Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 15: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 7252)
Chương 15: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XV

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Niệm Phật được qua sinh tử

Kinh đại Tập nói rằng: ”Thời mạt pháp, ức vạn người tu hành, hiếm có một người được đạo. Chỉ nương pháp môn niệm Phật, được qua biển sinh tử”. Chúng ta học Phật phải biết tha thiết thể nhận. Tu hành vào thời mạt pháp này, muốn giải thoát sinh tử, nếu không tu pháp môn niệm Phật thì tất cả các pháp môn khác tuyệt đối không thể thành tựu. Rất mong mọi người đều có thể buông bỏ vọng tâm, thành thật chấp trì danh hiệu Phật. Nhất tâm niệm Phật mới thật sự đời này làm xong việc sinh tử, thoát khỏi vòng luân hồi.

2. Niệm Phật càng về sau càng quan trọng

Thời mạt pháp tương lai sẽ đến đoạn cuối cùng. Pháp môn niệm Phật nhất định càng về sau càng quan trọng. Chúng sinh đời vị lai phước báu mỏng dần, nghiệp chướng nặng thêm. Như ngày này một bộ kinh điển quý báu, để mặc cho hư hết, không xem tới. Có thể đến cuối cùng, Phật giáo tại thế gian còn lưu truyền một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Chúng sinh đã quá đau khổ, nương tựa một câu Phật hiệu là nương tựa vào sức thệ nguyện đại từ đại bi của Phật A-di-đà. Chỉ cần đơn giản chấp trì danh hiệu Phật, tin và nguyện vãng sinh, liền có thể nương nhờ sức Phật cứu vớt thoát khỏi biển khổ sinh tử. Như đây có thể thấy một câu Nam mô A-di-đà Phật thật tinh hoa vô cùng trong Tam tạng kinh điển của Phật giáo.

3. Mạng sống có hạn

Mạng sống có hạn. Chúng ta không thể có nhiều thời giờ bỏ phí. Người học Phật không thể lưng chừng lưỡng lự. Có lúc thấy cần tham thiền học mật chú, có lúc thấy cần đi sâu vào kinh giáo. Cần phải chân thật niệm Phật, dùng một pháp môn để thể nhập trí tuệ. Khéo léo nơi pháp môn niệm Phật mà hạ thủ công phu. Niệm thuần thục rồi, Tam tạng kinh điển bao hàm ở trong ấy. Thật ra, tất cả pháp môn thiền, mật hay luật đều thu nhiếp trong một câu Nam mô A-di-đà Phật. Thành tâm niệm Phật thì tất cả sự lợi ích đều có thể đạt được. Không thành tâm, đời này chỉ là kết duyên với Phật pháp mà thôi. Nói đến giải thoát sinh tử không có một chút tư cách.

4. Biển bổn nguyện của Phật Di-đà

Đại sư Thiện Đạo nói rằng: ”Nguyên nhân đức Phật xuất hiện ở đời, chỉ nói bổn nguyện của Phật Di-đà” Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì thế thị hiện nơi cõi Ta-bà Ngũ trược này, chính là dạy bảo chúng sinh đang đau khổ niệm một câu Nam mô A-di-đà Phật.

5. Thành thật

Thành thật là bí quyết mà người học Phật vào thời mạt pháp phải ghi nhớ trong tâm. Chúng ta nên nương vào một vị thiện tri thức chân chính, chỉ còn trong sinh hoạt hàng ngày phải thành thật niệm Phật, trì giới và sửa đổi thói quen xấu. Tất cả phải thành thật làm hết bổn phận. Trong tất cả việc tu hành, phải hết lòng thành thật làm hết bổn phận. Trong tất cả việc tu hành phải hết lòng thành thật, không nên nói huyền nói diệu, không vì danh lợi. Chỉ một lòng thành thật khởi niệm tin sâu, phát nguyện tha thiết cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Học Phật như đây rất dễ thành tựu.

6. Thành thật niệm Phật

Đại sư Liên Trì là bậc Tổ sư đời thứ nhất của tông Tịnh độ vào đời nhà Minh. Trước khi vãng sinh Cực Lạc đại chúng cầu thỉnh để lại lời di chúc. Đại sư dạy rằng ”Thành thật niệm Phật”. Tổ sư một đời tu hành chỉ để lại bốn chữ đơn giản, nhưng bốn chữ ấy đã nhiếp tất cả cương lĩnh của người tu hành thật sự bên trong. Vào thời mạt pháp, ma mạnh pháp yếu, chúng tà đầy dẫy. Chúng ta chỉ cần nắm chắc bốn chữ “thành thật niệm Phật” này làm nguyên tắc cho việc tu hành thì không bị tất cả tà ma ngăn trở, mê hoặc điên đảo.

7. Đệ tử Phật chân chánh

Tất cả việc tu hành không nên xa rời pháp niệm Phật, tất cả sự hành trì không nên trái với sự thành thật. Không niệm Phật, tu hành không thể thành tựu; không thành thật, tu hành không thể được đắc lực. Nhớ kỹ lời giáo huấn để lại của Đại sư Liên Trì; “Thành thật niệm Phật”. Chúng ta chỉ có thành thật trì danh hiệu Phật mới đúng là đệ tử chân chánh của Ngài.

8. Học Phật chân chánh

Nếu chúng ta đã chân chánh học Phật thì càng học càng đạt đến chỗ đơn giản và thuần thục, càng học nhất định càng khiêm tốn và luôn biết hổ thẹn. Đơn giản và thuần thục đến mức trong sinh hoạt chỉ là một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật tràn ngập trong tâm; tâm khiêm tốn đến lúc chỉ thấy tất cả mọi người đều là Bồ-tát, duy chỉ có mình ta là phàm phu. Lòng hổ thẹn nên tất cả việc tốt chỉ hướng cho người khác, nếu có việc xấu, lỗi lầm mình nhận lấy hết. Người có tâm lượng cao cả này trên đường học Phật sẽ đạt được thành tựu chân chánh.

9. Đối tượng của học tập

Đối tượng của chúng ta cần học tập chẳng phải là bậc đại pháp sư tiếng tăm đồn xa được vạn người yêu mến, cũng chẳng phải nhà đại thông gia có học vấn sâu rộng mà chính là hạng thường dân. Hạng thường dân này bản chất thật thà, trong sinh hoạt luôn nhất tâm niệm Phật, ngoài ra tất cả đều chẳng lo nghĩ. Giữ bổn phận như người ngu khở khạo. Như đây mới có thể thầm khế hợp với chỗ huyền diệu của đạo, chân chánh đạt đến chỗ lợi ích thật của Phật pháp.

10. Thật thà là quý, bình thường là phước

Hãy xem người chân chánh được vãng sanh đều là những người thật thà. Người không thật thà ở đời có thể kiếm được tiếng khen trống rỗng và danh dự suông, cuối cùng phần vãng sinh Cực Lạc thì lại càng ít. Vì thế thật thà và bình thường là phước báu. Người có thể hết sức thật thà và bình thường niệm danh hiệu Phật chính là người học Phật hạng nhất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2013(Xem: 17899)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 16235)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”. Và bản nguyện của Phật là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật của
17/12/2013(Xem: 8811)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
16/12/2013(Xem: 14050)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 35110)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
13/12/2013(Xem: 13811)
Khi tâm được bình an, vắng lặng, nhìn lại bà con thân thuộc thì thấy mọi người đều mải mê lặn hụp trong đau khổ, trong vòng lẩn quẩn của thương ghét, từ đó khởi lên tình thương mà đạo Phật gọi là từ bi... Thương ghét
11/12/2013(Xem: 35083)
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở Châu Ôn . Thuở nhỏ học tập kinh, luận và chuyên ròng về phép Chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế, do xem kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say.
10/12/2013(Xem: 22248)
Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tam Thập Tụng) của Bồ Tát Thế Thân, Vu Lăng Ba giảng, cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
10/12/2013(Xem: 24217)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
03/12/2013(Xem: 57651)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]