Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 11: Đơn giản

18/07/201102:02(Xem: 3363)
Chương 11: Đơn giản

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XI
ĐƠN GIẢN

Tôi muốn bàn luận về ý nghĩa của đơn giản, và có lẽ từ đó dẫn đến sự khám phá về nhạy cảm. Dường như chúng ta nghĩ rằng, đơn giản chỉ là một thể hiện phía bên ngoài, một từ bỏ: có được một ít tài sản, mặc vào một cái khố, không có nhà cửa, khoác vào ít quần áo, có một tài khoản nhỏ ở ngân hàng. Chắc chắn đó không là đơn giản. Đó chỉ là một phô diễn phía bên ngoài. Dường như đối với tôi, đơn giản là cốt lõi; nhưng đơn giản hiện diện chỉ khi nào chúng ta bắt đầu hiểu rõ ý nghĩa của hiểu rõ về chính mình.

Đơn giản không là một điều chỉnh đến một khuôn mẫu. Nó cần đến nhiều thông minh để sống đơn giản và không phải là tuân phục vào một khuôn mẫu đặc biệt, dù có giá trị phía bên ngoài ra sao. Bất hạnh thay, hầu hết chúng ta đều bắt đầu bằng sự đơn giản phía bên ngoài, trong những sự việc bên ngoài. Tương đối dễ dàng khi có một ít vật dụng và thỏa mãn với một ít vật dụng đó; sống mãn nguyện với chút ít và có lẽ chia sẻ chút ít đó với những người khác. Nhưng một thể hiện thuần túy phía bên ngoài của đơn giản trong những sự vật, trong những sở hữu, chắc chắn không hàm ý sự đơn giản của con người phía bên trong. Bởi vì, như thế giới hiện nay, càng ngày càng nhiều sự việc đang thúc giục chúng ta, phía bên ngoài, ở ngoại vi. Sống đang trở nên mỗi lúc một phức tạp hơn. Với mục đích tẩu thoát khỏi sự phức tạp đó, chúng ta cố gắng từ bỏ hay xa rời những sự vật – xe cộ, nhà cửa, những tổ chức, những rạp chiếu bóng, và vô số những tình huống phía bên ngoài đang xô đẩy chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta sẽ sống đơn giản bằng cách rút lui. Nhiều vị thánh, nhiều vị thầy, đã từ bỏ thế giới; và dường như đối với tôi, một từ bỏ như thế nơi bất kỳ người nào trong chúng ta không giải quyết được vấn đề. Đơn giản mà là cốt lõi, thực sự, chỉ có thể hiện diện ở phía bên trong; và từ đó, có một thể hiện phía bên ngoài. Vậy thì, làm thế nào để sống đơn giản là một nghi vấn; bởi vì đơn giản đó làm cho người ta càng lúc càng nhạy cảm. Một cái trí nhạy cảm, một tâm hồn nhạy cảm là cốt lõi, vì lúc đó nó có thể nhận biết mau lẹ, thâu nhận mau lẹ.

Chắc chắn, người ta có thể được đơn giản phía bên trong bằng cách hiểu rõ vô số những trì hoãn, những quyến luyến, những sợ hãi, trong đó người ta bị trói buộc. Nhưng hầu hết chúng ta đều ưa thích được trói buộc – bởi con người, bởi những tài sản, bởi những ý tưởng. Chúng ta ưa thích được là những tù nhân. Phía bên trong chúng ta là những tù nhân, mặc dù phía bên ngoài chúng ta dường như rất đơn giản. Phía bên trong chúng ta là những tù nhân của những ham muốn của chúng ta, của những mong ước của chúng ta, của những lý tưởng của chúng ta, của vô vàn những động cơ. Đơn giản không thể tìm được, nếu người ta không được tự do phía bên trong. Vì vậy nó phải bắt đầu từ bên trong, không phải phía bên ngoài.

Có một tự do lạ thường khi người ta hiểu rõ toàn qui trình của niềm tin, tại sao cái trí bị quyến luyến vào một niềm tin. Khi có tự do khỏi những niềm tin, có đơn giản. Nhưng đơn giản đó cần đến thông minh, và muốn có thông minh người ta phải nhận biết được những trì hoãn riêng của người ta. Muốn nhận biết, người ta phải liên tục tỉnh thức, không bị cố định trong bất kỳ khe rãnh đặc biệt, trong bất kỳ khuôn mẫu đặc biệt của tư tưởng hay hành động nào. Rốt cuộc, điều gì người ta là phía bên trong có gây ảnh hưởng phía bên ngoài. Xã hội, hay bất kỳ hình thức nào của hành động, là sự chiếu rọi của chính chúng ta; và nếu không có sự thay đổi phía bên trong, chỉ tạo ra những luật lệ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu phía bên ngoài; nó có lẽ tạo ra những đổi mới nào đó, những điều chỉnh nào đó, nhưng điều gì người ta là phía bên trong luôn luôn chi phối phía bên ngoài. Nếu phía bên trong người ta tham lam, tham vọng, đang theo đuổi những lý tưởng nào đó; cuối cùng sự phức tạp phía bên trong đó có đảo lộn, lật đổ xã hội phía bên ngoài, dù xã hội đó đã được thiết lập vững chắc đến chừng nào.

Vì vậy người ta phải bắt đầu từ phía bên trong – không phải loại trừ, không phải phủ nhận phía bên ngoài. Chắc chắn, bạn đến được phía bên trong, bằng cách hiểu rõ phía bên ngoài, bằng cách tìm được tại sao đấu tranh, xung đột, đau khổ, tồn tại phía bên ngoài; khi người ta tìm hiểu nó mỗi lúc một thâm sâu hơn, tự nhiên người ta lọt vào những trạng thái tâm lý mà sản sinh ra những xung đột và những đau khổ phía bên ngoài. Sự thể hiện phía bên ngoài chỉ là một phơi bày của trạng thái phía bên trong chúng ta; nhưng muốn hiểu rõ trạng thái phía bên trong chúng ta, người ta phải tiếp cận qua phía bên ngoài. Hầu hết chúng ta đều làm việc đó. Trong hiểu rõ phía bên trong – không phải loại trừ, không phải phủ nhận phía bên ngoài, nhưng bằng cách hiểu rõ phía bên ngoài và thế là bất ngờ bắt gặp phía bên trong – chúng ta sẽ phát giác rằng, khi chúng ta thâm nhập những phức tạp bên trong của thân tâm chúng ta, chúng ta mỗi lúc mỗi nhạy cảm, tự do. Chính đơn giản phía bên trong này là cốt lõi, bởi vì đơn giản đó tạo ra nhạy cảm. Một cái trí không nhạy cảm, không tỉnh thức, không nhận biết, không thể có bất kỳ thâu nhận nào, bất kỳ hành động sáng tạo nào. Sự tuân phục như một phương tiện giúp cho chúng ta được đơn giản, thực sự lại khiến cho cái trí và tâm hồn đờ đẫn, vô cảm. Bất kỳ hình thức ép buộc nào của uy quyền, bị áp đặt bởi chính thể, bởi chính người ta, bởi lý tưởng của thành tựu, và vân vân – bất kỳ hình thức nào của tuân phục phải dẫn đến vô cảm, bởi vì không nhạy cảm phía bên trong. Phía bên ngoài bạn có lẽ tuân phục và cho ‘vóc dáng’ của đơn giản, như quá nhiều con người tôn giáo đã làm. Họ luyện tập vô vàn những kỷ luật, gia nhập những tổ chức khác nhau, tham thiền trong một kiểu đặc biệt, và vân vân – tất cả đều cho một vóc dáng của đơn giản, nhưng sự tuân phục như thế không dẫn đến đơn giản. Sự ép buộc thuộc bất kỳ loại nào không bao giờ dẫn đến đơn giản. Trái lại, bạn càng kiềm chế nhiều bao nhiêu, bạn càng thay thế nhiều bao nhiêu, bạn càng lý tưởng nhiều bao nhiêu, càng có ít đơn giản bấy nhiêu; nhưng bạn càng hiểu rõ qui trình của lý tưởng, thay thế, kiềm chế nhiều bao nhiêu, càng có thể có nhiều đơn giản bấy nhiêu.

Những vấn đề của chúng ta – xã hội, môi trường, chính trị, tôn giáo – phức tạp đến độ chúng ta có thể giải quyết chúng chỉ bằng cách đơn giản, không phải bằng cách trở nên có uyên bác và thông thái. Một con người đơn giản thấy trực tiếp nhiều hơn, có một trải nghiệm trực tiếp nhiều hơn con người phức tạp. Cái trí của chúng ta bị nhồi nhét quá nhiều bởi vô số những hiểu biết về những sự kiện, về điều gì những người khác đã nói, đến độ chúng ta trở nên không thể đơn giản và có được tự-trải nghiệm trực tiếp cho chính chúng ta. Những vấn đề này đòi hỏi một cách tiếp cận mới mẻ; và chúng có thể được tiếp cận mới mẻ như thế chỉ khi nào chúng ta đơn giản, phía bên trong thực sự đơn giản. Đơn giản này hiện diện chỉ qua hiểu rõ về chính mình, qua hiểu rõ về chính chúng ta; những cách suy nghĩ và cảm thấy của chúng ta; những chuyển động thuộc tư tưởng của chúng ta; những phản ứng của chúng ta; chúng ta tuân phục như thế nào, qua sợ hãi, qua ý kiến của công chúng, đến điều gì người khác nói, điều gì Phật, Chúa, những vị thánh vĩ đại đã nói – tất cả điều đó thể hiện bản chất tuân phục, muốn an toàn, muốn yên ổn của chúng ta. Khi người ta đang tìm kiếm an toàn, rõ ràng người ta đang ở trong một trạng thái sợ hãi và thế là không có đơn giản.

Nếu không đơn giản, người ta không thể nhạy cảm – với những cái cây, với những con chim, với những hòn núi, với những cơn gió, với tất cả những sự việc đang xảy ra quanh chúng ta trong thế giới; nếu người ta không đơn giản người ta không thể nhạy cảm với những ‘bắt chước’ phía bên trong về những sự việc. Hầu hết chúng ta sống rất hời hợt trong những tầng phía bên ngoài của ý thức chúng ta; ở đó chúng ta cố gắng có suy nghĩ hay thông minh, mà cũng giống như có tôn giáo; ở đó chúng ta cố gắng làm cho cái trí của chúng ta đơn giản, qua ép buộc, qua kỷ luật. Nhưng đó không là đơn giản. Khi chúng ta ép buộc cái trí tầng ý thức bên ngoài phải đơn giản, sự ép buộc như thế chỉ làm cằn cỗi cái trí, không khiến cho nó mềm dẻo, rõ ràng, nhạy bén. Muốn đơn giản trong tổng thể, toàn tiến hành thuộc ý thức của chúng ta, là điều cực kỳ gian nan; bởi vì phải không có sự bảo thủ phía bên trong, phải có một khẩn thiết để tìm ra, để thâm nhập vào sự tiến hành của thân tâm chúng ta, mà có nghĩa tỉnh táo được mọi bắt chước, mọi hàm ý; nhận biết được những sợ hãi của chúng ta; những hy vọng của chúng ta, và tìm hiểu và được tự do khỏi chúng nhiều hơn và nhiều hơn và nhiều hơn. Chỉ đến lúc đó, khi cái trí và quả tim thực sự đơn giản, không bị bao bọc, chúng ta mới có thể giải quyết được nhiều vấn đề đối diện với chúng ta.

Hiểu biết sẽ không giải quyết được những vấn đề của chúng ta. Ví dụ, bạn có lẽ biết rằng có luân hồi, rằng có một sự tiếp tục sau khi chết. Bạn có lẽ biết, tôi không nói bạn biết; hay bạn có lẽ được thuyết phục về nó. Nhưng điều đó không giải quyết được vấn đề. Chết không thể bị hoãn lại bởi lý thuyết của bạn, hay bởi thông tin, hay bởi niềm tin. Nó bí mật hơn nhiều, sâu thẳm hơn nhiều, sáng tạo hơn điều đó nhiều.

Người ta phải có khả năng tìm hiểu tất cả điều này mới mẻ lại; bởi vì chỉ qua trải nghiệm trực tiếp những vấn đề của chúng ta mới được giải quyết, và muốn có trải nghiệm trực tiếp phải có đơn giản, mà có nghĩa phải có nhạy cảm. Một cái trí bị làm đờ đẫn bởi gánh nặng của hiểu biết. Một cái trí bị làm cằn cỗi bởi quá khứ, bởi tương lai. Chỉ một cái trí có khả năng tự-thích ứng chính nó đến hiện tại, liên tục, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, có thể gặp gỡ những ảnh hưởng mạnh mẽ và áp lực mạnh mẽ liên tục mà thôi thúc, hành hạ chúng ta bởi môi trường sống của chúng ta.

Vẫn vậy một con người tôn giáo thực sự không là một con người mà khoác vào một cái áo choàng hay một cái khố, hay sống dựa vào một bữa ăn mỗi ngày, hay nuốt vào vô số những lời thề để là điều này hay không là điều kia, nhưng là một con người mà đơn giản bên trong, mà không đang trở thành bất kỳ cái gì. Một cái trí như thế có khả năng thâu nhận lạ thường, bởi vì không có cản trở, không có sợ hãi, không có hướng đến một cái gì đó; vì vậy nó có khả năng thâu nhận ơn lành, Thượng đế, sự thật, hay bất kỳ điều gì bạn muốn. Nhưng một cái trí đang theo đuổi sự thật không là một cái trí đơn giản. Một cái trí đang tìm kiếm, lục soát, dò dẫm, kích động, không là một cái trí đơn giản. Một cái trí mà tuân phục bất kỳ khuôn mẫu nào của uy quyền, bên trong hay bên ngoài, không thể nhạy cảm. Và chỉ khi nào một cái trí thực sự nhạy cảm, tỉnh thức, nhận biết được tất cả những xảy ra, những phản ứng, những suy nghĩ riêng của nó, khi nó không còn đang trở thành, không còn định hình chính nó để là một cái gì đó – chỉ đến lúc đó nó có thể thâu nhận cái đó mà là sự thật. Chỉ đến lúc đó mới có thể có hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc không là một mục đích – nó là kết quả của sự thật. Khi cái trí và quả tim đã trở nên đơn giản và thế là nhạy cảm – không qua bất kỳ hình thức của ép buộc, hướng dẫn, hay áp đặt – vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng những vấn đề của chúng ta có thể được giải quyết rất đơn giản. Dù những vấn đề của chúng ta phức tạp đến chừng nào, chúng ta sẽ có thể tiếp cận chúng mới mẻ lại và thấy chúng khác hẳn. Đó là điều gì được yêu cầu vào thời điểm hiện nay: con người có thể gặp gỡ sự hỗn loạn, sự đau khổ, sự thù địch phía bên ngoài này một cách mới mẻ lại, sáng tạo lại, đơn giản lại – không phải bằng những lý thuyết hay những công thức, hoặc của cánh tả hoặc của cánh hữu. Bạn không thể gặp gỡ những vấn đề mới mẻ lại nếu bạn không đơn giản.

Một vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi chúng ta tiếp cận nó như thế. Chúng ta không thể tiếp cận nó mới mẻ lại nếu chúng ta đang suy nghĩ dựa vào những khuôn mẫu nào đó của tư tưởng, thuộc tôn giáo, thuộc chính trị hay cách nào khác. Vì vậy chúng ta phải được tự do khỏi tất cả những sự việc này, để đơn giản. Đó là lý do tại sao rất quan trọng phải tỉnh thức, phải có khả năng hiểu rõ toàn qui trình thuộc suy nghĩ riêng của chúng ta, phải nhận biết được trọn vẹn chính chúng ta; từ đó một đơn giản hiện diện, từ đó một khiêm tốn hiện diện mà không là một đạo đức hay một luyện tập. Khiêm tốn mà kiếm được không còn là khiêm tốn. Một cái trí làm cho chính nó khiêm tốn không còn là một cái trí khiêm tốn. Chỉ khi nào người ta có khiêm tốn, không phải một khiêm tốn được vun quén, chỉ khi đó người ta mới có thể gặp gỡ những sự việc của sống mà không bị áp lực, bởi vì lúc đó người ta ‘không quan trọng’, người ta không nhìn qua những áp lực riêng và ý thức quan trọng của người ta; người ta nhìn vào chính vấn đề và thế là người ta có thể giải quyết được vấn đề.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 12545)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6718)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8832)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7841)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31854)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 20350)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16751)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10659)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11800)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12269)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567