Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi thứ bảy: Hộp Minh Triết

08/11/201212:16(Xem: 9311)
Hồi thứ bảy: Hộp Minh Triết

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết của “đạo sư” Duy Tuệ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hồi thứ bảy: Hộp Minh Triết




Ông quảng cáo rao hàng:

“Nhưng có một hộp rất đặc biệt và vô cùng hoàn hảo, màu (sic) nhiệm, có công năng giải quyết mọi bế tắc của con người. Nếu chúng ta cho rằng có một Thương Đế quyền năng, những vị Phật thông hiểu mọi chuyện, có sức mạnh vô hình và huyền bí có thể sinh ra mọi thứ, nuôi dưỡng mọi thứ thì cái hộp này cũng giống hệt như vậy. CÁI HỘP TRỐNG KHÔNG TRÀN ĐẦY NĂNG LỰC NHIỆM MÀU, MUỐN GÌ CÓ NẤY! TÔI GỌI HỘP NÀY THEO NGÔN NGỮ RIÊNG LÀ: HỘP MINH TRIẾT! Thiền Minh Triết là thực hành một số phương pháp để kích hoạtcái hộp nhiệm màu vô giá này”.

Chư vị Phật tử chơn chính nghe chưa? Cái Minh Triết của ông ta có “công năng giải quyết mọi bế tắc của con người mà từ xưa đến nay chưa ai làm được; nó có công năng như Thượng Đế, như Phật, thông hiểu mọi chuyện, có sức mạnh vô hình và huyền bí có thể sinh ra mọi thứ, nuôi dưỡng mọi thứ!”

Sau khi đại ngôn lớn lối như vậy, ông cũng chưa mở cái hộp xem bên trong chứa đựng lời vàng, tiếng ngọc, linh thiêng, huyền mật gì - ông lại nói mọi người:

“Cất ý kiến riêng trong tủ!”

Rồi ông giảng như sau:

Như quý vị đều biết, con người khó mà chấp nhận từ bỏ ý kiến riêng hay đánh giá riêng của mình, ngay cả đối với người mình thương yêu hay kính trọng nhất. Việc này cũng sẽ ngầm ảnh hưởng đến việc thực hành Thiền hay thực hành thói quen tâm linh cho mình”.

Chỗ này thì nhà Phật chính tông chỉ gói ghém trong một từ “kiến thủ (diṭṭhupādāna)”,sau đó sinh ra những hoạt dụng đồng dạng như “kiến thủ kiến, ngã kiến, kiến ngã kiến, ngã kiến thủ”.Do đức Phật thấy rõ những kiến thủ nầy có được do từ chấp thủ bản ngã, do từ cái ngã mà sinh ra - không có phương pháp nào loại trừ nó được - ngoại trừ tu tập minh sát để thấy rõ sự vận hành vô tự tính, vô ngã tính của chúng.

Ông Duy Tuệ sử dụng “tư duy ngã tính”nên thấy có người có quan điểm, có ý kiến riêng - nên cất chúng vào hộp Minh Triết. Lập ngôn này của ông là “một cái ngã, có ngã kiến, có ngã kiến thủ”;cất chúng vào hộp tức là vào một “cái ngã”khác nữa. Minh sát của Phật dạy rằng, thức, nhận thức, ý kiến, tư tưởng đều do duyên khởi căn trần vô tự tính, vô ngã tính, vô thực tính - bản chất chúng, thực tánh pháp của chúng là vô thường, vô ngã! Do tư duy ngã tính nên mọi lập thức, lập tri, lập kiến, lập nghĩa của ông ta không bao giờ thoát ra khỏi sự bủa vây của bản ngã. Thương xót thay ông “đạo sư”si mê, vô minh - không biết triệu kiếp sau ông ta có thoát ra khỏi cái bản ngã do tự mình bủa lưới hay không?

Rồi ông tự dựng đứng câu chuyện:

“Ví dụ, có hai vợ chồng thương yêu nhau nhưng hay cãi nhau nên cũng chẳng thấy gia đình êm ấm tí nào. Sự việc cứ kéo dài năm này sang năm nọ. Hai vợ chồng cũng muốn tìm cách chấm dứt cãi nhau nhưng thay vì cả hai bình tĩnh ngồi lại thảo luận tìm hiểu tại sao mình hay cãi nhau, thì người vợ âm thầm đi coi bói.

Người thầy bói tử tế khuyên hai người nên tu hành để được hạnh phúc. Người vợ nghe vậy rồi khuyên chồng nên đến chùa hỏi vị thầy bày cách tu hành.

Người chồng không tin các thầy chùa nên không đồng ý và cho rằng việc cãi nhau hằng ngày là do người vợ hay nói nhiều và có nhiều ý kiến chê bai và chỉ trích người chồng.

Người vợ muốn chồng phải nghe lời mình, theo ý kiến của mình trong cách dạy con, trong các quan hệ với bạn bè và sinh hoạt của chồng phải theo ý mình. Mặc cho chồng không đồng ý, người vợ cứ đến chùa và được các vị thầy chỉ cho phương pháp niệm chú “Ôm-Ma-Ni-Bát-Mê-Hồng”.

Sáu chữ này là người tín đồ phật giáo Tây Tạng hay đọc thầm trong miệng để mong kiếp sống sau tốt đẹp hơn. Các vị sư lại nói chú này linh ứng lắm, cứ niệm thường xuyên thì người chồng sẽ thay đổi tính tình.

Người vợ nghe theo và cứ nói lẩm nhẩm trong miệng suốt ngày như vậy. Người chồng càng tức giận và quát tháo người vợ là ngu xuẩn, cứ nói lẩm nhẩm suốt ngày giống như bị tâm thần! Người vợ buồn quá nhưng tin tưởng mình là đúng, là người bắt đầu tu hành, theo con đường đạo đức.

Cô ta cho rằng, người chồng cự lự (sic) như vậy tức là ông ấy không chấp nhận đạo đức rồi. Người vợ lại nghe lời ai đó nên chạy sang tận Tây Tạng tìm gặp các nhà sư phật giáo Tây Tạng để luyện cách tụng niệm cho linh nghiệm hơn.

Cuối cùng, hai vợ chồng phải li dị vì người chồng không chấp nhận cách ứng xử như vậy của người vợ và cho rằng người vợ nhẹ dạ, ngu xuẩn, bị mấy ông thầy tu lừa!”

Những đoạn gạch đáy ở trên do ông Duy Tuệ mơ mơ màng màng về Mật tông nên đã vu oan cho các thầy đó. Dĩ nhiên là có rất nhiều tà sư ác hạnh, bất chánh trên đời này - có cả ông trong đó - nhưng không đến nổi nào họ lại nói một cách ngây ngô như vậy.

Tôi khuyên ông nên tìm chú Google với mấy từ “Om Maṇi Padme Hum”(thật ra là Aum)để hiểu gốc nguồn, hiểu cái dụng của nó kẻo người học thức họ cười chê, cả khinh bỉ nữa. Những thầy tu kia lừa, còn ông thì đại tổ sư lừa bịp đó!

Chuyện kể thứ hai cũng tương tự:

“Một ví dụ khác, tại Việt Nam, có một cặp vợ chồng rất nổi tiếng. Người vợ là một người đẹp nhất một miền và là một nghệ sĩ tài ba, tiếng tăm oanh liệt một thời. Người vợ theo đạo Phật. Còn người chồng là một nhà trí thức lớn, tốt nghiệp đại học Harvard Hoa Kì hạng ưu và từng đóng nhiều vai trò quan trọng trong guồng máy kinh tế Việt Nam qua hai thời kỳ. Người này theo đạo Ki tô giáo La Mã. Vợ có bàn thờ Phật Thích Ca, còn chồng có nơi thờ Thánh Giá và Đức Jesu.

Người vợ nghĩ rằng chồng mình cực khổ lo lắng nhiều là do không chịu tin thờ Phật. Còn người chồng thì luôn phàn nàn người vợ cứ rước mấy ông sư về nhà trò chuyện, thỉnh thoảng lại qua Tây Tạng luyện tập niệm thần chú rồi về nhà lảm nhảm tối ngày.

Một hôm, người chồng than phiền với vợ rằng: “Nhà mình có ai chết đâu mà em cứ mời sư về hoài vậy? Lại nữa, sao lúc này em hay gầm rú những âm thanh nghe rùng rợn trong nhà vậy? Nếu em không nghe thì anh sẽ vứt bỏ bàn thờ Phật của em đi.”

Người chồng cho rằng Thiên Chúa là trên hết, người vợ nói Chúa là không có thật, chỉ có Phật là có thật. Từ đó, vợ chồng luôn bất hòa, hạnh phúc gia đình trên bờ vực tan vỡ”.

Ông Duy Tuệ lại chơi một màn dựng đứng câu chuyện nữa. Tình huống có thể xảy ra như vậy chăng? Hai vợ chồng đều là trí thức mà xử sự, nói năng như thế sao? Họa là thần kinh! Và ông Duy Tuệ của chúng ta tưởng ai cũng ngu xuẩn tin theo câu chuyện “phịa”mà hư cấu vụng về, quá nhiều kẻ hở, chẳng logic chút nào!

Mệt. Tôi càng đọc càng mệt. Thế gian sao lại phát sinh những hạng “đạo sư”si mê như vậy kia chứ! Nói quanh nói quất nói qua nói lại, ví dụ trước, ví dụ sau chỉ nằm nơi “ngã kiến thủ”mà thôi.

Đoạn sau cũng vậy.

Đoạn sau cũng vậy nữa.

Thôi hãy nhẫn xả, nhẫn xả...

Cuối cùng, mỗi người hãy sắm một cái tủ để cất ý kiến.

“Tên tủ đề là: TỦ CẤT Ý KIẾN. Trong nhà có bao nhiêu người lớn thì có bấy nhiêu ngăn cất ý kiến. Khi về đến nhà, dù bạn có là Tổng thống hay người ăn mày cũng đều đưa tay lên cái đầu lấy mọi ý kiến bỏ vào tủ này. Như vậy, các thành viên trong gia đình sẽ sống trong tình trạng trực giác mà không bị ý kiến chi phối, làm mất hạnh phúc nữa. Ngoài ra, quý vị cũng nên có cái tủ đựng ý kiến dành cho khách hay bạn đến nhà chơi để họ có chỗ cất ý kiến của họ.

Tại các Trung tâm Minh Triết mà thầy đang hướng dẫn thực hành Thiền và khai thị để khai mở Minh Triết cũng nên có một cái tủ đựng ý kiến thật to, đặt giữa Trung tâm cho mọi người dễ thấy. Tủ cũng có nhiều ngăn, đủ để cho quý vị và khách dùng”.

Phương pháp của ông ở trên, khách quan mà nói cũng có những ích dụng nhất định trên cuộc đời này. Ông đã có cái đúng của ông - do nhờ ông học “lỏm”của Phật một chút xíu, học “mót”Krishnamurti thì nhiều hơn. Phật thì ông chỉ sờ ngoài da, bên trong còn thịt, xương và tủy nữa ông ạ! Còn Krishnamurti, hơn nửa thế kỷ trước, vị đạo sư thầm lặng ấy, đã từ bỏ hào quang danh vọng, địa vị giáo chủ Thông Thiên Học, lầm lũi, cô đơn, đi giữa sa mạc tri kiến của cuộc đời, rao giảng tư tưởng “giải trừ kiến thức”, “giải thoát tri kiến”và đã cứu độ cho biết bao nhiêu tri thức kiêu căng trên vòm trời Tây phương phải hạ “cái ngã tri kiến”xuống bên chân ông!

Krishnamurti nói toàn diện, toàn triệt hơn ông nhiều! Ông chưa xứng đáng là học trò xách dép của ông ta đâu! Còn ngay chính Krishnamurti - thì ông ta nói cái gì trong “giải trừ kiến thức và giải thoát tri kiến”, và cả trong suốt 50 năm đi thuyết giảng ông biết không?

Ông ta đã sử dụng tất thảy 37 trợ đạo phẩm của đức Phật, tùy nghi phương tiện để nói bằng ngôn ngữ thời đại, bằng ngôn ngữ khái niệm của Tây phương cho người Tây phương hiểu. Tôi biết, tôi nói ra mà không sợ “tụt lưỡi”,là Krishnamurti tu Phật đã đắc quả “Nhập Lưu”rồi đó! Ông ta là một “học trò nhỏ”của Phật. Còn ông là gì vậy? Đã là gì vậy? Mà lại mạo xưng “đạo sư”Thiền Minh Triết?

Thiền, ông không hiểu. Minh Triết, ông chưa hiểu nghĩa ra làm sao! Học trò xách dép Krihnamurti chưa xứng đáng, trong lúc Krihnamurti là học trò nhỏ của Phật - mà ông lại phỉ báng Phật, ông hơn cả Phật vì con đường Minh Triết do ông tự tìm ra, chưa có ai trên đời khám phá ra được, kể cả nhiều ngàn năm trước.

Ông là một đức Chánh Đẳng Giác sao? Nhưng một vị Chánh Đẳng Giác cũng chỉ “khiêm tốn”tuyên bố: “Đây là con đường cũ xưa, chư vị Chánh Đẳng Giác đã đi qua - Như Lai chỉ là người phát bụi lùm gai gốc, tìm lại được mà thôi!”

Tôi muốn chấm dứt ngang đây. Vì những đoạn tiếp theo, kể về chú chó đáng yêu, trái sầu riêng, hoài nghi cái đầu, đừng dán những nhãn hiệu (ông không thấy cái nhãn hiệu Thiền Minh Triết trên trán của ông),đừng nghĩ mình là con người đạo đức (ông không biết dùng cụm từ bản ngã đạo đức)... thì chỉ như là thừa giấy vẽ voi, để cho đệ tử của ông đọc thôi, trí thức đọc sẽ cảm thấy nhàm, lãng xẹt!

Đối với một kẻ ngu si mà tôi đã bỏ mất cả tuần lễ để viết bài này, vậy là đã quá nhiều. Chưa chắc ai đã cứu độ được ai. Giữa cuộc đời mạt pháp, tâm con người đi lên thì như sừng bò, tâm chúng sanh đi xuống thì như lông bò. Tôi đã hy vong một cách vô ích. Tôi đã mơ màng những ngu si, cao ngạo sẽ được cải hóa. Không dễ đâu.

Địa vị, danh dự, bản ngã, bạc tiền, tiếng khen, quyền lực là những vòng hoa nguyệt quế dụ dỗ, cám dỗ con người. Những vòng hoa ấy, một là tỏa lửa nóng cho những con thiêu thân lao vào. Hai là nó tỏa hào quang sáng ngời ngời, chóa mắt, loạn mắt, mờ mắt không còn thấy gì nữa cả. Ba là nó trở thành cái móc sắt, đai sắt kẹp vào cần cổ, kẹp vào sinh mệnh con người không có đường thoát. Si mê thì không thoát được. Kẻ trí mới thoát được. Nhưng kẻ trí thì như hạt chu sa giữa sa mạc! Sao ông lại cả gan treo cao nhãn hiệu nhân danh Trúc Lâm sơ tổ mà lập câu lạc bộ Thiền, hội Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông nhiều nước trên thế giới, trong lúc ông chưa hiểu Thiền là gì, Minh Triết là gì, cả không hiểu Thiền Trúc Lâm nữa?

Không biết ông có nghe vọng âm thượng thừa của bài kệ “hữu cú, vô cú”của Hương Vân đầu-đà chăng: Câu có câu không.Dây khô cây ngả. Mấy gã thầy tăng. Dập đầu trán vỡ... Câu có câu không. Lập chỉ lập tông. Xoi rùa đập ngói. Leo núi lội sông...”.

Và đó là sự “lầm lẫn mệt mài”của “đạo sư”Duy Tuệ đó.

Để kết luận, tôi xin nói lời xin lỗi, xin lỗi Duy Tuệ nhé! Tôi biết ông mến quen tôi, từng tặng phong lan và cả cây bồ-đề quý cho chùa Huyền Không thuở ông còn là một thiện nam hiền thiện - mặc dù ông không phải là đệ tử của tôi!

Rồi cách đây chừng mươi năm, ông ghé qua Thái Lan, tâm sự với đệ tử của tôi đang du học tại đó, là ông sẽ xuống tóc xuất gia gieo duyên tại Bồ Đề Đạo Tràng! Ngờ đâu!...

Mà thôi, ông cũng là người học thức, chỉ vì lợi danh nhất thời mà lầm lỗi đó thôi, hãy “quay đầu là bờ”đi nhé! Còn kịp đó. Sám hối không bao giờ muộn đâu. Ông chỉ mới trang bị cho mình một chút ít giáo pháp, chưa đủ để lên đường, chưa đủ để tự bảo vệ mình đâu.

Ông đã dại dột khi tự cho mình hơn cả chư Chánh Đẳng Giác khi ông bảo “Bát chánh đạo”của đức Phật mấy ngàn năm nay không giải quyết được gì! Ông có biết lời tuyên bố thiếu thận trọng của ông đã làm cho không biết bao nhiêu Tăng Ni và Phật tử trên khắp thế giới buồn lòng lắm không?

Thường thì mỗi khi dạy cho đệ tử tôi mới phân tích tận tình, cặn kẽ từng chi tiết một như trong bài viết này - nhưng đối với ông, là chỗ quen biết - thì đây cũng là một biệt lệ! Xin ông hiểu cho như thế.

Bây giờ hãy “can đảm”đọc cái bài thơ luật Đường này đi, tôi đặc tả chân dung của ai? Là cái “bản lai diện mục”đang bị lấm lem bụi bặm hiện nay của ông đó:

“Có tên ma giáo, xót thương ôi!

Minh Triết bán rao, thật nực cười!

Lập thuyết so bằng ngao, hến vậy!

Xiển ngôn sánh tựa ốc, sò thôi!

Nhiệm mầu rỗng hộp, óc tê thuốc!

Linh diệu bít đầu, não vữa vôi!

‘Duy Tuệ’ thó danh mà ‘Thị Nghiệp!’

Bảng vàng lòe bịp chiếm nguyên khôi!”

Hy vọng mươi năm sau, tôi lại vịnh chân dung ông nữa, nhưng mà sáng rỡ hơn, mỹ học hơn, thánh thiện hơn!

Cứ “buông cái ngã”là xong hết, Duy Tuệ thân mến!


Huyền Không Sơn Thượng,

Thu sương trắng, tháng 9/2012

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Ý kiến bạn đọc
03/04/201807:50
Khách
Thiền minh Triết thoát thai từ ông linh mục Lương kim Định và đám tàn quân cần lao Nguyễn Đức sách ông cha bị treo chén vì lấy vợ con Chiên với bút danh là Nam Thiên Ông là Cháu mấy đời của ông Hoàng thân Cuòng để dòng giỏi hoàng tử Cảnh ông có y khôi phục nhà Nguyễn và lên ngôi Vua mộng ông lớn lắm qua Thái vô chợ Trời mua Thanh kiếm phao tin Hoàng gia Thái tặng đăng trên báo Bất khuất của lực lượng chông cộng ông VĐT , ông làm lể khai kiếm tụ lên ngôi ,lập thuyết Hoa Tiên rồng một chu thuyết bát nháo nhưng lắm người tin . Đa số giáo dân , bây giờ đẻ ra thêm Thiền Minh triệt mà thật ra là đám tàn quân cần lao .biến hoá nhằm bôi nhọ Phật giáo ,xin cảnh tỉnh người nhẹ dạ không có Thiền nào là Thie minh Triết nếu theo Thiền Ôm thì theo ông Nhất hạnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7226)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 18079)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6141)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10466)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
10/02/2015(Xem: 7907)
1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên. 2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.
30/01/2015(Xem: 6383)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22591)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11206)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5917)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5319)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]