Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật học và Khoa học với cảm xúc phiền não

25/08/201219:18(Xem: 3062)
Phật học và Khoa học với cảm xúc phiền não

PHẬT HỌC & KHOA HỌC
VỚI CẢM XÚC PHIỀN NÃO
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển -21/8/2012

HHDL-by-rgmsNhiều khổ đau của con người xuất phát từ những cảm xúc phiền não, như thù hận sinh khởi bạo động và hay tham dục tạo ra mê đắm. Một trong những trách nhiệm căn bản nhất của chúng ta khi quan tâm đến con người là để làm vơi bớt những cái giá phải trả của loài người về những cảm xúc vượt ngoài vòng kiểm soát. Tôi cảm thấy rằng cả Phật học và khoa học đều có nhiều đóng góp.

Phật học và khoa học không là những quan điểm xung đột trên thế giới, nhưng đúng hơn là những phương pháp khác nhau đối với cùng kết quả: tìm kiếm sự thật. Trong sự rèn luyện của Phật học, điều cần yếu là khảo sát thực tại, và khoa học cống hiến những phương cách của chính nó để tiến hành sự khảo sát này. Trong khi những mục tiêu của khoa học có thể khác biệt với chủ tâm của Phật học, cả hai phương hướng trong việc tìm kiếm sự thật - chân lý đã mở rộng kiến thức và sự hiểu biết của chúng ta.

Sự đối thoại giữa khoa học và Phật học là một sự đàm luận hai chiều. Những Phật tử chúng tôi có thể sử dụng những khám phá của khoa học để làm sáng tỏ sự hiểu biết của chúng ta về thế giới mà chúng ta đang sống. Nhưng các nhà khoa học có thể cũng cũng có thể sử dụng một số tuệ giác từ Phật học. Có nhiều lãnh vực mà trong ấy Phật học có thể có thể đóng góp đối với sự thấu hiểu của khoa học, và trong những đối thoại Tâm Thức và Đời Sống đã tập trung trên một số chủ đề.

Thí dụ, khi đi đến sự hoạt động của tâm thức, Phật Giáo với khoa học nội tại hàng thế kỷ đã là mối quan tâm thực tiển đối với những nhà nghiên cứu về nhận thức và khoa học thần kinh và trong nghiên cứu về các cảm xúc, sự đóng góp trong những cống hiến nổi bật đối với sự hiểu biết của họ. Theo dõi những cuộc đối thoại của chúng tôi, vài nhà khoa học đã phát khởi những ý tưởng mới đối với việc tìm kiếm trong những lãnh vực họ.

Trái lại, Phật Giáo cũng có thể học hỏi từ khoa học. Tôi đã thường nói rằng nếu khoa học minh chứng những sự kiện xung đột với quan niệm của Phật Giáo, Phật Giáo phải thay đổi cho phù hợp. Chúng ta phải luôn luôn chấp nhận một quan điểm phù hợp với cơ sở lập luận. Nếu trên sự khảo sát chúng ta thấy rằng có lý do và sự chứng minh cho một quan điểm, thế thì chúng ta phải chấp nhận nó. Tuy nhiên, một sự khác biệt rõ ràng phải được thực hiện giữa những gì không thể được tìm thấy bởi khoa học và những gì được tìm ra là không tồn tại bởi khoa học. Những gì khoa học tìm thấy là không hiện hữu tất cả chúng ta nên chấp nhận như không tồn tại, nhưng những gì khoa học chỉ đơn thuần không tìm thấy lại là một vấn đề hoàn toàn khác biệt. Một thí dụ là chính tâm thức. Mặc dù chúng sinh, kể cả loài người, từng trải nghiệm tâm thức trong hàng thế kỷ, nhưng chúng ta vân không biết tâm thức thật sự là gì: bản chất trọn vẹn của nó và nó thể hiện chức năng như thế nào.

Trong xã hội hiện đại, khoa học đã trở thành một năng lực chính yếu trong sự phát triển của loài người và thế gian. Trong cách này, những sáng kiến kỷ thuật chịu trách nhiệm cho tiến trình vật chất vĩ đại. Tuy nhiên, khoa học không có tất cả những câu trả lời, nhiều hơn bất kỳ tôn giáo nào đã làm trong quá khứ. Càng theo đuổi sự cải thiện vật chất, quên lãng ý toại nguyện đến từ sự phát triển nội tại, những giá trị đạo đức càng biến mất một cách nhanh chóng hơn trong xã hội chúng ta. Rồi thì tất cả chúng ta sẽ phải trải nghiệm những nổi khốn khổ trong tương lai dài về sau, vì khi ấy không có chỗ cho công lý và lòng trung thực trong trái tim con người, những kẻ yếu sẽ là những người chịu khổ sở đầu tiên. Và những sự phẩn uất kết quả từ sự bất công căn bản ấy ảnh hưởng một cách thù địch đến mọi người.

Với sự tác động lớn mạnh không ngừng của khoa học đến đời sống chúng ta, tôn giáo và tâm linh có một vai trò lớn hơn trong việc nhắc nhở chúng ta về loài người chúng ta. Những gì chúng ta phải làm để cân bằng tiến trình khoa học và vật chất với ý nghĩa trách nhiệm đến từ sự phát triển nội tại. Đó là tại sao tôi tin tưởng cuộc đối thoại này giữa tôn giáo và khoa học là quan trọng, vì từ đấy có thể đi đến những sự phát triển có thể lợi lạc lớn lao cho nhân loại.

Khi nói đến những rắc rối của con người biểu thị bởi những cảm xúc phiền não của chúng ta, Đạo Phật có nhiều điều để nói với khoa học. Một mục tiêu trọng tâm của sự thực tập Phật Giáo là để giảm thiểu năng lực của những cảm xúc tàn phá trong đời sống chúng ta. Với mục tiêu ấy trong tâm, Đạo Phật cống hiến những lý thuyết tuệ giác và những phương pháp thực hành ở những trình độ thứ bậc rộng rãi. Nếu bất cứ những phương thức nào trong đây có thể được biểu lộ qua những sự thử nghiệm khoa học là có lợi ích, thế thì có mọi lý do để tìm ra những phương cách để làm cho chúng tiện lợi đến mọi người, cho dù người ta có quan tâm đến chính Đạo Phật hay không.

Những sự lượng định khoa học như vậy là một kết quả trong sự đối thoại của chúng tôi. Tôi vui mừng để nói rằng cuộc thảo luận Tâm Thức và Đời Sống trình bày trong quyển sách này hơn là một gặp gở của những tâm thức giữa Phật học và Khoa học. Các nhà khoa học đã đi một bước vươn xa và đã từng bắt đầu những chương trình để thử nghiệm một vài phương pháp của Đạo Phật có thể hữu ích đến tất cả những sự đối phó với các cảm xúc phiền não.

Tôi kêu gọi độc giả của quyển sách này tham gia trong những sự giải thích của chúng tôi về các nguyên nhân và chửa trị cho những cảm xúc tàn phá, và để quán chiếu trên nhiều câu hỏi được nêu lên có tầm trọng thuyết phục và thôi thúc tất cả chúng ta. Tôi hy vọng các bạn sẽ tìm thấy sự chạm trán này giữa khoa học và Đạo Phật cũng hào hứng như tôi.

Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Ngày 28-8-202

Nguyên tác: Lời giới thiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho quyển Destructive Emotions - How Can We Overcome Them?

Ẩn Tâm Lộ ngày 22-8-2012

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 12501)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6680)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8803)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7825)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31810)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 20308)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16721)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10633)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11776)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12241)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567