Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 16: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 6999)
Chương 16: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XVI

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Đầy đủ lòng tin và tâm nguyện

Đại sư Ngẫu Ích trong “Di-đà yếu giải” giảng rất rõ ràng: ”Được sinh Cực Lạc hay không, phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do nơi niệm Phật sâu hay cạn”. Người niệm Phật chỉ cần đầy đủ niềm tin và tâm nguyện, khiến khi lâm chung mười niệm cũng quyết được vãng sinh. Nhưng sao hiện nay người niệm Phật rất nhiều mà người vãng sinh thì rất ít? Then chốt chính là niềm tin và tâm nguyện không rõ ràng, sự tu hành quá thô thiển không cố gắng tới cùng.

2. Nói nhiều nhưng làm ít

Lại bảo chúng ta cứ tự nhiên đối mặt với chính mình ư? Không thể được! Bởi chúng ta đều là người nói nhiều song lại làm quá ít. Miệng nói chán cõi Ta-bà muốn cầu về Cực Lạc. Nhưng trên hành vi, tâm tưởng lại không quên Ngũ dục và sáu trần, trong tâm vẫn còn vướng vít tình riêng, gia đình và con cái, đầu óc còn suy nghĩ về danh vị và sự giàu sang. Nếu có học Phật, chỉ cầu lợi ích cho tự thân, cầu được khoẻ mạnh và bình an, cầu công danh, phú quý. Người thực sự không cầu các thứ ở trên, chỉ đơn thuần cầu sinh Tây Phương Cực Lạc đã ít lại càng ít. Nhân vì niềm tin không sâu, tâm nguyện không tha thiết. Tâm tham luyến Ta-bà nên dần xa cõi Cực Lạc, tâm với Phật ngăn cách. Vì thế, chúng ta niệm Phật tuy nhiều, người thành tựu lại rất ít, chẳng khác nào lông phượng sừng lân.

3. Người có tín nguyện chân thật rất ít

Chúng ta thường giảng tín, nguyện, hạnh. Nhưng thật sự đối với pháp môn Tịnh độ, có niềm tin sâu hay không? Thật sự đối với thế giới Cực Lạc có nguyện tha thiết hay không? Nên hỏi lại lương tâm. Người niệm Phật có khả năng chân chánh khởi lòng tin sâu, phát nguyện tha thiết, cuối cùng không được nhiều, chính là vì niềm tin không sâu, nguyện chẳng tha thiết. Vì thế, người niệm Phật rất nhiều nhưng người đạt đến chỗ thành tựu rất ít.

4. Kiểm nghiệm lòng tin và nguyện hạnh

Kiểm nghiệm chính mình có thật đủ niềm tin sâu và nguyện tha thiết hay không? Xem lại chính mình nơi chữ “xả” được khoảng chừng bao nhiêu công phu? Xả và buông xuống một phần niềm tin và tâm nguyện của mình đạt được một phần; xả bỏ và buông xuống mười phần thì niềm tin và tâm nguyện của mình đạt được mười phần. Nếu trên miệng cứ khăng khăng nói tự mình đã đầy đủ lòng tin và tâm nguyện, nhưng trên hành vi đều lo nghĩ về danh lợi, bám vào chuyện thế gian, dính mắc vào tình ái, gặp một chút trở ngại xả bỏ và buông xuống không được. Đây chính là lòng tin và tâm nguyện giả tạo, khinh mình dối người. Nghĩ cầu vãng sinh chỉ là leo cây tìm cá, trọn không thể được.

5. Nên phát nguyện

Phát nguyện là việc làm hết sức quan trọng. Vì thế, trong kinh A-di-đà, đức Phật nhiều lần tận tình căn dặn chúng ta “cần phải phát nguyện”. Kinh nói rằng: ”Này Xá-lợi-phất, chúng sinh nghe đó cần phải phát nguyện, nguyện sinh về cõi nước kia”… ”Nếu có chúng sinh nghe được lời này, cần phải sinh về cõi nước kia”… ”Các thiện nam cũng người thiện nữ, nếu có lòng tin cần phát nguyện, nguyện sinh về cõi nước kia”. Nơi mỗi đoạn trong kinh A-di-đà, đức Thế Tôn đều liên tiếp ba lần dạy bảo chúng ta “cần phải phát nguyện”, “cần phải phát nguyện”. Có thể thấy rõ tâm phát nguyện quan trọng biết bao!

6. Phát nguyện

Chúng ta niệm Phật cần phải phát nguyện cầu sinh thế giới Cực Lạc. Đã có tâm nguyện rồi, tâm nguyện của ta với bi nguyện của Phật hợp nhau mới có thể cùng Phật cảm ứng qua lại. Có tâm nguyện mới có thể chân thật chán lìa Ta-bà, mừng sinh về Cực Lạc. Có tâm nguyện mới chân chánh đoạn ác tu thiện và tinh tấn trì danh niệm Phật. Không phát nguyện mà chỉ có niệm Phật, dù niệm đến chỗ công phu được thuần thục, nhất tâm bất loạn cũng không cách gì vãng sinh. Bởi tâm ta và nguyện lực của Phật còn ngăn cách. Bạn không nguyện sinh về Cực Lạc, đức Phật cũng không có biện pháp gì tiếp dẫn bạn được!

7. Nhân duyên căn lành và phước đức

Kinh A-di-đà nói rằng: ”Không thể dùng một ít nhân duyên căn lành và phước đức mà được sinh về nước Cực Lạc”. Người niệm Phật muốn cầu sinh về Tịnh độ, cần phải tích chứa nhiều phước thiện. Nhân duyên căn lành và phước đức càng nhiều càng có thể thành tựu tâm nguyện niệm Phật vãng sinh của chúng ta. Nhưng muốn được nhiều nhân duyên căn lành và phước đức cần phải có hai phương pháp:

Một là không sát sinh, ăn chay trường, không tạo nghiệp sát để công đức đã tạo không tán mất. Không cùng chúng sinh kết mối thù truyền kiếp để khi lâm chung không bệnh tật, đau đớn hành hạ, cùng oan gia bức bách làm trở ngại cho chánh niệm không được vãng sinh.

Hai là chuộc mạng phóng sinh. Phóng sinh là công đức rất lớn, cũng là nhân duyên căn lành phước đức bậc nhất, lại là phương pháp tốt nhất để đền trả nợ giết hại chồng chất từ kiếp trước. Trong khi phóng sinh, căn lành trồng thêm và thu hoạch được rất nhiều, phước đức sinh thêm và thu hoặch được rất lớn. Nhân vì cứu vô số mạng chúng sinh là tạo vô số nhân duyên tốt đẹp. Vì thế, ăn chay trường và phóng sinh là bài tập ban đầu mà người học Phật cần phải chuẩn bị. Đối với đạo nghiệp phóng sinh đã có ảnh hưởng quyết định. Mỗi hành giả niệm Phật phải chuyên chú ở nơi đây, chớ coi thường và chểnh mảng.

8. Quả đất

Có một hạng người cứ cho quả đất quá ư thấp kém. Kỳ thật, quả đất rất đáng tôn quý. Quả đất nhận chịu tất cả gió táp mưa sa, lửa mặt trời đốt nóng vẫn cứ như bất động. Quả đất bị vạn loại chúng sinh xô lấn, dẫm đạp rồi lại tiểu tiện vung vãi trên đó, đất vẫn oán chịu mà không oán hờn. Quả đất bảo bọc và nuôi dưỡng tất cả sinh mạng của chúng sinh, cung dưỡng tất cả sinh mạng của chúng sinh nhưng vẫn không một lời kể lể công trạng. Một lòng vô tư, vô ngã thản nhiên không giá cả. Quả đất vẫn nặng trĩu tấm lòng che trở chúng sinh, để cho chúng sinh luôn sống và luôn phiên sinh nở, còn quả đất vẫn cứ khiêm cung, hạ thấp mình với tất cả vạn loài.

9. Pháp môn tâm địa

Chúng ta thường nghe nói hai chữ “tâm địa”. Vậy tâm địa chính là nhắc nhở chúng ta cần phải học tập đức tin và tinh thần của quả đất, luôn luôn hạ thấp mình với tâm hổ thẹn. Không kể công, không cầu danh lợi. Mãi hạ thấp mình mà không cần nổi tiếng và hết sức bình thường. Không mong để ý và lặng lẽ gánh chịu tất cả mà không cần trả giá. Khi tâm hành giả đạt đến giai đoạn này gọi là pháp môn tâm địa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2013(Xem: 17900)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 16235)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”. Và bản nguyện của Phật là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật của
17/12/2013(Xem: 8811)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
16/12/2013(Xem: 14053)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 35111)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
13/12/2013(Xem: 13811)
Khi tâm được bình an, vắng lặng, nhìn lại bà con thân thuộc thì thấy mọi người đều mải mê lặn hụp trong đau khổ, trong vòng lẩn quẩn của thương ghét, từ đó khởi lên tình thương mà đạo Phật gọi là từ bi... Thương ghét
11/12/2013(Xem: 35084)
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở Châu Ôn . Thuở nhỏ học tập kinh, luận và chuyên ròng về phép Chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế, do xem kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say.
10/12/2013(Xem: 22254)
Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tam Thập Tụng) của Bồ Tát Thế Thân, Vu Lăng Ba giảng, cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
10/12/2013(Xem: 24218)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
03/12/2013(Xem: 57655)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]