tính từ đi trước danh từ Bát Nhã Ba La Mật Đa vì trong Hán văn, tính từ đi trước danh từ, trạng từ đi trước động từ. Nếu nó là trạng từ thì câu phải “thâm hành Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
     Bây giờ hãy tìm xem trong bản Phạn văn.  Chúng ta có thể xem ba bản Phạn văn:
    (i) Bản Tâm Kinh trong “The Ancient Palm-Leaves: Containing The Pragna-Paramita-Hridya-Sutra And The Ushnisha- Vigaya-Dharani” do F. Max Muller và Bunyiu Nanjio, xuất bản tại Oxford năm 1884, p. 48-50,
  (ii) Bản Tâm Kinh do Mithila Institute  tại Darbhṅga, Ấn Độ, xuất bản năm 1961
 (iii) Bản Tâm Kinh trong Thirty Years of Buddhist Studies, của Edward Conze, Munshiram Manoharlal, New Delhi, 2000 p. 148-153.
     Trong ba bản này đều có tính từ “gambhīra” hay “ gabhīra” nghĩa là “thâm sâu” được dùng ở giống cái, số ít, hoặc ở Trực bổ cách (Accusative) hoặc ở Vị trí cách (Locative) để bổ nghĩa cho “prajñāpāramitā” (Bát Nhã Ba La Mật Đa) là danh từ giống cái trong câu Phạn văn tương ứng hoặc ở Trực bổ cách (Accusative) hoặc ở Vị trí cách.
     Vậy từ các bản Phạn văn, chúng ta kết luận “thâm” là tính từ bổ nghĩa cho danh từ Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ không phải trạng từ bổ nghĩa cho động từ “hành”.
     Đó là về mặt ngữ nghĩa. Còn về mặt bản chất, đã là bậc Bồ tát, khi ngài thực hành thì mọi lúc mọi nơi đều như nhau chứ không thề nói ngài thực hành sâu hay thực hành cạn.
    Một thí dụ khác: Trong danh hiệu của 24 vị cổ Phật, có danh hiệu “Ba đầu Ma Thắng Như Lai”. Nếu chỉ dừng lại ở chữ Hán Việt “Ba Đầu Ma Thắng” thì không thể hiểu gì cả. Nhưng nếu truy về chữ Phạn, đó là Padmajita, thì chúng ta mới hiểu “Ba Đầu Ma” là phiên âm của “Padma“ do chữ Phạn Padma đọc là “Pa đơ-Ma”. Nghĩa của “Padma” là “Hoa sen”; còn “Thắng” là nghĩa của “jita”, quá khứ phân từ của động từ ji (I jayati) là chiến thắng. Như vậy danh hiệu “ Ba Đầu Ma Thắng” được tạo thành bởi hai phần: một phần phiên âm và một phần dịch!, và hàm nghĩa “Cái vượt thắng trên tất cả hoa sen”.

      Tóm lại có được một căn bản chữ Phạn là điều vô cùng cần thiết để am hiểu sâu nhiều vấn đề trong Phật giáo Đại thừa

2. Hiện tình việc dạy và học chữ Phạn tại các Học viện Phật Giáo Việt Nam.
     Chúng tôi chỉ có số liệu tại hai Học Viện:

    (i) Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế. Ngoài chữ Hán, Tăng, Ni sinh được phép chọn một trong hai môn: Sanskrit (Phạn) hay Pāli. Thời lượng học: Tổng cộng 120 tiết trong 4 năm học.
   (ii) Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh: Chữ Phạn không phải là môn bắt buộc mà là môn tự chọn, và thời lượng là 2 tiết mỗi tuần. Vì là môn khó học, khó lấy điểm cho nên với tinh thần “tự chọn”, các Tăng, Ni sinh hầu hết chọn môn học khác dễ lấy điểm cao, vì vậy trong nhiều năm, trong tổng số mấy trăm sinh viên được tuyển vào hàng năm thì chỉ có 4, 5 người “can đảm” chọn học chữ Phạn! và vì vậy nhiều năm không thể mở lớp chữ Phạn được, môn Phạn văn khi ấy xem như bị xóa sổ!.
    Hai học viện còn lại, chúng tôi không liên hệ được, nhưng qua hai Học viên uy tín nhất cũng cho chúng ta biết tình trạng dạy và học chữ Phạn như thế nào: Tốt nghiệp Đại học Phật giáo Việt Nam hầu hết trên 95% Tăng, Ni Việt Nam theo hệ Đại thừa không biết đọc một chữ Phạn. Một số rất ít có học chữ Phạn nhưng vì thời lượng học quá ít cho nên chưa đủ trình độ để đọc hiểu được kinh sách chữ Phạn, đặc biệt những kinh sách có văn nghị luận.

     Một số vị thầy quan niệm, chỉ cần biết chữ Hán và chữ Anh mà không cần biết chữ Phạn. Điều này, xin thưa chỉ đúng cho những người không đi vào nghiên cứu thâm sâu. Xin lưu ý là những nhà Phật học nổi tiếng trên thế giới viết sách Phật học tiếng Anh đều am hiểu sâu xa chữ Phạn mới tìm được những điều đáng cho họ viết. Nếu chỉ biết tiếng Anh thì giỏi lắm chỉ có thể “lặp lại” những điều mà các nhà nghiên cứu khác nói mà không thể tự kiểm chứng đúng hay sai. Trong Phật học, chữ Phạn là gốc, chữ Anh là ngọn, là lá. Danh từ Phật học bằng tiếng Anh chỉ hoặc là diễn dịch nghĩa từ Phạn ra tiếng Anh thông thường hoặc phiên âm chữ Phạn ra chữ Anh. Tiếng Anh thì học lúc nào và ở đâu cũng được. Nhưng chữ Phạn thì khó có cơ hội học mà trong thời gian 4 năm ở Viện Phật Học lại không học thì quả là quá đáng tiếc!

   Vì vậy xin đề nghị: Ngoài chữ Hán ra, Tăng , Ni sinh chia làm hai:
 (i) Vị nào theo Đại thừa phải học chữ Phạn như là một môn bắt buộc
(ii) Vị nào theo Nam tông phải học chữ Pāli như là một môn bắt buộc
  Thời lượng: ít nhất 3 tiết mỗi tuần, học 8 học kỳ trong 4 năm Đại học

   Trình độ: sau 4 năm, Tăng, Ni sinh phải đọc, hiểu được và dịch được (tất nhiên phải dùng Từ điển) từ Phạn ra Việt các tư liệu cơ bản như: Tâm kinh, Kinh A Di Đà, Kinh Kim Cang, Nyāypraveśa (Đường Vào Luận Lí, ngài Huyền Trang dịch thành Nhân Minh Nhập Chánh Lí Luận) của Saṅkarasvāmin; Madhyamakakārika của Nāgārjuna (Long Thọ), v.v… Đúng ra, các vị thầy đưa các tài liệu ấy cho Tăng, Ni sinh đọc, dịch như bài tập trong suốt 4 năm học hay luận văn tốt nghiệp.    
     Thật ra, nếu có điều kiện thì nên cho Tăng, Ni sinh học chữ Phạn từ Cao đẳng hay Trung cấp Phật học, để khi vào Đại học họ đã có một số căn bản rồi học tiếp 4 năm thì kết quả sẽ tốt hơn rất nhiều.

    Có bắt buộc học chữ Phạn như thế, các Cơ sở Phật học Việt Nam mới có thề đào tạo ra một số Tăng Ni Việt Nam thật sự có trình độ nghiên cứu sâu về Phật học, có thể vươn lên tầm thế giới.

                                                                                                  Lê Tự Hỷ



Tài liệu tham khảo:

1. Thích Nhất Hạnh, Bản Dịch Tâm Kinh Mới Theo Văn Trường Hàng,
https://thuvienhoasen.org/a21491/tam-kinh-tue-giac-qua-bo

2. Thích Nhất Hạnh, Bản Dịch Tâm Kinh Mới Bằng Tiếng Anh
  http://plumvillage.org/news/thich-nhat-hanh-new-heart-sutra-translation/ 

3. & 4. Tâm Như Trí Thủ, Tâm Kinh Bát Nã Ba La Mật Đa,
http://tuvienquangduc.com.au/kinhdien/kinhbatnha.html

   
   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/12/2017(Xem: 7587)
Hôm nay là ngày 9/10/Đinh Dậu, tức ngày 26/11/2017, tại chùa Quang Sơn, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, thay mặt chư Tôn Đức Tăng hiện tiền, cũng như chư Tôn Đức Tăng Ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, các Phật tử của Âu Châu hảo tâm, các nhà mạnh thường quân tại Âu Châu, phái đoàn chúng tôi xin gửi lời thăm hỏi chân tình nhất đến bà con hiện diện hôm nay.
15/12/2017(Xem: 76745)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 120937)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15616)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
30/11/2017(Xem: 6177)
Định nghĩa. Vô Trước. Vô, nghĩa là không. Trước, nghĩa là dính mắc, bị dính vào, mắc vào, kẹt vào. Cụm từ Vô Trước, nói cho đủ: Không bị dính mắc, kẹt vào. Danh từ kép này, được chỉ cho những hành giả trong đạo phật trên đường tu tập, để tìm cầu cho mình cơn đường giải thoát là không để cái Tâm bị dính vào, mắc vào, kẹt vào sắc trần, nói như pháp môn thiền định “đối cảnh vô tâm. Như vậy, tâm con người thường bị dính trần hay sao, mà pháp thiền phải cảnh giác ? Đúng như vậy, tâm của kẻ phàm phu ưa dính, mắc vào, kẹt vào sắc trần vật chất, ưa trách móc, ưa chấp nê, ưa nghe lời khen ngợi
21/11/2017(Xem: 9371)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
19/11/2017(Xem: 5004)
Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo.Khiêm Tốn TrướcHư Không(Humble Before the Void ), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014
01/11/2017(Xem: 8807)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21255)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
21/06/2017(Xem: 7225)
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567