Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 12: Tỉnh thức

18/07/201102:02(Xem: 3351)
Chương 12: Tỉnh thức

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XII
TỈNH THỨC

Hiểu rõ về chính chúng ta có nghĩa rằng hiểu rõ sự liên hệ của chúng ta với thế giới – không những với thế giới của những ý tưởng và những con người, nhưng còn với thiên nhiên, với những sự vật chúng ta sở hữu. Đó là sống của chúng ta – sống là liên hệ với tổng thể. Hiểu rõ về liên hệ đó có cần sự chuyên môn hóa hay không? Rõ ràng là không. Điều gì nó yêu cầu là trạng thái tỉnh thức để gặp gỡ sống như một tổng thể. Làm thế nào người ta tỉnh thức được? Đó là vấn đề của chúng ta. Làm thế nào người ta có được tỉnh thức đó – nếu tôi được phép dùng từ ngữ này mà không làm cho nó có nghĩa chuyên môn hóa? Làm thế nào người ta có thể gặp gỡ sống như một tổng thể? – mà có nghĩa không những sự liên hệ cá nhân với người hàng xóm của bạn nhưng cũng còn với thiên nhiên, với những sự vật mà bạn sở hữu, với những ý tưởng, và với những sự việc mà cái trí sáng chế như ảo tưởng, ham muốn và vân vân. Làm thế nào người ta có thể tỉnh thức được toàn qui trình của sự liên hệ này? Chắc chắn đó là sống của chúng ta, phải không? Không có sống nếu không có liên hệ; và muốn hiểu rõ liên hệ này không có nghĩa là cô lập. Trái lại, nó cần một tỉnh thức hay nhận biết trọn vẹn được toàn qui trình của liên hệ.

Làm thế nào người ta tỉnh thức được? Làm thế nào người ta nhận biết được bất kỳ sự việc nào? Làm thế nào bạn tỉnh thức được sự liên hệ của bạn với một con người? Làm thế nào bạn nhận biết được cây cối, tiếng hót của một con chim? Làm thế nào bạn tỉnh thức được những phản ứng của bạn khi bạn đọc một tờ báo? Làm thế nào bạn nhận biết được những phản ứng phía bên ngoài của cái trí, cũng như những phản ứng phía bên trong? Làm thế nào chúng ta tỉnh thức được bất kỳ sự việc nào? Trước hết chúng ta phải nhận biết – phải không – được một phản ứng đến một kích động, mà là một sự kiện hiển nhiên; tôi thấy những cái cây, và có một phản ứng, sau đó cảm giác, tiếp xúc, nhận dạng và ham muốn. Đó là qui trình thông thường, phải không? Chúng ta có thể quan sát thực sự điều gì xảy ra, mà không cần học hành bất kỳ quyển sách nào.

Vì vậy qua nhận dạng bạn có vui thú và đau khổ. Và ‘khả năng’ của chúng ta là quan tâm đến vui thú và lẩn tránh đau khổ này, phải không? Nếu bạn thích thú cái gì đó, nếu nó cho bạn vui thú, có ‘khả năng’ ngay tức khắc; có một nhận biết được sự kiện đó ngay tức khắc; và nếu nó là đau khổ, ‘khả năng’ được phát triển để lẩn tránh nó. Chừng nào chúng ta còn đang nương dựa ‘khả năng’ để hiểu rõ về chính chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thất bại; bởi vì hiểu rõ về chính chúng ta không lệ thuộc vào khả năng. Nó không là một phương pháp kỹ thuật mà bạn phát triển, vun quén và gia tăng qua thời gian, qua liên tục mài bén. Chắc chắn, tỉnh thức được chính mình này có thể được thử thách trong hành động của liên hệ; nó có thể được kiểm tra trong cách chúng ta nói chuyện, trong cách chúng ta cư xử. Hãy quan sát về chính bạn mà không có bất kỳ sự nhận dạng, không có bất kỳ so sánh, không có bất kỳ chỉ trích; chỉ nhìn ngắm, và bạn sẽ thấy một sự việc lạ thường đang xảy ra. Bạn không chỉ kết thúc một hoạt động không có ý thức – bởi vì hầu hết những hoạt động của chúng ta đều không có ý thức – bạn không chỉ kết thúc nó, nhưng, thâm sâu hơn nữa, bạn nhận biết được những động cơ của hành động đó, mà không tìm hiểu, không đào sâu vào nó.

Khi bạn tỉnh thức, bạn thấy toàn qui trình suy nghĩ và hành động của bạn; nhưng nó có thể xảy ra chỉ khi nào không có phê bình. Khi tôi phê bình điều gì đó, tôi không hiểu rõ nó, và đó là một cách lẩn tránh bất kỳ loại hiểu rõ nào. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều làm việc đó có mục đích; chúng ta phê bình ngay tức khắc và chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ. Nếu chúng ta không phê bình nhưng lưu tâm đến nó, tỉnh thức được nó, vậy thì nội dung, ý nghĩa của hành động đó bắt đầu mở toang ra. Thử nghiệm điều này và bạn sẽ thấy cho chính bạn. Chỉ tỉnh thức – không có bất kỳ ý thức của phê bình nào – mà dường như có lẽ khá tiêu cực nhưng không là tiêu cực. Trái lại, nó có chất lượng thụ động mà là hành động trực tiếp; và bạn sẽ khám phá điều này nếu bạn thử nghiệm nó.

Rốt cuộc, nếu bạn muốn hiểu rõ một điều gì đó, bạn phải ở trong một trạng thái thụ động, đúng chứ? Bạn không thể tiếp tục suy nghĩ về nó, phỏng đoán về nó hay tìm hiểu về nó. Bạn phải dư thừa nhạy cảm để thâu nhận nội dung của nó. Nó giống như một tấm kính chụp ảnh nhạy cảm. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải tỉnh thức thụ động; vậy thì bạn bắt đầu kể cho tôi tất cả câu chuyện của bạn. Chắc chắn, đó không là vấn đề của khả năng hay chuyên môn hóa. Trong tiến hành đó chúng ta bắt đầu hiểu rõ về chính chúng ta – không chỉ ở tầng hời hợt của ý thức chúng ta, nhưng sâu thẳm hơn, mà còn quan trọng hơn nhiều; bởi vì ở đó là tất cả những động cơ hay ý định của chúng ta, những đòi hỏi, những lo âu, những sợ hãi, những tham lam rối loạn, giấu giếm của chúng ta. Phía bên ngoài chúng ta có lẽ kiểm soát chúng nhưng phía bên trong chúng đang sôi sục. Chừng nào những điều đó chưa được hiểu rõ hoàn toàn qua sự tỉnh thức, chắc chắn không thể có tự do, không thể có hạnh phúc, không có thông minh.

Thông minh là một vấn đề của chuyên môn hóa hay sao? – thông minh là sự nhận biết được tổng thể ‘qui trình của chúng ta’. Và thông minh đó sẽ được vun quén qua bất kỳ hình thức nào của chuyên môn hóa? Bởi vì đó là điều gì đang xảy ra, phải không? Giáo sĩ, bác sĩ, kỹ sư, người công nghiệp, người kinh doanh, vị giáo sư – chúng ta có tinh thần của tất cả sự chuyên môn hóa đó.

Muốn nhận ra mức độ tột đỉnh của thông minh – mà là sự thật, mà là Thượng đế, mà không thể được diễn tả – muốn nhận ra điều đó, chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải biến chính chúng ta thành những con người chuyên môn. Chúng ta học hỏi, chúng ta dò dẫm, chúng ta tìm kiếm; và, với tinh thần của nguời chuyên môn hay nương dựa người chuyên môn, chúng ta tìm hiểu về chính chúng ta với mục đích phát triển một khả năng mà sẽ giúp cởi bỏ những xung đột của chúng ta, những đau khổ của chúng ta.

Vấn đề của chúng ta là, nếu chúng ta nhận biết được, liệu những xung đột và những đau khổ và những phiền muộn của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta có thể được giải quyết bởi một người khác; và nếu chúng không thể, làm thế nào chúng ta có thể giải quyết được chúng? Chắc chắn, muốn hiểu rõ một vấn đề cần phải có một thông minh nào đó, và thông minh đó không thể được bắt nguồn từ hay được vun quén qua sự chuyên biệt hóa. Nó hiện diện chỉ khi nào chúng ta tỉnh thức một cách thụ động được toàn qui trình của ý thức của chúng ta, mà là nhận biết được chính chúng ta mà không có sự chọn lựa, mà không chọn lựa điều gì đúng và điều gì sai. Khi bạn tỉnh thức thụ động, bạn sẽ thấy rằng từ thụ động đó – mà không là sự biếng nhác, mà không là hôn trầm, nhưng tỉnh thức cực độ – vấn đề có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn; mà có nghĩa không còn sự đồng hóa cùng vấn đề và vì vậy không có nhận xét và thế là vấn đề bắt đầu bộc lộ nội dung của nó. Nếu bạn có thể làm điều đó một cách kiên trì, liên tục, vậy thì mỗi vấn đề có thể được giải quyết một cách căn bản, không phải hời hợt. Đó là sự khó khăn, bởi vì hầu hết chúng ta đều không có khả năng tỉnh thức một cách thụ động, thả cho vấn đề kể câu chuyện mà không có sự diễn giải về nó của chúng ta. Chúng ta không biết làm thế nào nhìn vào vấn đề một cách bình thản. Chúng ta không có khả năng như thế; bất hạnh thay, bởi vì chúng ta mong muốn một kết quả từ vấn đề, chúng ta muốn một câu trả lời, chúng ta hướng đến một kết thúc; hay chúng ta cố gắng diễn giải vấn đề tùy theo vui thú hoặc đau khổ của chúng ta; hay chúng ta có sẵn một câu trả lời về làm cách nào để giải quyết vấn đề. Vì vậy chúng ta tiếp cận một vấn đề, mà luôn luôn mới mẻ, bằng một khuôn mẫu cũ kỹ. Thách thức luôn luôn mới mẻ, nhưng phản ứng của chúng ta lại luôn luôn cũ kỹ; và khó khăn của chúng ta là gặp gỡ thách thức một cách trọn vẹn, một cách nguyên vẹn. Vấn đề luôn luôn là vấn đề của liên hệ – với những sự vật, với những con người, hay với những ý tưởng; không còn vấn đề nào khác; và muốn gặp gỡ vấn đề của liên hệ, cùng những đòi hỏi đang thay đổi liên tục của nó – muốn gặp gỡ nó đúng cách, muốn gặp gỡ nó nguyên vẹn – người ta phải tỉnh thức một cách thụ động. Thụ động này không là vấn đề của khẳng định, của ý chí, của kỷ luật; tỉnh thức được rằng chúng ta không thụ động là sự khởi đầu. Nhận biết được rằng chúng ta muốn có một câu trả lời đặc biệt cho một vấn đề đặc biệt – chắc chắn đó là sự khởi đầu: hiểu rõ về chính chúng ta trong liên hệ với vấn đề và làm thế nào chúng ta giải quyết được vấn đề. Vậy thì khi chúng ta bắt đầu hiểu rõ về chính chúng ta trong liên hệ với vấn đề – chúng ta phản ứng như thế nào, những thành kiến, những đòi hỏi, những theo đuổi khác nhau của chúng ta, trong gặp gỡ vấn đề đó, là gì?– tỉnh thức này sẽ phơi bày qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta, của bản chất phía bên trong riêng của chúng ta; và trong đó có một giải thoát.

Chắc chắn, điều gì quan trọng là tỉnh thức không-chọn lựa, bởi vì chọn lựa tạo ra xung đột. Người chọn lựa đang bị hoang mang, thế là anh ấy chọn lựa; nếu anh ấy không bị hoang mang, không có chọn lựa. Chỉ con người bị hoang mang mới cần chọn lựa điều gì anh ấy sẽ làm hay sẽ không làm. Con người rõ ràng và đơn giản không chọn lựa; cái gì hiện diện, là. Chắc chắn, hành động được đặt nền tảng trên một ý tưởng là hành động chọn lựa và hành động như thế không đang giải thoát; trái lại, nó chỉ tạo ra kháng cự hơn nữa, xung đột hơn nữa, tùy theo suy nghĩ bị quy định đó.

Vì vậy, điều quan trọng là, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc tỉnh thức không-tích lũy sự trải nghiệm mà tỉnh thức mang lại; bởi vì khoảnh khắc bạn tích lũy, bạn chỉ tỉnh thức tùy theo tích lũy đó, tùy theo khuôn mẫu đó, tùy theo trải nghiệm đó. Đó là tỉnh thức của bạn bị quy định bởi sự tích lũy của bạn và thế là không còn quan sát nhưng chỉ diễn giải. Nơi nào có sự diễn giải, có chọn lựa, và chọn lựa tạo ra xung đột; trong xung đột không thể có hiểu rõ.

Sống là một vấn đề của liên hệ; và muốn hiểu rõ liên hệ không-đứng yên đó, phải có một tỉnh thức mà mềm dẻo, một nhận biết mà thụ động đầy sáng suốt, không phải năng động đầy hùng hổ. Như tôi đã nói, tỉnh thức thụ động này không hiện diện qua bất kỳ hình thức nào của kỷ luật, qua bất kỳ hình thức nào của luyện tập. Chính xác nó chỉ là tỉnh thức, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, được suy nghĩ và cảm thấy của chúng ta, không chỉ khi chúng ta đang thức giấc; bởi vì chúng ta sẽ thấy, khi chúng ta thâm nhập nó sâu thẳm hơn, rằng chúng ta bắt đầu nằm mơ, rằng chúng ta bắt đầu tuôn ra mọi loại biểu tượng mà chúng ta diễn giải như những giấc mộng. Vì vậy chúng ta mở cánh cửa vào tầng ý thức giấu giếm, mà trở thành cái đã được biết; nhưng muốn tìm ra cái không biết được, chúng ta phải vượt qua cái cửa – chắc chắn, đó là sự khó khăn của chúng ta. Sự thật không là một sự việc mà có thể biết được bởi cái trí, bởi vì cái trí là kết quả của cái đã được biết, của quá khứ; vì vậy cái trí phải hiểu rõ chính nó và sự vận hành của nó, sự thật của nó, và chỉ lúc đó cái không biết được mới có thể hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 12597)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6753)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8873)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7871)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31925)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 20395)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16808)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10679)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11830)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12334)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567