Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngộ nhận cần nên tránh: Cho Rằng Đạo Phật Tương Đồng Với Các Tôn Giáo Khác

10/02/201507:52(Xem: 7802)
Ngộ nhận cần nên tránh: Cho Rằng Đạo Phật Tương Đồng Với Các Tôn Giáo Khác


thanh thanCó hai khuynh hướng phổ biến về quan điểm này. 

1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên.

2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.

Tam Giáo là khái niệm chỉ cho đạo Phật - đạo Lão - đạo Nho. Về bản chất khác nhau hoàn toàn, không thể cùng nguồn gốc. Đạo Phật xuất phát tại Ấn Độ, Nho giáo và Lão giáo là hai tôn giáo bản địa của người Trung Hoa. Nếu Lão giáo có khuynh hướng nhấn mạnh đến tu thân theo cung cách xa lánh cuộc đời, không màng đến chuyện thiên đường, địa ngục, sống một cách thong dong ngoài các vướng chấp của xã hội mà ta thường gọi là “khuynh hướng xuất thế” (tức là thoát ra khỏi cuộc đời) thì Nho giáo là tôn giáo chính trị xã hội đúng nghĩa.

Vai trò của Nho giáo là áp đặt một nền tôn giáo lên trên chính trị. Nó cũng giống như là ở phương Tây, Công giáo của Vatican áp đặt lên trên chính trị của toàn châu Âu từ những thế kỷ đầu của Tây lịch cho đến tối thiểu là đến thế kỷ thứ 18 Tây lịch, khống chế, ngự trị hoàn toàn các phương diện tinh thần và đời sống.

Mục đích của Nho giáo là để khẳng định đế chế của những nhà vua đi theo thể chế tôn giáo và chính trị này.Học thuyết “Tam tòng, Tứ đức” hay là các quan điểm chính trị và xã hội của Nho giáo ngày nay được chứng minh là có rất nhiều vấn đề. Nó vừa minh họa cho một chủ nghĩa bất công xã hội, bất bình đẳng giới tính, buộc con người phải chấp nhận số phận an bài để cho các nhà chính trị dễ cai trị con người nhất là những người có niềm tin vào Thượng Đế sáng thế.


tam giao dong nguyen


Hiện nay thì chính quyền Trung Quốc áp đặt viện Khổng Tử học trên toàn cầu nhằm để mở rộng văn hóa Trung Quốc và con đường chính trị của Trung Quốc qua thế chế của đạo Nho. Một thập niên trở lại đây thì các nước ở châu Á và những nước ở châu Phi, nơi mà trình độ dân trí còn chậm phát triển, điều kiện kinh tế còn yếu kém người ta đã tiếp nhận nó với lòng biết ơn sâu sắc.

Hai năm trở lại đây, Hoa Kỳ và Canada là những quốc gia đi đầu cho chúng ta thấy rất rõ là chính sách áp đặt viện Khổng Tử học qua con đường ngoại giao, giáo dục của Trung Quốc thực ra chỉ để truyền bá đạo Nho thôi. Tức là các nhà chính trị Trung Quốc hiện nay ý thức rất rõ và muốn biến đạo Nho trở thành tư tưởng chính trị và xã hội quan trọng. Nó thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, tự hào dân tộc, độc lập với các tôn giáo ngoại lai trong đó có đạo Phật. Chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên tại Trung Quốc không có lợi cho đạo Phật vì đạo Phật chiếm đại đa số quần chúng, có một ảnh hưởng sâu rộng về mọi phương diện tinh thần xã hội.

Bằng chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên thì tôn giáo thiểu số sẽ có được quyền bình đẳng với tôn giáo chánh thống và những chủ trương bất bình đẳng của Nho giáo dễ dàng được người ta chấp nhận như là ngang bằng với chủ nghĩa bình đẳng của Đức Phật, công bằng xã hội, dân chủ, dân quyền và bình đẳng giới mà Đức Phật đã khám phá và đóng góp. Bằng chủ trương này rất nhiều người đã không đến với đạo Phật. Người ta có thể đến với đạo Nho để có cơ hội thăng tiến xã hội và có thể làm được những việc làm mà khuynh hướng của các tăng sĩ ở tại Trung Quốc đã không bận tâm đến. Còn về phương diện xuất thế của đạo Lão thì các tu sĩ thuộc các trường phái Phật giáo Trung Quốc thì có khuynh hướng thiên về và bắt chước theo. Cho nên, các ngôi Đại Tùng Lâm ở Trung Quốc thường xây ở núi cao, rừng sâu vốn rất khác với phong cách làm đạo của Đức Phật thời xưa.

Trong vòng một năm đầu sau khi giác ngộ, vì Đức Phật chưa có cơ sở tự viện nên lời dạy của Ngài được nhắc ở trong kinh Tăng Chi và kinh 42 Chương là: Mỗi ngày, các tăng sĩ ngủ mỗi người ở một gốc cây và không lặp lại tình trạng đó thêm một lần nào nữa để không nhiễm đắm về các tiện ích (mà người lúc đó ngủ ở gốc cây chẳng có tiện ích gì). Từ năm thứ 2 sau khi giác ngộ trở đi Đức Phật không còn ở núi Linh Thứu nữa. Đức Phật cũng chẳng hề ở thêm một cái núi nào nữa, Ngài ở đồng bằng và cái chùa Trúc Lâm, nơi mà Đức Phật chấp nhận sự hiến cúng chùa từ nhà vua Tần Bà Sa La, chỉ cách núi Linh Thứu chưa được 4 cây số đường chim bay. Chùa Kì Viên ở thành Xá Vệ, cách thành Xá Vệ chưa được 4 cây số, nơi mà Đức Phật đã ở 24 năm 9 tháng trong đời. Suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã không ở núi nữa bởi vì nó không tạo ra cái tiện ích cho quần chúng, như vậy chỉ tốt cho người tu thôi. Dữ liệu về Đức Phật lịch sử đó cho chúng ta thấy tinh thần gần với cuộc sống để phụng sự nhân sinh của Đức Phật được xem là bài học rất quý giá mà tăng ni chúng ta cần phải tin và cần làm theo.

Khuynh hướng xuất thế giống như Lão giáo trở thành một mặt mạnh của Phật giáo Trung Quốc. Ảnh hưởng theo Phật giáo Trung Quốc thì Phật giáo Nhật Bản, Nam Bắc Triều Tiên, Việt Nam đã phần lớn chọn các khu vực yên tĩnh, xa cách với làng xóm để làm đạo. Kết quả là chúng ta không bận tâm đến Phật tử tại gia nhiều và điều đó làm cho tăng sĩ mất cơ hội phụng sự nhân sinh theo tinh thần Phật dạy “Này, các đệ tử! Mỗi người hãy đi mỗi hướng, không đi trùng hướng nhau. Đi mỗi hướng vì mục đích, vì phúc lợi, vì an lạc, vì hạnh phúc cho số đông, cho chư Thiên và nhân loại” đã không thể được các tăng ni chúng ta thực hiện một cách toàn triệt.

Do đó, tiếp tục chủ trương và tin rằng Tam Giáo Đồng Nguyên là một nguy hại cho đạo Phật. Dĩ nhiên, trong quá trình hài hòa tôn giáo ta có một sức mạnh là Phật giáo không có chủ trương tôn giáo cực đoan, không có độc tôn tôn giáo và do đó, bản thân của đạo Phật là một sự hài hòa. Đang khi các Thánh chiến thường xuất phát từ các tôn giáo Nhất Thần muốn nâng chính họ lên vai trò độc tôn cho nên trong các cuộc đối thoại liên tôn giáo thì sự tham dự của các tôn giáo khác sẽ giúp cho họ được lợi ích. Đang khi sự tham dự của chúng ta ở trong các tôn giáo đó chỉ làm cho chúng ta bị đánh đồng thôi và được sử dụng như là một chiêu bài để đễ dàng dẫn dắt các tín đồ Phật giáo (mà niềm tin về Phật pháp chưa vững) cho nên, dễ dàng bị cải đạo trong quá trình tương tác.

Tương tự, chủ trương “Tôn giáo nào cũng vậy chỉ dạy người ta lánh ác làm lành” là một sai lầm lớn. Có những tôn giáo lịch sử đã chứng minh chẳng những chẳng dạy con người “lánh ác làm lành” mà còn xúi giục con người cuồng tín, bạo lực, khủng bố, tạo hận thù, gây tàn phá ảnh hưởng đến các công trình quốc gia, xã hội, dân sự, tôn giáo khắp nơi trên toàn cầu. Khái niệm “Ác” và “Lành” khác nhau rất xa giữa các tôn giáo. Không thể đánh đồng sự giống nhau về khái niệm và dẫn đến tình trạng giống nhau về nội dung giữa tôn giáo A với tôn giáo B.

Cách thức định nghĩa về “Ác” của đạo Phật khác xa so với các tôn giáo. Ác là những hành vi phạm pháp, trái đạo đức dẫn đến các hậu quả khổ đau đối với mình và tha nhân, ở hiện tại và tương lai. Đố chúng ta tìm ra được một định nghĩa tương tự trong kinh Thánh của các tôn giáo khác. Còn nói về cái “Thiện” chúng ta có thái độ thiện, động cơ thiện, tâm lý thiện, hành vi thiện, giá trị thiện và cái thiện đó được định nghĩa là mang lại lợi ích cho mình, cho người “thiết thực hiện tại, siêu việt thời gian, đến để mà thấy” dẫn đến một mục đích cao quý vốn khác rất xa nếu không nói là vượt trội khỏi các tôn giáo còn lại.

Các tăng sĩ mà chủ trương tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” thì chúng ta không thể đủ sức để giữ các Phật tử thiếu niềm tin vào Phật pháp khỏi tình trạng cải đạo mà các tôn giáo thường lấy đó như một chiêu bài. Vì sinh hoạt của đạo Phật ngày nay thiên nặng về tín ngưỡng, cho nên chỉ thích hợp với giới bình dân và đặc biệt là chị em phụ nữ thôi. Như vậy, nó không đủ sức thu hút như là sinh hoạt của các tôn giáo giỏi về chính trị, sở trường về tổ chức, giàu về tài chánh và có được những kịch bản quốc tế và còn có thể là kịch bản quốc gia để áp dụng cho các tình huống. Nhờ đó mà con đường làm đạo của họ ngày càng thành công mặc dù chất lượng trong sự làm đạo đó so với đạo Phật là không có.

Chúng tôi thường tạm gọi các tôn giáo khác là gì? - “Nước lã khuấy nên hồ” còn đạo Phật là các viên kim cương nằm trong tay của những người nông dân, cho nên không phát huy được tính năng và giá trị sử dụng. Sự khác nhau giữa đạo Phật và các tôn giáo khác ở chỗ là các tăng sĩ chúng ta phần lớn là giới bình dân. Cho nên, trong quá trình làm đạo chúng ta không làm cho đạo Phật nổi trội hơn được, thu hút hơn được so với các tôn giáo còn lại.





tam giao dong nguyen
ĐẠO NÀO CŨNG LÀ ĐẠO 

Tâm Diệu biên soạn


cac_ton_giao_2Có người cho rằng “đạo nào cũng là đạo”. Câu nói này thoạt nghe qua có vẻ hợp lý và là một ý tưởng hấp dẫn. Nếu hiểu theo một cách đơn giản, trong phạm trù luân lý đạo đức là đạo nào cũng dạy con người làm lành tránh dữ, thì câu này rất hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta cần phải suy xét và nhận định lại quan niệm đó qua lăng kính tôn giáo.

Trước hết có thể nói ngay rằng câu “đạo nào cũng là đạo” hay “đạo nào cũng tốt” chỉ là một câu nói xã giao thông thường hoặc để làm vừa lòng khách, vui lòng bạn hay có thể do sự thiếu thông tin về sự khác biệt giữa các tôn giáo. Trong phạm vi bài này người viết thu gọn về sự khác biệt căn bản giữa hai tôn giáo lớn có đông đảo tín đồ tại Việt Nam là Kitô Giáo [01] và Phật Giáo để giúp cho những người đang đứng ở giữa ngã ba đường tầm Đạo với ấn tượng đạo nào cũng tốt để nhận thấy con đường nào phải lựa chọn. Việc chọn lựa là quyền của mỗi người. Dĩ nhiên mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Người viết chỉ xin chúng ta suy nghĩ đến sự thật.

Trước khi đi vào chi tiết, chúng ta cần ghi nhận rằng, Phật Giáo là một tôn giáo hoàn toàn khác biệt với các tôn giáo khác trên thế giới về mặt tư tưởng triết học. Phật Giáo không chấp nhận giả thuyết có một vị Trời hay một vị Thượng Đế sáng tạo, không có giáo điều, không có một linh hồn bất tử vĩnh hằng, và không có một đấng quyền năng sáng tạo nào ngự trị trong cái gọi là định mệnh hay số mệnh của mỗi con người. Vì thế, điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo với các truyền thống tín ngưỡng lớn trên thế giới là vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo? Đối với Phật giáo, ý niệm về một “nguyên nhân đầu tiên” không hề được đặt ra để lý giải do bởi ý niệm về tánh không và duyên khởi.

Điểm khác biệt căn bản đầu tiên giữa hai đạo là Niềm Tin Tôn Giáo:

Đối với Kitô Giáo, Đức Tin là cốt lõi của đạo. Nếu không tin thì không thể trở thành một Kitô hữu được. Không tin thì không thể thực hành những gì mà đạo Kitô đòi hỏi được. Đức Tin được ghi trong bản Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostle's Creed) thường gọi tắt là Kinh Tin Kính. “Tôi tin kính Thiên Chúa, là Cha toàn năng, là Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. [02]

Đối với Phật Giáo, vị sáng lập tôn giáo này – Đức Phật Thích Ca – khuyên những người muốn theo Ngài chớ có tin một điều gì chỉ vì điều đó đã được một bậc đạo sư của mình nói ra, được phát xuất từ nơi có uy quyền, được kinh điển truyền tụng hay theo truyền thống từ xưa để lại; mà phải dùng lý trí và sự thông minh của mình để cứu xét và chỉ chấp nhận điều gì khi đã trải nghiệm được hạnh phúc an lạc. Ngài nói rằng Ta không dạy ai đến để tin, nhưng đến để thấy và thực hành”. Điều này đã khuyến khích những người muốn đi theo Ngài hãy nghiên cứu kỹ càng những lời dạy của Ngài và để cho họ tự do quyết định là có nên chấp nhận những điều chỉ dạy đó không. Ngài không bảo ai đến và chấp nhận tôn giáo này nếu họ chưa hiểu những lời dạy của Ngài.[Kinh Kalama] [03].

Nói gọn lại Kitô Giáo là tôn giáo của “đức tin” (faith) và Phật Giáo là tôn giáo của “lý trí” (trí tuệ). [4]

Điểm khác biệt thứ hai giữa Kitô Giáo và Phật Giáo là quan niệm về giải thoát.

Đối với Kitô Giáo, thì sự giải thoát là sự "giải thoát khỏi tội lỗi qua một Đấng Cứu Rỗi". Giáo lý giải thoát này được đặt trên căn bản một số tín điều mà các tín hữu Kitô Giáo phải tin, và đức tin này là tuyệt đối, bất khả tranh cãi, bất khả luận bàn. Vì thế muốn được giải thoát, tín hữu Kitô Giáo phải tin vào nhiều tín điều được ghi trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ (Apostle’s Creed). Chúa Giê-xu là nền tảng, là Tác giả và là Đấng duy nhất có quyền ban cho sự Cứu Rỗi (Rôma 3:24, 25; 5:21; Công Vụ 4:12; Hêbơrơ 12:2). Những ai không tin nhận Chúa Giê-xu sẽ không được tha thứ tội lỗi và sẽ chịu phạt nơihoả ngục.

Đối với Phật Giáo, đạo Phật cho rằng cuộc đời này là giả tạm và chúng sinh cứ phải sống trong đau khổ vì lòng tham dục vô bờ bến, khiến con người tự mình trói buộc với những xung đột và khổ đau do không bao giờ thoả mãn, nên phải luân hồi triền miên trong vòng sinh tử. Do đó nếu muốn, con người có thể tự mình giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi bằng các nỗ lực tu tập bản thân: làm lành, tránh ác và tự thanh tịnh hoá tâm ý. Bốn chân lý nền tảng của Phật giáo (Tứ Diệu Đế) cho rằng mọi khổ đau của chúng sinh đều có một hay nhiều nguyên nhân gây nên, chúng có thể bị giải trừ và có con đường để giải trừ khổ đau đó. Con đường đó chính là con đường giải thoát, là Bát Chánh Đạo trong giáo lý căn bản của nhà Phật. Giáo lý này được qui thành ba môn học: Giới, Định và Tuệ. Thực hành Giới và Định là đưa tới trí Tuệ, là giải thoát khỏi sự mê muội, lòng ích kỷ và khổ đau, là đạt tới cảnh giới Niết Bàn.

Đó là nét đại cương sự khác biệt giữa giải thoát trong Phật Giáo và trong Kitô Giáo. Cái căn bản khác biệt này là, một bên là tha lực tức nhờ sự cứu rỗi, bên kia là tự lực, tự mình thắp đưốc lên mà đi. Với Phật Giáo, triết lý của đạo này là một triết lý sống, bởi vì nó là một chân lý giải thoát mà chỉ có ai thực hành nó mới đạt được nó, hiểu được nó trọn vẹn, người Phật tử phải tự mình tu tập để tiến tới giải thoát. Chính Đức Phật dạy, "Không ai có thể cứu vớt chúng ta bằng chính bản thân chúng ta”. Đức Phật chỉ là người dẫn đường. Ngài chỉ dạy cho chúng ta con đường tạo ra nguyên nhân và hậu quả. Số phận của chúng ta nằm trong tay chúng ta, không phải trong tay của Trời/Thượng Đế cũng không phải trong tay của Đức Phật. Với Kitô Giáo, vì là một tôn giáo cứu rỗi, con người chỉ cần đặt tất cả vào một niềm tin duy nhất ở một đấng siêu nhiên để mong cầu được giải thoát cho mình: "Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất (sic) của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời." (Crossing The Threshold of Hope, trang 76),

Điểm khác biệt thứ ba giữa hai đạo là thuyết Sáng Tạo:

Kitô giáo tin có một Thiên Chúa duy nhất, và là Đấng Tạo Hóa toàn năng, đã dựng nên và điều khiển toàn thể vũ trụ hữu hình và vô hình. Cuốn Genesis (Sách Sáng Thế), một trong những kinh Thánh Cựu Ước viết rằng Thiên Chúa tạo ra vũ trụ và muôn vật và loài người trong 7 ngày. Vì thế tín hữu Ki Tô giáo tin rằng mọi thứ trên đời đều có một nguyên nhân, từ đó, cứ truy tầm lên mãi sẽ phải có một nguyên nhân đầu tiên, và Chúa Trời của họ chính là nguyên nhân đầu tiên đó.

Đối với Phật Giáo, tất cả mọi sự mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà hiển hiện, biến đổi vô thường. Thế giới này, về bản chất, chỉ là một dòng biến ảo vô thường, không do một Đấng toàn năng nào sáng tạo. Sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính là do vạn vật trong vũ trụ chịu sự chi phối của luật nhân quả. Cái nhân nhờ có duyên mà trở thành quả, quả lại là nhân mới, nhờ có duyên trợ giúp mà trở thành quả mới… Cứ như vậy, vạn vật trong thế giới cứ sinh hóa biến hiện không ngừng theo quá trình thành, trụ, hoại, không.

Điểm khác biệt thứ tư giữa hai đạo là vị sáng lập ra tôn giáo.

Đối với Kitô Giáo, Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa toàn năng, đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài.

Đối với Phật Giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhân vật lịch sử có thật, có một tiểu sử rõ ràng được cả thế giới công nhận. Ngài đã thực sự sống trên thế giới này, Ngài không tự xưng mình hay các đệ tử của Ngài tôn xưng Ngài là đấng toàn năng, đấng tạo hóa hay là Thượng Đế v.v. Ngài là người đã giác ngộ hoàn toàn và triệt để (toàn giác), là vị Đạo sư đã tự mình tìm ra được con đường giải thoát ngang qua kinh nghiệm bản thân, không có ai truyền dạy cho Ngài, không có ai ban phép cho Ngài, không phải do thần khởi, cũng không phải là hiện thân hay hóa thân của một đấng thần linh nào. Ngài là một người như mọi người khác, nhưng chính nhờ nỗ lực tu tập cá nhân, Ngài đã tìm ra được con đường giải thoát. Sau khi giác ngộ, Ngài đã giảng dạy giáo pháp cho mọi người, nếu ai có nhân duyên thực hành giáo pháp, kể từ vua quan cho đến thứ dân, kẻ khốn cùng đều được giác ngộ như Ngài. Cho nên Ngài đã nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Ngài là người hướng đạo, chỉ dẫn đường lối cho những ai muốn tu tập, Ngài không thể tu tập thay cho chúng sinh mà con người phải tự mình tu tập mới giải thoát được khỏi khổ đau phiền não do tham sân si trói buộc, mới ra khỏi sinh tử luân hồi được. Cho nên Ngài đã nói: “Các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Ngài khuyên hãy nên nương tựa vào chính mình và đi theo con đường giải thoát bằng nỗ lực của chính bản thân mình.

Nói tóm lại, điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo với Kitô Giáo nói riêng, các truyền thống tín ngưỡng lớn khác trên thế giới nói chung là vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo? Đối với Phật giáo, tất cả mọi sự mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp (duyên sinh), do đó không hề có một Đấng Sáng Tạo. Ngoài ra, với Kitô Giáo, Thiên Chúa chính là Chân Lý, là hơi thở, là con đường giải thoát, bất cứ ai đến với Ngài, tin nơi Ngài sẽ được cứu rỗi. Với Phật Giáo, Đức Phật Thích Ca là bậc Đạo Sư đã tìm ra con đường giải thoát, hướng dẫn những ai muốn giải thoát khỏi đau khổ trầm luân, hãy đi theo con đường mà Ngài đã kinh qua. Ngài chỉ là người dẫn đường, còn người đi theo phải tự mình làm chủ, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chứ không nương nhờ ở bất cứ đấng Thần quyền nào để được giải thoát.

Tâm Diệu

[01] Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa cũng như hàng ngàn xác tínvà giáo phái khác nhau. Trải qua hai thiên niên kỷ, Kitô giáo tự hình thành nên ba nhánh chính: Công giáo RomaChính Thống giáo Đông phương và Kháng Cách (Protestantism). Tính chung, đây là tôn giáo lớn nhất thế giới với hơn 2,1 tỉ tín hữu (chiếm khoảng 34% dân số thế giới). (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

[02] Kinh Tin Kính các Tông Đồ, cũng gọi là Biểu Tín các Tông Đồ, là kinh Tin Kính xưa nhất, có từ thế kỷ thứ II. Bản này tổng hợp các công thức đã có trước đó. Từ thế kỷ thứ VI, bản này có hình thức như ngày nay. Đây là bản tuyên xưng những tín điều chính yếu nhất khi chịu phép Rửa.

[3] Kinh Kalama (trong Kinh Tăng Chi Bộ III.65)

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-11426_5-50_6-1_17-78_14-1_15-1/kinh-kalama-anh-viet-thanissaro-bhikkhu-thich-minh-chau.html

[4] Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief in something for which there is no proof.) Định nghĩa của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought, inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment, sound sense). Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin Ki-Tô Giáo và Lý Trí của Phật Giáo là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, thì lý trí trở nên thừa thãi.

Vấn: Bạch Phật, trên thế gian nầy có rất nhiều tôn giáo, học thuyết, triết luận, môn phái được diễn tả một cách văn hoa, phong phú làm cho các tín đồ ngờ vực hoang mang, không biết chủ trương nào đúng chơn lý, đáng tin cậy. 

Phật đáp: 

1-Đừng tin theo lời nghe người thuật lại. 

2-Đừng tin theo truyền thuyết lâu đời 

3-Đừng tin theo lời khuyên hóa cảnh cáo 

4-Đừng tin theo những điều ghi chép trong kinh điển. 

5-Đừng tin theo lời phỏng đoán mơ hồ. 

6-Đừng tin theo sự khảo sát. 

7-Đừng tin vì bị thế lực chi phối . 

8-Đừng tin để làm vừa lòng người đồng đạo. 

9-Đừng tin lời mà kẻ khác cho là đúng chân lý. 

10-Đừng tin vì lòng tôn kính bậc thầy tổ của mình. 

Chỉ nên tin chắc khi nào mình trắc nghiệm rằng những điều đó không bị lệ thuộc vào tham lam, sân hận, si mê, không phải ác pháp, không gây nên tội lỗi, không bị các bậc thiện trí thức chê trách. Nên sau khi thực hành giáo lý mà thấy mình không được lợi ích, tiến hóa và bị khổ não thì nên xa lánh pháp ấy. Nên chứng nghiệm và xác định rằng điều đó là thiện pháp được hàng thức giả ngợi khen, cố gắng hành theo sẽ mang lại lợi ích an vui. 

(Kalamasutta Tikanipāda Anguttara Nikāya)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7094)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 17956)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6037)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10102)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
30/01/2015(Xem: 6272)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22118)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11020)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5781)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5175)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
15/01/2015(Xem: 5230)
Noel năm nay có vẻ rầm rộ đồng bộ từ trong nước đến ngoài nước; riêng Việt Nam, T.V báo đài đồng loạt đưa tin và phổ biến âm nhạc, trình bày cảnh vật mua sắm, hình ảnh hang đá, cây thông và những biểu tượng Giáng Sinh. Các tỉnh, thành có giáo xứ đều trưng bày cờ xí, băng rôn rợp bóng; Đêm 24, dù không phải tín đồ Kitô giáo, thanh niên nam nữ cũng tràn ngập đường phố, ăn chơi thoải mái như chưa từng được tự do như thế. Phật giáo cũng cử đoàn đến thăm viếng các giáo phận, giáo xứ thể hiện tinh thần đại đoàn kết tôn giáo. Thời bình có khác!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]