Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Quang Minh Vô Lượng (Đại nguyện thứ 12 của Đức Phật A Di Đà, bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong đại địch Covid-19)

02/02/202106:58(Xem: 13558)
12. Quang Minh Vô Lượng (Đại nguyện thứ 12 của Đức Phật A Di Đà, bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong đại địch Covid-19)

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học Đại Nguyện thứ 12 của Đức Phật A Di Đà, Quang Minh Vô Lượng. Đức Phật A Di Đà phát nguyện ánh sáng của Ngài chiếu khắp mười phương Phật độ không chướng ngại, nếu không được như vậy thì Ngài không ở ngôi chánh đẳng chánh giác.

Sư Phụ giải thích ánh sáng này lưu xuất từ trí tuệ của Đức Phật A Di Đà là về sự, về lý mỗi chúng sanh đều có ánh sáng tự tánh A Di Đà bên trong.
Ánh sáng này do từ năng lực tu tập Phước Đức của mỗi hành giả, khi niệm thành tâm danh hiệu A Di Đà Phật thì tiếp nhận được ánh sáng của Phật từ phương Tây.

Sư Phụ khai thị những người sắp lâm chung cố gắng niệm danh hiệu Phật A Di Đà để bắt được ánh sáng của Ngài, nhờ ánh sáng này, thần thức sẽ đi vãng sanh sau khi tắt thở. Ngài lạt ma Tây Tạng cho biết ánh sáng này xuất hiện khoảng trong một bửa ăn đủ để cho người hữu duyên đi về cõi Phật. Sư Phụ khuyên nên tu tập nội tâm thành thói quen thì khi tiếp cận ánh sáng A Di Đà bắt nhận được ngay.
Con cảm ơn Sư Phụ đã xướng lễ 12 câu đảnh lễ Phật A Di Đà:

1/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, VÔ LƯỢNG QUANG Như Lai. 
2/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, VÔ BIÊN QUANG Như Lai. 
3/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, VÔ NGẠI QUANG Như Lai. 
4/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, VÔ ĐỐI QUANG Như Lai. 
5/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, DIỆM VƯƠNG QUANG Như Lai. 
6/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, THANH TỊNH QUANG Như Lai. 
7/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, HOAN HỶ QUANG Như Lai. 
8/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, TRÍ HUỆ QUANG Như Lai. 
9/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, NAN TƯ QUANG Như Lai. 
10/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, BẤT ĐOẠN QUANG Như Lai. 
11/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, VÔ XỨNG QUANG Như Lai. 
12/Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, SIÊU NHỰT NGUYỆT QUANG Như Lai. 

Sư phụ đã giải thích:


1-vô lượng quang, ánh sáng chiếu khắp trong không gian vô biên và thời gian vô cùng trong khi ánh sáng mặt trời chỉ có ban ngày, mặt trăng chỉ chiếu ban đêm.
2-vô biên quang, chiếu khắp mười phương không có giới hạn.
3-vô ngại quang, ánh sáng Phật chiếu khắp từ tâm thức chúng sanh ra ngoài không chướng ngại.
4-vô đối quang, là ánh sáng siêu Việt không có gì có thể so sánh được.
5- diệm vương quang, là ngọn lữa ánh sáng tối thượng đốt cháy tất cả phiền não khổ đau âm ỷ trong tâm thức.
6- thanh tịnh quang, lưu xuất từ thể tánh thanh tịnh của tất cả hành giả.
7-hoan hỉ quang, lưu xuất từ thể tánh hoan hỉ của hành giả.
8- trí tuệ quang, lưu xuất từ thể tánh vô si của Đức Phật A Di Đà, một niệm A Di Đà không xen tạp một niệm nào hết thì hành giả hoà nhập với ánh sáng của Phật A Di Đà.
9- nan tư quang, ánh sáng của Phật A Di Đà không thể nghĩ bàn.
10-bất đoạn quang, ánh sáng của Phật không có gián đoạn bởi không gian và thời gian, hành giả niệm Phật cần liên tục miên mật.
11-vô xưng quang, ánh sáng của Phật A Di Đà không có ngôn ngữ nào có thể tồn xưng, tán dương hết được.
12-siêu nhật nguyệt quang,vượt qua ánh sáng mặt trời và mặt trăng, chiếu khắp mười phương quốc độ, xuyên suốt không gian và thời gian.

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ giải thích rõ về năng lực siêu tột của ánh sáng của Đức Phật A Di Đà cũng là năng lực tự tánh Phật có trong tất cả chúng sanh, mỗi hành giả phải biết tu tập miên mật để ánh sáng Di Đà tự tánh hiển lộ và tiếp cận với ánh sáng của quốc độ Phật.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).   




TT Thích Nguyên Tạng, Đại Nguyện Thứ  12, Quang Minh Vô Lượng
Vô Lượng Quang lưu xuất từ Trí Tuệ và Phước Đức ! 

Đại nguyện thứ 12 : QUANG MINH VÔ LƯỢNG 

(Giả sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng,

tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.)

Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về đại nguyện thứ 12 .
Cung kính tri ân Thầy, nguyện khắc ghi 12 lạy này
để làm tư lương cho bây giờ và ngày sau ...kính chúc sức khỏe Thày ,HH



Tất cả yếu nghĩa đại nguyện này nằm trong 12 lạy, 

Sau thời kinh chiều tụng Tiểu Bổn A Di Đà 

Kính mạn phép ghi lại ..mãi nhớ trong ta 

Khắc sâu vào tâm thức ...rất cần cho giờ cuối ! 



Cổ Đức đã từng dạy "Nhất Niệm thông Tam giới "

Sự là Phật A Di Đà và Lý ..chính Ngài là bản thân ta 

Ánh sáng vô lượng do tu tập hành trì ...Trí Tuệ phát sinh ra 

Kính  mời :....chiêm nghiệm và đảnh lễ 12 loại Ánh Sáng 



1- Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới DiĐà Hải Hội Vô Lượng Quang Như Lai

2-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Vô Biên Quang Như Lai

3-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Vô Ngại  Quang Như Lai

4-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Vô Đới  Quang Như Lai

5-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Diệm Vương Quang Như Lai

6-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Thanh Tịnh Quang Như Lai

7- Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Hoan Hỷ  Quang Như Lai

8-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Trí Tuệ  Quang Như Lai

9-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Bất Đoạn  Quang Như Lai

10-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Nan Tư  Quang Như Lai

11-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Vo Sơn Quang Như Lai

12-Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc giới Di Đà Hải Hội Siêu Nhật Nguyệt  Quang Như Lai



Kính mời nghe pháp thoại sẽ liễu tri từng ý nghĩa nhiệm mầu !



Nam Mô A Di Đà Phật 

Huệ Hương 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/12/2016(Xem: 14555)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 9575)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo. Ngài đã thuyết giảng bài Kinh này cho 5 người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia là Kondanna (người Trung Hoa phiên âm là Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama, Asaji tại vườn Lộc Uyển (Deer Park). Bài thuyết Pháp này được ghi lại trong Bộ Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya) quyển V (Pali edition, p.420).
25/12/2016(Xem: 6049)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 28832)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
09/11/2016(Xem: 10846)
Bài viết này [“Biểu nhất lảm Tam Tạng Kinh Điển Phật giáo” (An Overview of the Buddhist Tripataka)] nhằm cung cấp một cái nhìn duyệt qua kho tàng Kinh điển Phật giáo từ ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni [khoảng 560 – 480 trước Công Nguyên (tr. CN)] còn tại thế cho đến ngày nay. Đạo Phật đã có một lịch sử trên 2.500 năm.
30/04/2016(Xem: 17505)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35634)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
02/07/2015(Xem: 15302)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
15/06/2015(Xem: 6473)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
15/05/2015(Xem: 26342)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]