Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiện Và Bất Thiện Trong Phật Giáo

26/03/201311:23(Xem: 3840)
Thiện Và Bất Thiện Trong Phật Giáo
Thiện Và Bất Thiện Trong Phật Giáo
Nguyên Hiệp

flower-01Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức. Tuy nhiên, tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân.

Một người, lối sống và hành vi của vị ấy, có khi đối với cộng đồng xã hội này, với cách nhìn của người này là tốt, nhưng đối với cộng đồng khác, cách nhìn của người khác, có thể là xấu. Và một hành vi, có thể ở thời điểm này là tốt, nhưng ở một thời điểm khác chưa hẳn được xem là tốt. Tốt và xấu, như vậy là quy ước, tương đối, và tùy thuộc vào cách nhìn, quan niệm, thái độ… Hẳn nhiên cũng có một số hành vi được xác định là tốt hay xấu có tính chất phổ quát hơn, chẳng hạn như trộm cắp, nói dối hay giết người… Tuy nhiên, trộm cắp, nói dối hay giết người đôi khi cũng được biện minh, xem như là một hành vi cần thiết trong những tình huống cần thiết! Nói cách khác, những hành vi này đôi khi vẫn không bị xem là phi đạo đức!

Trong Phật giáo, có hai thuật ngữ có nghĩa gần với hai khái niệm tốt và xấu, đó là kusala akusala. Hai thuật ngữ này thường được chuyển dịch sang tiếng Việt là thiện và bất thiện; và thường được dịch sang tiếng Anh là "good" và "bad", hay "skilful" và "unskilful". Trong kinh tạng Pāli, có hai thuật ngữ khác cũng có nghĩa là thiện và bất thiện, đó là pāpapuñña. Nhưng hai thuật ngữ pāpapuññacũng được sử dụng trong Ấn giáo, và thường đề cập đến việc tạo nghiệp lành (pāpa kamma) hay nghiệp ác (puñña kamma) trong việc liên hệ đến tái sanh. Pāpa kammathường được hiểu là một hành động xấu ác đưa đến khổ đau và tái sanh vào các ác thú (cảnh giới khổ đau), trong khi puñña kammalà việc làm thiện, đưa đến sự tái sanh về thiên giới (được xem là cảnh giới có nhiều vui thú).

Nhưng thế nào là thiện và thế nào là bất thiện theo quan điểm Phật giáo. Thiện, như được định nghĩa trong kinh sách, là những suy nghĩ, lời nói và việc làm đem đến lợi ích cho mình, cho người và cho những loài sống khác, và ngược lại là bất thiện. Trong kinh Giáo giới La Hầu La ở rừng Ambala(Ambalatthikā Rāhulovāda sutta, Trung bộ, kinh số 61), Đức Phật đã giảng giải về thiện và bất thiện như sau:

"Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ…". Và, "Thân nghiệp này của ta đang làm. Thân nghiệp này của ta không đưa đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Cũng tương tự như vậy đối với miệng và ý. Qua những gì được trình bày trong bản kinh này, ta có thể sắp xếp thiện và bất thiện theo những tiêu chí sau:

1. Hành vi bất thiện (akusala kamma):

a) Những hành vi làm hại chính mình

b) Những hành vi làm hại kẻ khác

c) Những hành vi làm hại chính mình và kẻ khác

2. Hành vi thiện (kusala kamma):

a) Những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) chính mình

b) Những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) kẻ khác

c) Những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) mình và kẻ khác.

Một người khi thân, khẩu và ý hành động, nói năng và suy nghĩ thiện thì được gọi là đang tạo ra nghiệp thiện (kusala/ pāpa kamma); và một người khi hành động, nói năng và suy nghĩ những điều xấu ác thì đang tạo ra nghiệp ác (akusala/ puñña kamma). Và theo đây, thiện và bất thiện cũng được nhìn từ kết quả của nó. Tức là hành vi thiện thì sẽ đưa đến sự an lạc, hạnh phúc; và hành vi ác sẽ đưa đến sự đau khổ, bất an. Nói cách khác, nếu ta có được sự an lạc, hạnh phúc, đó là do ta đã tạo ra những nghiệp thiện, và ngược lại. Và nếu nhìn từ góc độ này, ta có thể nhận biết là ta có đạo đức hay không trong quá khứ qua những gì mà ta đang “gặt” ở thời điểm hiện tại. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong kinh Trung bộ có liên hệ đến khía cạnh này:

“Và này Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại.” Và, “Này Punna, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không có tổn hại, khẩu hành không có tổn hại, ý hành không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không có tổn hại” (Kinh Hạnh con chó/ Kukkuravatika sutta, kinh số 57).

Ở nơi khác, thiện và bất thiện được căn cứ ở trên việc đoạn trừ tham-sân-si. Trong Trường bộ kinh, Đức Phật nói rằng thiện là không tham, không sân và không si mê; và ngược lại, bất thiện là tham, sân và si mê (Xem kinh Sangīti sutta/ Phúng tụng, số 33). Như vậy, bất cứ hành vi nào, nếu nó được thực hiện bằng tâm không tham-sân-si thì được coi là thiện, và ngược lại.

Trong kinh Trung bộ, thiện và bất thiện cũng được định nghĩa tương tự: “Chư hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bổn bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bổn thiện? Chư hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Chư hiền, như vậy gọi là bất thiện… Và này chư hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư hiền, như vậy gọi là thiện” (kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).

Căn cứ vào đoạn kinh trên ta có thể xếp những nghiệp thiện và bất thiện theo những nhóm sau: Những nghiệp bất thiện (nghiệp ác) bao gồm: a) Về thân: sát sanh, trộm cắp, dâm dật. b) Về khẩu: nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. c) Về ý: tham lam, giận hờn, si mê. Những nghiệp thiện được chia ra như sau: a) Về thân: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dật. b) Về khẩu: không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác. c) Về ý: không tham lam, không giận hờn, không si mê. Như vậy qua bài kinh này, cũng như được giảng giải rõ ràng và chi tiết hơn ở trong kinh Thập thiện nghiệp đạo (Taisho Tripitaka Vol. 15, No. 600), ta có mười tiêu chí để nhận biết những gì là thiện và những gì là bất thiện.

Như vậy, bất cứ lời nói, hành vi hay suy nghĩ nào phát xuất từ tham-sân-si đều được coi là bất thiện, và ngược lại. Vì tam độc này được xem là gốc rễ từ đó phát xuất những hành vi bất thiện, nên chúng được xem là nền tảng của điều xấu ác, hay nói cách khác là nền tảng (căn bổn) của đời sống phi đạo đức: “Chư hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện…. Chư hiền, thế nào là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện” (Trung bộkinh, kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).

Tương tự như vậy, kinh Tăng chi bộcũng xem gốc rễ (căn bản) của bất thiện là tham-sân-si: "Này các Tỳ-kheo, có ba căn bản bất thiện. Thế nào là ba? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện". (Tăng chi bộ, 3: 69. Kinh Phật thuyết như vậy, chương Ba pháp, phẩm 1).

Trong kinh tạng, đôi khi cũng đề cập một cách cụ thể hơn về những hành vi gì được coi là thiện hay bất thiện. Những việc làm như bố thí, trì giới, tu tập (bhāvanā), nhẫn nhục… thì được coi là thiện. Trong khi bất thiện là không thực hiện những điều này. Nói cách khác, một người xan tham, không tuân thủ giới luật và không tu tập… thì được coi là bất thiện. Và, những hành vi được coi tạo nên nghiệp ác nhất (phi đạo đức nhất) là: giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, làm thương tổn Đức Phật, và phá sự hòa hợp của Tăng đoàn.

Trong Phật giáo, thiện và bất thiện có liên hệ mật thiết đến những trạng thái tâm lý. Nói cách khác, thiện hay bất thiện không chỉ thể hiện qua việc làm bên ngoài, không chỉ liên quan đến ý nghĩ, lời nói và hành vi, mà còn được nhìn từ những trạng thái tâm lý. Ví dụ, sự chán nản, thất vọng, buồn phiền,… có thể được xem là bất thiện; trong khi sự tinh tấn, hoan hỷ, an vui tự tại… lại được xem là thiện. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng, các trạng thái tâm lý này có những ảnh hưởng nhất định đến suy nghĩ, lời nói và hành vi. Những trạng thái tâm lý tích cực, có thể đưa đến những lời nói hay hành vi tích cực; và ngược lại, những trạng thái tâm lý tiêu cực, có thể đưa đến những hành vi và lời nói tiêu cực.

Duy thức học Phật giáo (bộ môn Tâm lý học của Phật giáo Đại thừa) đã phân chia những trạng thái tâm lý thiện và bất thiện thành hai nhóm như sau: 1. Những (trạng thái) tâm thiện bao gồm: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, và bất hại. 2. Những (trạng thái) tâm bất thiện bao gồm: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ác kiến lại chia thành năm: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Bên cạnh, các trạng thái tâm gây nên phiền não (tùy phiền não) cũng được coi là nhưng trạng thái tâm bất thiện, gồm có: a) Tiểu tùy, có 10: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuồng, siễm, hại, kiêu. b) Trung tùy, có 2: vô tàm, vô quý. c) Đại tùy, có 8: trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.

Thiện, bất thiện và giải thoát

Thiện và bất thiện không chỉ là tác nhân đưa đến việc tái sanh vào những cảnh giới an lành hay khổ đau, mà cũng là cơ sở của việc giải thoát hay đọa lạc. Nếu như việc đoạn trừ tham-sân-si được coi là tiêu chí để nhận biết một người có được sự giải thoát hay không, thì đích sau cùng của thiện là sự giải thoát. Ta có thể tìm thấy điều này qua đoạn kinh sau:

Với Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào, này các Tỳ-kheo, tham chưa đoạn tận, sân chưa đoạn tận, si chưa đoạn tận; này các Tỳ-kheo, vị ấy được gọi là vị chưa vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La-sát. Này các Tỳ-kheo, với Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào, tham đã đoạn tận, sân đã đoạn tận, si đã đoạn tận; này các Tỳ-kheo, vị ấy được gọi là: "Đã vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La-sát, đã vượt qua bờ kia, là vị Bà-la-môn đã đứng trên đất liền" (Kinh Phật thuyết như vậy, chương Ba, phẩm II).

Và một đoạn khác:

"Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết-bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu". Tương tự như vậy đối với sân và si (Tăng chi bộ kinh: 3.55).

Đạo đức Phật giáo (ở phạm vi giới luật) thường được nghĩ là phương tiện để đưa đến định và sau đó là tuệ. Nhưng ở đây chúng ta có thể thấy, nếu hành vi thiện được coi là hành vi có đạo đức, thì đạo đức trong ý nghĩa vắng mặt tham-sân-si, chính nó đã là mục đích cuối cùng.

Kết luận

Từ những thảo luận sơ lược ở trên, ta thấy thiện và bất thiện trong Phật giáo có nghĩa rộng hơn những quy ước đạo đức ở trong xã hội như đúng và sai, tốt và xấu. Thiện không những là những quy tắc đạo đức quy ước cần phải thực hiện, hay những điều tốt cần nên làm để giúp người hay các loài sống khác (hay không thực hiện những hành vi làm tổn hại con người, xã hội và các loài sống khác), mà thiện cũng còn là phương cách tu tập và đào luyện tâm. Và nếu gốc rễ của thiện, như được đề cập ở trên, là không tham, không sân và không si, thì thiện không những giúp người ta hoàn thiện nhân cách và phẩm hạnh ở trong đời sống xã hội, mà còn là con đường đưa hành giả đến sự giải thoát. Do đó, tuệ tri về thiện và bất thiện, cũng như tuệ tri về gốc rễ của thiện và bất thiện, là điều quan trọng trong lộ trình tu đạo, như đã được đề cập trong kinh tạng: "Chư hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bổn thiện, chư hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này" (Trung bộ kinh, kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).
Nguyên Hiệp
(Nguyệt San Giác Ngộ)

(CÙNG TÁC GIẢ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 16691)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 3605)
Vô Tầm Vô Tứ Định là tầng Định thứ hai trong bốn chi Thiền do đức Phật thiết lập. Bốn chi Thiền đó gồm Sơ Thiền tương xứng với Sơ Định hay Định Hữu Tầm Hữu Tứ, Nhị Thiền tương xứng với Vô Tầm Vô Tứ Định, Tam Thiền tương xứng với Xả hay An Chỉ Định, Tứ Thiền tương xứng với Chánh Định.
08/11/2021(Xem: 11754)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12214)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
04/10/2021(Xem: 2739)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
05/09/2021(Xem: 15100)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
18/08/2021(Xem: 3398)
Hôm nay là ngày 15/8 dương lịch nhằm ngày mồng Tám tháng Bảy, Tân Sửu. Chỉ còn một tuần nữa là tới Rằm tháng Bảy. Rằm tháng Bảy âm lịch là ngày mà các chùa theo đạo Phật khắp nơi trên thế giới đều tổ chức Lễ Vu-Lan rất trọng thể. Lễ Vu-Lan từ lâu đã được xem như là ngày Lễ Báo Hiếu của những người con dành cho bậc cha mẹ.
23/07/2021(Xem: 11967)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16805)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12613)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567