Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiện Và Bất Thiện Trong Phật Giáo

26/03/201311:23(Xem: 4455)
Thiện Và Bất Thiện Trong Phật Giáo
Thiện Và Bất Thiện Trong Phật Giáo
Nguyên Hiệp

flower-01Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức. Tuy nhiên, tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân.

Một người, lối sống và hành vi của vị ấy, có khi đối với cộng đồng xã hội này, với cách nhìn của người này là tốt, nhưng đối với cộng đồng khác, cách nhìn của người khác, có thể là xấu. Và một hành vi, có thể ở thời điểm này là tốt, nhưng ở một thời điểm khác chưa hẳn được xem là tốt. Tốt và xấu, như vậy là quy ước, tương đối, và tùy thuộc vào cách nhìn, quan niệm, thái độ… Hẳn nhiên cũng có một số hành vi được xác định là tốt hay xấu có tính chất phổ quát hơn, chẳng hạn như trộm cắp, nói dối hay giết người… Tuy nhiên, trộm cắp, nói dối hay giết người đôi khi cũng được biện minh, xem như là một hành vi cần thiết trong những tình huống cần thiết! Nói cách khác, những hành vi này đôi khi vẫn không bị xem là phi đạo đức!

Trong Phật giáo, có hai thuật ngữ có nghĩa gần với hai khái niệm tốt và xấu, đó là kusala akusala. Hai thuật ngữ này thường được chuyển dịch sang tiếng Việt là thiện và bất thiện; và thường được dịch sang tiếng Anh là "good" và "bad", hay "skilful" và "unskilful". Trong kinh tạng Pāli, có hai thuật ngữ khác cũng có nghĩa là thiện và bất thiện, đó là pāpapuñña. Nhưng hai thuật ngữ pāpapuññacũng được sử dụng trong Ấn giáo, và thường đề cập đến việc tạo nghiệp lành (pāpa kamma) hay nghiệp ác (puñña kamma) trong việc liên hệ đến tái sanh. Pāpa kammathường được hiểu là một hành động xấu ác đưa đến khổ đau và tái sanh vào các ác thú (cảnh giới khổ đau), trong khi puñña kammalà việc làm thiện, đưa đến sự tái sanh về thiên giới (được xem là cảnh giới có nhiều vui thú).

Nhưng thế nào là thiện và thế nào là bất thiện theo quan điểm Phật giáo. Thiện, như được định nghĩa trong kinh sách, là những suy nghĩ, lời nói và việc làm đem đến lợi ích cho mình, cho người và cho những loài sống khác, và ngược lại là bất thiện. Trong kinh Giáo giới La Hầu La ở rừng Ambala(Ambalatthikā Rāhulovāda sutta, Trung bộ, kinh số 61), Đức Phật đã giảng giải về thiện và bất thiện như sau:

"Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ…". Và, "Thân nghiệp này của ta đang làm. Thân nghiệp này của ta không đưa đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Cũng tương tự như vậy đối với miệng và ý. Qua những gì được trình bày trong bản kinh này, ta có thể sắp xếp thiện và bất thiện theo những tiêu chí sau:

1. Hành vi bất thiện (akusala kamma):

a) Những hành vi làm hại chính mình

b) Những hành vi làm hại kẻ khác

c) Những hành vi làm hại chính mình và kẻ khác

2. Hành vi thiện (kusala kamma):

a) Những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) chính mình

b) Những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) kẻ khác

c) Những hành vi làm lợi ích (hay không làm hại) mình và kẻ khác.

Một người khi thân, khẩu và ý hành động, nói năng và suy nghĩ thiện thì được gọi là đang tạo ra nghiệp thiện (kusala/ pāpa kamma); và một người khi hành động, nói năng và suy nghĩ những điều xấu ác thì đang tạo ra nghiệp ác (akusala/ puñña kamma). Và theo đây, thiện và bất thiện cũng được nhìn từ kết quả của nó. Tức là hành vi thiện thì sẽ đưa đến sự an lạc, hạnh phúc; và hành vi ác sẽ đưa đến sự đau khổ, bất an. Nói cách khác, nếu ta có được sự an lạc, hạnh phúc, đó là do ta đã tạo ra những nghiệp thiện, và ngược lại. Và nếu nhìn từ góc độ này, ta có thể nhận biết là ta có đạo đức hay không trong quá khứ qua những gì mà ta đang “gặt” ở thời điểm hiện tại. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong kinh Trung bộ có liên hệ đến khía cạnh này:

“Và này Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại.” Và, “Này Punna, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không có tổn hại, khẩu hành không có tổn hại, ý hành không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không có tổn hại” (Kinh Hạnh con chó/ Kukkuravatika sutta, kinh số 57).

Ở nơi khác, thiện và bất thiện được căn cứ ở trên việc đoạn trừ tham-sân-si. Trong Trường bộ kinh, Đức Phật nói rằng thiện là không tham, không sân và không si mê; và ngược lại, bất thiện là tham, sân và si mê (Xem kinh Sangīti sutta/ Phúng tụng, số 33). Như vậy, bất cứ hành vi nào, nếu nó được thực hiện bằng tâm không tham-sân-si thì được coi là thiện, và ngược lại.

Trong kinh Trung bộ, thiện và bất thiện cũng được định nghĩa tương tự: “Chư hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bổn bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bổn thiện? Chư hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Chư hiền, như vậy gọi là bất thiện… Và này chư hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư hiền, như vậy gọi là thiện” (kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).

Căn cứ vào đoạn kinh trên ta có thể xếp những nghiệp thiện và bất thiện theo những nhóm sau: Những nghiệp bất thiện (nghiệp ác) bao gồm: a) Về thân: sát sanh, trộm cắp, dâm dật. b) Về khẩu: nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. c) Về ý: tham lam, giận hờn, si mê. Những nghiệp thiện được chia ra như sau: a) Về thân: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dật. b) Về khẩu: không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác. c) Về ý: không tham lam, không giận hờn, không si mê. Như vậy qua bài kinh này, cũng như được giảng giải rõ ràng và chi tiết hơn ở trong kinh Thập thiện nghiệp đạo (Taisho Tripitaka Vol. 15, No. 600), ta có mười tiêu chí để nhận biết những gì là thiện và những gì là bất thiện.

Như vậy, bất cứ lời nói, hành vi hay suy nghĩ nào phát xuất từ tham-sân-si đều được coi là bất thiện, và ngược lại. Vì tam độc này được xem là gốc rễ từ đó phát xuất những hành vi bất thiện, nên chúng được xem là nền tảng của điều xấu ác, hay nói cách khác là nền tảng (căn bổn) của đời sống phi đạo đức: “Chư hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện…. Chư hiền, thế nào là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện” (Trung bộkinh, kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).

Tương tự như vậy, kinh Tăng chi bộcũng xem gốc rễ (căn bản) của bất thiện là tham-sân-si: "Này các Tỳ-kheo, có ba căn bản bất thiện. Thế nào là ba? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện". (Tăng chi bộ, 3: 69. Kinh Phật thuyết như vậy, chương Ba pháp, phẩm 1).

Trong kinh tạng, đôi khi cũng đề cập một cách cụ thể hơn về những hành vi gì được coi là thiện hay bất thiện. Những việc làm như bố thí, trì giới, tu tập (bhāvanā), nhẫn nhục… thì được coi là thiện. Trong khi bất thiện là không thực hiện những điều này. Nói cách khác, một người xan tham, không tuân thủ giới luật và không tu tập… thì được coi là bất thiện. Và, những hành vi được coi tạo nên nghiệp ác nhất (phi đạo đức nhất) là: giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, làm thương tổn Đức Phật, và phá sự hòa hợp của Tăng đoàn.

Trong Phật giáo, thiện và bất thiện có liên hệ mật thiết đến những trạng thái tâm lý. Nói cách khác, thiện hay bất thiện không chỉ thể hiện qua việc làm bên ngoài, không chỉ liên quan đến ý nghĩ, lời nói và hành vi, mà còn được nhìn từ những trạng thái tâm lý. Ví dụ, sự chán nản, thất vọng, buồn phiền,… có thể được xem là bất thiện; trong khi sự tinh tấn, hoan hỷ, an vui tự tại… lại được xem là thiện. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng, các trạng thái tâm lý này có những ảnh hưởng nhất định đến suy nghĩ, lời nói và hành vi. Những trạng thái tâm lý tích cực, có thể đưa đến những lời nói hay hành vi tích cực; và ngược lại, những trạng thái tâm lý tiêu cực, có thể đưa đến những hành vi và lời nói tiêu cực.

Duy thức học Phật giáo (bộ môn Tâm lý học của Phật giáo Đại thừa) đã phân chia những trạng thái tâm lý thiện và bất thiện thành hai nhóm như sau: 1. Những (trạng thái) tâm thiện bao gồm: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, và bất hại. 2. Những (trạng thái) tâm bất thiện bao gồm: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ác kiến lại chia thành năm: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Bên cạnh, các trạng thái tâm gây nên phiền não (tùy phiền não) cũng được coi là nhưng trạng thái tâm bất thiện, gồm có: a) Tiểu tùy, có 10: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuồng, siễm, hại, kiêu. b) Trung tùy, có 2: vô tàm, vô quý. c) Đại tùy, có 8: trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.

Thiện, bất thiện và giải thoát

Thiện và bất thiện không chỉ là tác nhân đưa đến việc tái sanh vào những cảnh giới an lành hay khổ đau, mà cũng là cơ sở của việc giải thoát hay đọa lạc. Nếu như việc đoạn trừ tham-sân-si được coi là tiêu chí để nhận biết một người có được sự giải thoát hay không, thì đích sau cùng của thiện là sự giải thoát. Ta có thể tìm thấy điều này qua đoạn kinh sau:

Với Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào, này các Tỳ-kheo, tham chưa đoạn tận, sân chưa đoạn tận, si chưa đoạn tận; này các Tỳ-kheo, vị ấy được gọi là vị chưa vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La-sát. Này các Tỳ-kheo, với Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào, tham đã đoạn tận, sân đã đoạn tận, si đã đoạn tận; này các Tỳ-kheo, vị ấy được gọi là: "Đã vượt qua đại dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La-sát, đã vượt qua bờ kia, là vị Bà-la-môn đã đứng trên đất liền" (Kinh Phật thuyết như vậy, chương Ba, phẩm II).

Và một đoạn khác:

"Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết-bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu". Tương tự như vậy đối với sân và si (Tăng chi bộ kinh: 3.55).

Đạo đức Phật giáo (ở phạm vi giới luật) thường được nghĩ là phương tiện để đưa đến định và sau đó là tuệ. Nhưng ở đây chúng ta có thể thấy, nếu hành vi thiện được coi là hành vi có đạo đức, thì đạo đức trong ý nghĩa vắng mặt tham-sân-si, chính nó đã là mục đích cuối cùng.

Kết luận

Từ những thảo luận sơ lược ở trên, ta thấy thiện và bất thiện trong Phật giáo có nghĩa rộng hơn những quy ước đạo đức ở trong xã hội như đúng và sai, tốt và xấu. Thiện không những là những quy tắc đạo đức quy ước cần phải thực hiện, hay những điều tốt cần nên làm để giúp người hay các loài sống khác (hay không thực hiện những hành vi làm tổn hại con người, xã hội và các loài sống khác), mà thiện cũng còn là phương cách tu tập và đào luyện tâm. Và nếu gốc rễ của thiện, như được đề cập ở trên, là không tham, không sân và không si, thì thiện không những giúp người ta hoàn thiện nhân cách và phẩm hạnh ở trong đời sống xã hội, mà còn là con đường đưa hành giả đến sự giải thoát. Do đó, tuệ tri về thiện và bất thiện, cũng như tuệ tri về gốc rễ của thiện và bất thiện, là điều quan trọng trong lộ trình tu đạo, như đã được đề cập trong kinh tạng: "Chư hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bổn thiện, chư hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này" (Trung bộ kinh, kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).
Nguyên Hiệp
(Nguyệt San Giác Ngộ)

(CÙNG TÁC GIẢ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 163)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 161)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 147)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 131)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 123)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 149)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 153)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 139)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 843)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]