Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Niết-bàn và sự chấm dứt luân hồi - Thích Hiển Chánh

16/05/201314:22(Xem: 2732)
18. Niết-bàn và sự chấm dứt luân hồi - Thích Hiển Chánh


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

NIẾT-BÀNVÀ SỰ CHẤM DỨT LUÂN HỒI

Thích Hiển Chánh

Ở bậc giác ngộ, các tiếp xúc chỉ còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng tình cảm và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ vào sự chánh niệm và sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng là . . . Tham ái bị phá vỡ. Chấp thủ không còn chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt vĩnh viễn, không nuối tiếc!

Như được ghi chép trong kinh điển Phật giáo, điều kiện để con người và các loài hữu tình khác tồn tại là tham ái hay chấp thủ về sự sống (bhava-ta?à). Niết-bàn trái lại là sự chấm dứt các tham ái và chấp thủ đó. Một trong các đặc tính của niết-bàn là chấm dứt toàn bộ dòng tiếp nối của tái sanh (saịsàra) hay tái hiện hữu (bhavacakka). Nếu đau khổ (dukkha) được tạo nên hay được định nghĩa bằng sự sanh (jàti), già (jarà), chết (mara?ị ), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa) và não (upàyàsa),1thì sự chấm dứt của toàn bộ khối đau khổ (anto dukkhassa)2niết-bàn. Nói cách khác, niết-bàn là sự diệt tận dòng chảy của tái hiện hữu (bhavanirodho nibbànaị ),3hay sự chấm dứt của chuỗi vận hành sanh và tử (jàtimara?ssa antaị ). Theo học thuyết nghiệp và tái sanh, một chúng sanh được sanh ra là do các trói buộc của vô minh (avijjà), tham ái (ta?à) và chấp thủ (upàdàna). Sự chứng đạt niết-bàn trái lại bao gồm sự diệt trừ trọn vẹn các trói buộc này bằng cách phát triển tuyệt đối tuệ giác (vijjà) và trí tuệ (pagagà). Đó là tiến trình chấm dứt luân hồi. Đức Phật và các vị A-la-hán khác đã diễn tả một cách sinh động kinh nghiệm về sự chấm dứt luân hồi bằng các câu Cảm Hứng Ngữ (Udàna): "sanh đã tận, đời sống thánh đã hoàn thành, điều cần làm đã làm, không còn phải tái sanh nữa."4

Khái niệm vòng sanh tử ở đây nên được hiểu dưới góc độ ở tương lai hơn là ở hiện tại. Nghĩa là, đức Phật, đức Như Lai, bậc A-la-hán, bậc giác ngộ, những người đã chứng đạt niết-bàn không thể thoát mình khỏi trạng thái già, bệnh và cuối cùng phải chết. Tiến trình của cái chết được bắt đầu ngay khi con người được sanh ra trong đời, và như là quy luật duyên khởi tương thuộc không thể tránh khỏi, con người không thể vượt qua nó được. Bậc giác ngộ khác chúng ta ở chỗ các ngài không còn phải đối đầu với sự sanh, già, bệnh và chết ở tương lai và rồi ở những kiếp sống sau tương lai đó nữa. Nói khác, nếu khát vọng cho sự sống (bhava-ta?à) là một yếu tố của tái sanh thì sự diệt trừ tận gốc khát vọng đó sẽ giải thoát ta khỏi sự tái hiện hữu trong tương lai. Cần ghi nhận rằng khi biết rõ cái chết là không thể tránh khỏi, mà con người cứ tiếp tục tái sanh như kết quả của khát vọng hiện hữu (bhava-ta?hà), đức Phật và các bậc A-la-hán không phải mất thời giờ lo lắng về cái chết, cũng không cần phải nỗ lực một cách vô ích để xa lánh cái chết. Hơn bao giờ hết, đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta con đường vượt thoát khỏi đau khổ bằng cách hành trì chánh niệm và tỉnh giác trong từng phút giây của sự sống, tại đây và bây giờ.

Theo Phật giáo, luân hồi có mặt như là hệ quả của luật nghiệp báo. Tình trạng của đời sống hiện tại của con người tùy thuộc vào hành vi có chủ ý (cetanà) trong cả quá khứ và nhất là hiện tại. Năng lực của hành vi có chủ ý sẽ phân định tình trạng của con người trong hiện tại và tương lai. Vì thế, "các chúng sanh là những kẻ phải thừa tự tài sản hành vi của mình."5Vòng tái hiện hữu (bhavacakka) được mô tả trong chuỗi duyên khởi (Paỉiccasamuppàda), bao gồm 12 mắc xích bắt đầu từ sự thiếu trí tuệ (avijjà) hành (sa?hàra), thức (vigagàza), tâm-vật-lý (nàma-ràpa), sáu giác quan (salàyatana), tiếp xúc (phassa), cảm thọ (vedanà), tham ái (ta?à), chấp thủ (upàdàna), tái hiện hữu (bhava), sanh (jàti), già và chết (jarà-mara?).6Cội nguồn của chuỗi vận hành này chỉ có thể bắt đầu bằng tính tương thuộc duyên khởi đa chiều và đa dạng, trong đó, thức phân biệt (vigagàza) là một. Trong đạo Phật, thức phân biệt (vigagàza) tạo nên trạng thái hiện hữu (bhava) trong đời sau, mặc dù đạo Phật không thừa nhận một tác nhân thực thể trong đầu thai, theo nghĩa một chủ thể thường hằng bất biến. Thức như loại thực phẩm (vigagàzahàro, thức thực) được trích dẫn như là nguyên nhân trực tiếp của sự tái hiện hữu mới trong luân hồi ở tương lai.7Chính ý thức tồn tại này (saịvattanika vigagàza) đã chịu trách nhiệm cho sự tái hiện hữu.8Hơn nữa, trong tiến trình của tái hiện hữu (bhava), thức (vigagàza) không chỉ hoạt động đơn độc. Nó được sự hỗ trợ song hành của các năng lực vô minh (avijjà), sự chủ ý (kamma/cetanà), tham ái (ta?à) và chấp thủ (upàdàna). Như vậy luân hồi được điều kiện hóa bởi năm yếu tố sau đây, vô minh (avijjà), thức (vigagàza), sự chủ ý (kamma), tham ái (tazhà) và chấp thủ (upàdàna) trong đó các yếu tố 2-4 là quan trọng hơn hết, như đoạn kinh dưới đây mô tả: "nghiệp (kamma) là mảnh đất (khettaị ); thức (vigagàzalà hạt giống (bìjaị) và tham ái (tadhà) là độ ẩm (sineho). Do bị vô minh (moha) chi phối, tham ái trói buộc, thức được hình thành trong thế giới thấp kém (hìnàya dhàtuyà)."9Ở đây, nghiệp, thức và tham ái là bộ ba yếu tố chịu tránh nghiệm của tái sanh. Hành vi (kamma) đã tạo tác trở thành năng lực của con người, được thức phân biệt duy trì, mang theo và chuyển hóa (vigagàza).10Để chứng đạt niết-bàn chúng ta không nên vận hành thức trong quỹ đạo của tái hiện hữu (vigagàzaị bhave na tiỉỉdhe).11Như vậy nhờ vào sự diệt trừ sạch (nirodha) bộ ba yếu tố này, sanh, già và bệnh chết không có mặt trong hiện hữu ở tương lai. Đây là điều được đức Phật trình bày trong đoạn kinh dưới đây:

Chính bản thân ta chịu sanh, già, bệnh, chết, sầu khổ và phiền não, khi nhận chân được sự nguy hiểm của chúng, ta đã tìm kiếm cái không bị sanh (ajàta), không bị già, (ajara) không bị bệnh (abyàdhiị ), không bị chết (amata), không bị sầu khổ (asokaị), không bị phiền não (asankiliỉỉdhaị ), sự an tịnh tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc -- ta đã chứng đạt niết-bàn. Tuệ nhãn và tuệ tri sau đây đã xuất hiện trong ta; sự giai thoát của tâm trở thành bất động. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không còn phải tái sanh nữa.12

Nói tóm lại, đối với bậc giác ngộ, người đã chứng đạt niết-bànchuỗi duyên khởi 12 mắc xích (paỉiccasamuppàda) đã bị chặt đứt từng khúc. Ở đây, vô minh (avijjà) tên trọng não mặc dù không phải là nguyên nhân đầu tiên đã được chuyển hóa thành trí tuệ hay tuệ giác (vijjà/pagagà), 11 mắc xích còn lại đã trở nên bất lực và không thể liên kết với nhau được nữa, như một đầu tàu xe lửa đã tách khỏi đường rây, các toa còn lại không sao chạy được. Ở bậc giác ngộ bây giờ các tiếp xúc (phassa) chỉ còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng cảm xúc và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ vào sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng (yonisa manasikàra, như lý tác ý) và sự chánh niệm (sati). Các cảm giác (vedanà) theo sau đó cũng được chuyển hóa. Tham ái (tadhà) bị phá vỡ. Chấp thủ (upàdàna) không còn chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt vĩnh viễn không nuối tiếc!

Chú thích:

1.D. II. 305.

2.Ud. 80.

3.II. 117.

4.M. I. 4: Khìzà jàti vusitaị brahmacariyaị kataị karanìyaịn paraị itthatt ayàti.

5.M. III. 203; MLS.III.249: "Này bà-la-môn, nghiệp là kẻ thừa tự của chúng sanh, nghiệp là dòng họ, nghiệp là bà con, nghiệp là viên thẩm phán (kammapatisarana). Nghiệp làm cho chúng sanh thiên sai vạn biệt, trở nên cao thượng hay thấp kém."

6.S. II. 2ff.

7.S. II. 13: vigagàdahàro . . . punabbhav àbhinibbattiyà paccayo.

8.M. II. 262.

9.A. I. 223: "Ito kho ònanda kammaị khettaị vigagàdhaị bìjam tanhà sineho avijj ànìvarananànaị sat ànaị sattànaị tanh àsagagàojan ànaị majjhim àya dhàtuyà vigagànaị patiỉhitaị ."

10.S. II. 97; S. IV. 86.

11.Sn. 1055.

12.M. I. 167; MLSI. 211.

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/03/2012(Xem: 53029)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
02/01/2012(Xem: 3244)
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sanh. - Điểm Đến Chí Thiện Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
25/12/2011(Xem: 3301)
“Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy thuyết pháp! Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời sẽ bị nguy hại, nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu những vị này được nghe Chánh pháp họ sẽ thông hiểu” Theo kinh Āriyapariyesana, sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài chiêm nghiệm và quán chiếu sâu vào pháp do Ngài mới chứng được, là sâu thẳm, là vi diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có người trí mới thấu hiểu, còn phần nhiều chúng sanh thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khómà thấy được pháp lý duyên khởi, khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh…
08/01/2011(Xem: 2862)
Bạn có nghĩ rằng ta là người vĩ đại và quan trọng? Dĩ nhiên, hầu hết chúng ta đều nghĩ thế, ít nhất ra là vào một thời điểm nào đó. Nhưng mà rất khó để ôm giữ cái cảm giác quan trọng đó nếu bạn chịu khó suy xét đến cái thế giới không gian huyền diệu mà con người lần đầu tiên vừa thăm dò đến. Ta hãy nhìn nó như thế này:
07/01/2011(Xem: 2698)
Chiều 28-12-2000, phi trường Quốc tế Indra Gandhi, New Delhi rộn rịp đầy bóng những tăng ni sinh Việt Nam với những bó hoa tươi nhiều màu trên tay, những đôi mắt long lanh ngời sáng, những nụ cười hoan hỷ luôn nở trên môi… tất cả đang rộn ràng, hớn hở, chờ đợi đón phái đoàn hành hương từ Việt Nam sang do HT. Thích Trí Quảng, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội TPHCM, và Tổng Biên tập báo Giác Ngộ làm trưởng đòan.Tháp Đại Giác ghi dấu sự thành đạo của đức Phật
05/01/2011(Xem: 3125)
Ngược dòng thời gian hơn 25 thế kỷ, kể từ thời điểm trọng đại đánh dấu một chiến công lẫy lừng trong lịch sử nhân loại, một con người bình thường bằng đấu tranh nội tại đã tự mình vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của khổ đau sanh tử luân hồi. Một đại vĩ nhân xuất hiện. Những lời tuyên bố đầu tiên của Ngài mãi mãi về sau vẫn là một khúc ca khải hoàn, chấm dứt trường chinh chống bọn giặc Ma vương phiền não, đưa một con người từ phàm phu lên vị trí một Bậc Giác ngộ, Bậc Đạo Sư của trời người. Từ đó nhân gian tôn xưng Ngài là Đức Phật -- Bậc Giác ngộ tối thượng. Và như thế, hằng năm đến ngày mùng tám tháng chạp, mọi người con Phật trên khắp năm châu đều nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Hòa với niềm vui chung của muôn loài, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa Thành Đạo của Đức Bổn Sư.
05/01/2011(Xem: 4042)
Mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng Chạp, giới Phật giáo Bắc tông cử hành lễ kỷ niệm Ngày Thành đạo của đức Phật Thích Ca nhưng theo truyền thống Phật giáo Nam tông, ngày đức Phật Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo và Niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch. Riêng đối với tôi, ngày tháng Thành đạo là ngày nào không quan trọng mà vấn đề chính chúng ta cần tìm hiểu về ý nghĩa của sự Thành đạo. Kỷ niệm đức Phật Thành đạo theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm để cùng tiến bước trên con đường chánh pháp, xây dựng cuộc sống an lạc tốt đạo đẹp đời.
05/01/2011(Xem: 2887)
Tháng chạp âm lịch, sương khuya phủ dầy cảnh vật; cách 5m không thấy nhau, đoàn người lầm lủi đi trong màn đêm.
04/01/2011(Xem: 51727)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
04/01/2011(Xem: 9334)
Có bốn ý nghĩa của thành đạo là: (i) con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo; (ii) bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộ ngay tại đời này; (iii) nội dung của Thành Đạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi tham ái, chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời, và (iv) mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]