Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 12: Tỉnh thức

18/07/201102:02(Xem: 3923)
Chương 12: Tỉnh thức

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XII
TỈNH THỨC

Hiểu rõ về chính chúng ta có nghĩa rằng hiểu rõ sự liên hệ của chúng ta với thế giới – không những với thế giới của những ý tưởng và những con người, nhưng còn với thiên nhiên, với những sự vật chúng ta sở hữu. Đó là sống của chúng ta – sống là liên hệ với tổng thể. Hiểu rõ về liên hệ đó có cần sự chuyên môn hóa hay không? Rõ ràng là không. Điều gì nó yêu cầu là trạng thái tỉnh thức để gặp gỡ sống như một tổng thể. Làm thế nào người ta tỉnh thức được? Đó là vấn đề của chúng ta. Làm thế nào người ta có được tỉnh thức đó – nếu tôi được phép dùng từ ngữ này mà không làm cho nó có nghĩa chuyên môn hóa? Làm thế nào người ta có thể gặp gỡ sống như một tổng thể? – mà có nghĩa không những sự liên hệ cá nhân với người hàng xóm của bạn nhưng cũng còn với thiên nhiên, với những sự vật mà bạn sở hữu, với những ý tưởng, và với những sự việc mà cái trí sáng chế như ảo tưởng, ham muốn và vân vân. Làm thế nào người ta có thể tỉnh thức được toàn qui trình của sự liên hệ này? Chắc chắn đó là sống của chúng ta, phải không? Không có sống nếu không có liên hệ; và muốn hiểu rõ liên hệ này không có nghĩa là cô lập. Trái lại, nó cần một tỉnh thức hay nhận biết trọn vẹn được toàn qui trình của liên hệ.

Làm thế nào người ta tỉnh thức được? Làm thế nào người ta nhận biết được bất kỳ sự việc nào? Làm thế nào bạn tỉnh thức được sự liên hệ của bạn với một con người? Làm thế nào bạn nhận biết được cây cối, tiếng hót của một con chim? Làm thế nào bạn tỉnh thức được những phản ứng của bạn khi bạn đọc một tờ báo? Làm thế nào bạn nhận biết được những phản ứng phía bên ngoài của cái trí, cũng như những phản ứng phía bên trong? Làm thế nào chúng ta tỉnh thức được bất kỳ sự việc nào? Trước hết chúng ta phải nhận biết – phải không – được một phản ứng đến một kích động, mà là một sự kiện hiển nhiên; tôi thấy những cái cây, và có một phản ứng, sau đó cảm giác, tiếp xúc, nhận dạng và ham muốn. Đó là qui trình thông thường, phải không? Chúng ta có thể quan sát thực sự điều gì xảy ra, mà không cần học hành bất kỳ quyển sách nào.

Vì vậy qua nhận dạng bạn có vui thú và đau khổ. Và ‘khả năng’ của chúng ta là quan tâm đến vui thú và lẩn tránh đau khổ này, phải không? Nếu bạn thích thú cái gì đó, nếu nó cho bạn vui thú, có ‘khả năng’ ngay tức khắc; có một nhận biết được sự kiện đó ngay tức khắc; và nếu nó là đau khổ, ‘khả năng’ được phát triển để lẩn tránh nó. Chừng nào chúng ta còn đang nương dựa ‘khả năng’ để hiểu rõ về chính chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thất bại; bởi vì hiểu rõ về chính chúng ta không lệ thuộc vào khả năng. Nó không là một phương pháp kỹ thuật mà bạn phát triển, vun quén và gia tăng qua thời gian, qua liên tục mài bén. Chắc chắn, tỉnh thức được chính mình này có thể được thử thách trong hành động của liên hệ; nó có thể được kiểm tra trong cách chúng ta nói chuyện, trong cách chúng ta cư xử. Hãy quan sát về chính bạn mà không có bất kỳ sự nhận dạng, không có bất kỳ so sánh, không có bất kỳ chỉ trích; chỉ nhìn ngắm, và bạn sẽ thấy một sự việc lạ thường đang xảy ra. Bạn không chỉ kết thúc một hoạt động không có ý thức – bởi vì hầu hết những hoạt động của chúng ta đều không có ý thức – bạn không chỉ kết thúc nó, nhưng, thâm sâu hơn nữa, bạn nhận biết được những động cơ của hành động đó, mà không tìm hiểu, không đào sâu vào nó.

Khi bạn tỉnh thức, bạn thấy toàn qui trình suy nghĩ và hành động của bạn; nhưng nó có thể xảy ra chỉ khi nào không có phê bình. Khi tôi phê bình điều gì đó, tôi không hiểu rõ nó, và đó là một cách lẩn tránh bất kỳ loại hiểu rõ nào. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều làm việc đó có mục đích; chúng ta phê bình ngay tức khắc và chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ. Nếu chúng ta không phê bình nhưng lưu tâm đến nó, tỉnh thức được nó, vậy thì nội dung, ý nghĩa của hành động đó bắt đầu mở toang ra. Thử nghiệm điều này và bạn sẽ thấy cho chính bạn. Chỉ tỉnh thức – không có bất kỳ ý thức của phê bình nào – mà dường như có lẽ khá tiêu cực nhưng không là tiêu cực. Trái lại, nó có chất lượng thụ động mà là hành động trực tiếp; và bạn sẽ khám phá điều này nếu bạn thử nghiệm nó.

Rốt cuộc, nếu bạn muốn hiểu rõ một điều gì đó, bạn phải ở trong một trạng thái thụ động, đúng chứ? Bạn không thể tiếp tục suy nghĩ về nó, phỏng đoán về nó hay tìm hiểu về nó. Bạn phải dư thừa nhạy cảm để thâu nhận nội dung của nó. Nó giống như một tấm kính chụp ảnh nhạy cảm. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải tỉnh thức thụ động; vậy thì bạn bắt đầu kể cho tôi tất cả câu chuyện của bạn. Chắc chắn, đó không là vấn đề của khả năng hay chuyên môn hóa. Trong tiến hành đó chúng ta bắt đầu hiểu rõ về chính chúng ta – không chỉ ở tầng hời hợt của ý thức chúng ta, nhưng sâu thẳm hơn, mà còn quan trọng hơn nhiều; bởi vì ở đó là tất cả những động cơ hay ý định của chúng ta, những đòi hỏi, những lo âu, những sợ hãi, những tham lam rối loạn, giấu giếm của chúng ta. Phía bên ngoài chúng ta có lẽ kiểm soát chúng nhưng phía bên trong chúng đang sôi sục. Chừng nào những điều đó chưa được hiểu rõ hoàn toàn qua sự tỉnh thức, chắc chắn không thể có tự do, không thể có hạnh phúc, không có thông minh.

Thông minh là một vấn đề của chuyên môn hóa hay sao? – thông minh là sự nhận biết được tổng thể ‘qui trình của chúng ta’. Và thông minh đó sẽ được vun quén qua bất kỳ hình thức nào của chuyên môn hóa? Bởi vì đó là điều gì đang xảy ra, phải không? Giáo sĩ, bác sĩ, kỹ sư, người công nghiệp, người kinh doanh, vị giáo sư – chúng ta có tinh thần của tất cả sự chuyên môn hóa đó.

Muốn nhận ra mức độ tột đỉnh của thông minh – mà là sự thật, mà là Thượng đế, mà không thể được diễn tả – muốn nhận ra điều đó, chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải biến chính chúng ta thành những con người chuyên môn. Chúng ta học hỏi, chúng ta dò dẫm, chúng ta tìm kiếm; và, với tinh thần của nguời chuyên môn hay nương dựa người chuyên môn, chúng ta tìm hiểu về chính chúng ta với mục đích phát triển một khả năng mà sẽ giúp cởi bỏ những xung đột của chúng ta, những đau khổ của chúng ta.

Vấn đề của chúng ta là, nếu chúng ta nhận biết được, liệu những xung đột và những đau khổ và những phiền muộn của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta có thể được giải quyết bởi một người khác; và nếu chúng không thể, làm thế nào chúng ta có thể giải quyết được chúng? Chắc chắn, muốn hiểu rõ một vấn đề cần phải có một thông minh nào đó, và thông minh đó không thể được bắt nguồn từ hay được vun quén qua sự chuyên biệt hóa. Nó hiện diện chỉ khi nào chúng ta tỉnh thức một cách thụ động được toàn qui trình của ý thức của chúng ta, mà là nhận biết được chính chúng ta mà không có sự chọn lựa, mà không chọn lựa điều gì đúng và điều gì sai. Khi bạn tỉnh thức thụ động, bạn sẽ thấy rằng từ thụ động đó – mà không là sự biếng nhác, mà không là hôn trầm, nhưng tỉnh thức cực độ – vấn đề có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn; mà có nghĩa không còn sự đồng hóa cùng vấn đề và vì vậy không có nhận xét và thế là vấn đề bắt đầu bộc lộ nội dung của nó. Nếu bạn có thể làm điều đó một cách kiên trì, liên tục, vậy thì mỗi vấn đề có thể được giải quyết một cách căn bản, không phải hời hợt. Đó là sự khó khăn, bởi vì hầu hết chúng ta đều không có khả năng tỉnh thức một cách thụ động, thả cho vấn đề kể câu chuyện mà không có sự diễn giải về nó của chúng ta. Chúng ta không biết làm thế nào nhìn vào vấn đề một cách bình thản. Chúng ta không có khả năng như thế; bất hạnh thay, bởi vì chúng ta mong muốn một kết quả từ vấn đề, chúng ta muốn một câu trả lời, chúng ta hướng đến một kết thúc; hay chúng ta cố gắng diễn giải vấn đề tùy theo vui thú hoặc đau khổ của chúng ta; hay chúng ta có sẵn một câu trả lời về làm cách nào để giải quyết vấn đề. Vì vậy chúng ta tiếp cận một vấn đề, mà luôn luôn mới mẻ, bằng một khuôn mẫu cũ kỹ. Thách thức luôn luôn mới mẻ, nhưng phản ứng của chúng ta lại luôn luôn cũ kỹ; và khó khăn của chúng ta là gặp gỡ thách thức một cách trọn vẹn, một cách nguyên vẹn. Vấn đề luôn luôn là vấn đề của liên hệ – với những sự vật, với những con người, hay với những ý tưởng; không còn vấn đề nào khác; và muốn gặp gỡ vấn đề của liên hệ, cùng những đòi hỏi đang thay đổi liên tục của nó – muốn gặp gỡ nó đúng cách, muốn gặp gỡ nó nguyên vẹn – người ta phải tỉnh thức một cách thụ động. Thụ động này không là vấn đề của khẳng định, của ý chí, của kỷ luật; tỉnh thức được rằng chúng ta không thụ động là sự khởi đầu. Nhận biết được rằng chúng ta muốn có một câu trả lời đặc biệt cho một vấn đề đặc biệt – chắc chắn đó là sự khởi đầu: hiểu rõ về chính chúng ta trong liên hệ với vấn đề và làm thế nào chúng ta giải quyết được vấn đề. Vậy thì khi chúng ta bắt đầu hiểu rõ về chính chúng ta trong liên hệ với vấn đề – chúng ta phản ứng như thế nào, những thành kiến, những đòi hỏi, những theo đuổi khác nhau của chúng ta, trong gặp gỡ vấn đề đó, là gì?– tỉnh thức này sẽ phơi bày qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta, của bản chất phía bên trong riêng của chúng ta; và trong đó có một giải thoát.

Chắc chắn, điều gì quan trọng là tỉnh thức không-chọn lựa, bởi vì chọn lựa tạo ra xung đột. Người chọn lựa đang bị hoang mang, thế là anh ấy chọn lựa; nếu anh ấy không bị hoang mang, không có chọn lựa. Chỉ con người bị hoang mang mới cần chọn lựa điều gì anh ấy sẽ làm hay sẽ không làm. Con người rõ ràng và đơn giản không chọn lựa; cái gì hiện diện, là. Chắc chắn, hành động được đặt nền tảng trên một ý tưởng là hành động chọn lựa và hành động như thế không đang giải thoát; trái lại, nó chỉ tạo ra kháng cự hơn nữa, xung đột hơn nữa, tùy theo suy nghĩ bị quy định đó.

Vì vậy, điều quan trọng là, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc tỉnh thức không-tích lũy sự trải nghiệm mà tỉnh thức mang lại; bởi vì khoảnh khắc bạn tích lũy, bạn chỉ tỉnh thức tùy theo tích lũy đó, tùy theo khuôn mẫu đó, tùy theo trải nghiệm đó. Đó là tỉnh thức của bạn bị quy định bởi sự tích lũy của bạn và thế là không còn quan sát nhưng chỉ diễn giải. Nơi nào có sự diễn giải, có chọn lựa, và chọn lựa tạo ra xung đột; trong xung đột không thể có hiểu rõ.

Sống là một vấn đề của liên hệ; và muốn hiểu rõ liên hệ không-đứng yên đó, phải có một tỉnh thức mà mềm dẻo, một nhận biết mà thụ động đầy sáng suốt, không phải năng động đầy hùng hổ. Như tôi đã nói, tỉnh thức thụ động này không hiện diện qua bất kỳ hình thức nào của kỷ luật, qua bất kỳ hình thức nào của luyện tập. Chính xác nó chỉ là tỉnh thức, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, được suy nghĩ và cảm thấy của chúng ta, không chỉ khi chúng ta đang thức giấc; bởi vì chúng ta sẽ thấy, khi chúng ta thâm nhập nó sâu thẳm hơn, rằng chúng ta bắt đầu nằm mơ, rằng chúng ta bắt đầu tuôn ra mọi loại biểu tượng mà chúng ta diễn giải như những giấc mộng. Vì vậy chúng ta mở cánh cửa vào tầng ý thức giấu giếm, mà trở thành cái đã được biết; nhưng muốn tìm ra cái không biết được, chúng ta phải vượt qua cái cửa – chắc chắn, đó là sự khó khăn của chúng ta. Sự thật không là một sự việc mà có thể biết được bởi cái trí, bởi vì cái trí là kết quả của cái đã được biết, của quá khứ; vì vậy cái trí phải hiểu rõ chính nó và sự vận hành của nó, sự thật của nó, và chỉ lúc đó cái không biết được mới có thể hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2024(Xem: 176)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 2813)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 726)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2343)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2582)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3084)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 6044)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2230)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2371)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com