Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi thứ tư: Ba thời kỳ của cuộc đời

08/11/201212:16(Xem: 9396)
Hồi thứ tư: Ba thời kỳ của cuộc đời

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết của “đạo sư” Duy Tuệ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hồi thứ tư: Ba thời kỳ của cuộc đời



Về sự phân chia cuộc đời ra làm ba thời kỳ, ông giảng:

“Để minh hoạ cho dễ hiểu về các trải nghiệm nêu trên, tôi tạm chia cuộc đời tôi ra làm ba thời kì, và thời kì sau cùng tạm gọi là đời sống hạnh phúc. Tôi cũng đã nói những điều này trên skype cho nhiều người nghe. Ba thời kì đó là:

- Thời kì nước mắt hồn nhiên của tuổi thơ

- Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do vô minh, chưa hiểu về bí mật của cái đầu.

- Và thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản tính hồn nhiên trong bộ não già cỗi.

Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì thứ ba.

Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình.

Đến thời kì thứ ba, rất giống thời kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau cái chết. Quý vị có thể nói đến thiên đàng cho một em bé được không? Em bé đang ở trong thiên đàng của chính đầu óc nó và của cuộc sống chung quanh. Nó thật sự không có nhu cầu thiên đàng. Đây là thời kì trưởng thành của con người nhưng con người chưa đủ khả năng nhận biết, phải chờ đến thời kì thứ ba vậy.

Nói đến hạnh phúc hay trưởng thành là nói đến sự thăng hoa về tinh thần, về đầu óc chứ không nói đến kiến thức, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế hay thế quyền hoặc thần quyền. Chữ “quyền” không nằm trong phạm trù trưởng thành hay hạnh phúc.

Trong hơn 10 năm qua, dù thiếu thốn cực khổ đến đâu, dù chịu bao nhiêu sự ghen tị, tị hiềm bởi tính ích kỉ của con người, tôi cũng vẫn giữ vững một đại nguyện, một tấm lòng làm phước giúp cho con người nhìn thấy và thực hiện con đường làm cho cái đầu an ổn. Từ người trẻ đến người già, khi lắng nghe và thực hành bài quan sát hơi thở, đầu óc và các cảm xúc của mình đều được thay đổi rất lớn. Những vị có sự thay đổi lớn là những vị lúc nào cũng gần gũi, lắng nghe và thực hành những điều tôi chia sẻ.

Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần thiết. Tôi khuyên quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời. Kiến thức không đem lại sự thay đổi ngược chiều để tận hưởng hoan lạc trong giai đoạn thứ ba này. Chỉ có một cách hiệu quả nhanh nhất và hy vọng nhất là nên nghi ngờ những gì mà mình hiểu biết và tìm nhiều cơ hội gần gũi tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn cố sáng tạo ra vài phương pháp để giúp quý vị tự tìm hướng tiếp cận con đường xưa.

Từ trong thực tế rèn luyện tự thân thành người lấy thói quen quan sát làm lẽ sống của mình, từ thực tiễn kết quả của biết bao nhiêu người học tập với tôi trong hơn mười năm qua, tôi tạm sáng tạo ra một số bài tập để giúp cho nhiều người trên khắp thế giới thực tập mà hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp hơn! Chúng tôi lần lượt hình thành các Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Minh Triết vào đời sống trên nhiều quốc gia. Các Trung tâm này sẽ là nơi hướng dẫn cho những ai quan tâm đến đời sống an tâm, thành đạt, và hạnh phúc.

Dưới đây là vài phương pháp thực hành để giúp quý vị có thể lặn xuống bên dưới dòng sông suy nghĩ và cảm xúc.

Bây giờ đi vào chi tiết của Thiền Minh Triết”.

Đọc ba thời kỳ nêu trên, ai cũng hiểu cả rồi.

Tuy nhiên, khi phân chia như thế, không biết ông Duy Tuệ có biến thể từ câu chuyện “Núi là núi, sông là sông”của Thiền tông không?

Nó đây, theo cách diễn đạt của tôi:

“Sãi tôi trước đây 30 năm khi chưa học đạo Thiền thì thấy sông là sông, thấy núi là núi. Khi đang học đạo Thiền thì sãi tôi thấy sông không phải sông, thấy núi không phải núi. Khi ngộ đạo Thiền rồi 30 năm sau, sãi tôi thấy sông vẫn là sông, thấy núi vẫn là núi thôi!”

Rất là dễ hiểu. Người phàm phu, bình thường trên thế gian gọi sông là sông, núi là núi trong thế giới khái niệm quy ước (paññatti)là giai đoạn một, khi chưa tu.

Giai đoạn hai, khi đang tu, người ấy minh sát mình và ngoại giới, tất thảy chỉ là những yếu tố đất nước lửa gió kết hợp lại với nhau mà giả danh gọi tên này hay vật nọ. Ví dụ, cái bàn, chỉ là sự kết hợp của ván, gỗ, đinh và ý niệm của người thợ - nên giả danh gọi là cái bàn. Rời các yếu tố tạo nên cái bàn, cái bàn không hiện hữu, không có trong thế giới thực, chỉ tồn tại nơi ý niệm của con người. Sông, núi và tất thảy sum la vạn tượng, tên gọi này tên gọi kia đều chỉ là giả danh!

Từ giai đoạn hai, sang giai đoạn ba, người tu Thiền đã thấy rõ (giác ngộ)cái thực, như chân như thực (sabhāva-dhamma),không còn bị ràng buộc bởi thế giới khái niệm, quy ước ấy nữa nên thung dung, tự tại cả hai bờ, giờ thấy sông cứ gọi là sông, thấy núi cứ gọi là núi hoàn toàn vô ngại, rỗng không, giải thoát.

Còn Duy Tuệ, ông nói khá nhiều về giai đoạn hai:

“- Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do vô minh, chưa hiểu về bí mật của cái đầu.

Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì thứ ba.

Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình.

Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần thiết. Tôi khuyên quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời”.

Tuy lặp đi, lặp lại, chẳng có gì mới, nhưng ta cũng có thể tóm tắt chúng là ở trong giai đoạn tu, dù kiểu tu của ông nói lung tung nhưng cũng nhằm vào chuyện “làm rỗng cái đầu”.

Giai đoạn ba, ông nói:

“- Thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản tính hồn nhiên trong bộ não già cỗi. Nó rất giống thời kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau cái chết. Cũng là thời kỳ tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa”.

Ông muốn nói đây là giai đoạn trở về với trạng thái hài nhi tuy khối óc đã già cỗi. Hai nhi này là “thiên đường”cho mọi người, dành cho những ai tu tập Thiền Minh Triết. Ở đây cũng tương tợ trở về thế giới “tâm bình thường như thị đạo”của Nam Truyền, và của Thiền: “Sông nói là sông, núi nói là núi”!

Hài nhi này có liên hệ gì với “xích tử chi tâm” (tâm như đứa con đỏ) của Lão Tử?

Hài nhi này có thấp thoáng bóng dáng:“Quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không quay lại như con trẻ thì chẳng thể vào được nước thiên đàng đâu”trong “Ma-thi-ơ 18: 1-3”?

Hài nhi này có được lấy ý trong ba giai đoạn triết học của Nietzsche, với biểu tượng con lạc đà, sư tử và trẻ con- để nói lên quá trình vận hành đi đến viên mãn của triết lý tâm linh hướng thượng. Con lạc đà là hình ảnh chở mang hiểu biết, kiến thức, các giá trị quy ước của cuộc đời, với bước chân đậm đạp, lầm lũi, nặng nề đi qua những sa mạc cháy bỏng của phải trái, hơn thua, xấu tốt, được mất...

Con sư tử là giai đoạn đã kinh qua các trải nghiệm đường đời, đã học được những bài học máu xương; cho nên nó cất tiếng sư tử hống giữa thế giới giả tạo, triết thuyết, học thuyết, chủ thuyết, lịch sử cùng mọi nhân danh xảo dối, trầm kha và bi thống của con người.

Nó đạp đổ tất cả điện đài thiêng liêng ngụy tạo của con người, với tuyên ngôn xanh rờn rợn: “Thượng đế đã chết rồi”;vậy chính mi phải là thượng đế của chính mi, sáng tạo và sáng hóa đời mình với ý chí hùng lực, siêu nhân!Cuối cùng, giai đoạn ba là trở về với hài nhi, với đứa con đỏ, không biết gì quê hương, lý lịch, tên gọi, hồn nhiên vô tư vô lự...

Vậy, quả thật, cái được gọi là ba giai đoạn kia, kỳ lạ không hiểu nổi, là ông đang đau đớn nên giai đoạn nào cũng có nước mắt? Và tựu trung, nó là bản sao quá mờ nhạt của Thiền học, Thiên chúa giáo, Lão giáo cùng với tư tưởng của Nietzsche. Chẳng có cái gì là của ông ta cả. Con đường xưa cổ nhân chưa có ai đi, Trần tử Ngang đã ngậm ngùi rơi hạt lệ; và bây giờ? Than ôi! Con đường mà ông mạo nhận tìm kiếm ra đấy, Thiền Minh Triết đem dạy cho thiên hạ, là trở về với “thiên đường hài nhi”trong thân xác và bộ óc già cỗi - chính là “cuỗm”nơi này một ít, nơi kia một ít để làm của mình: Một món ăn vụng nấu lại để cho siu nguội, không bỏ cho thức giả quay lưng, cười chê, khinh bỉ mình hay sao?

Kết hồi này:

“- Trẻ con hạnh phúc thiên đường

Là Thiền Minh Triết, thị phường bán rao!”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7226)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 18079)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6141)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10466)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
10/02/2015(Xem: 7907)
1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên. 2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.
30/01/2015(Xem: 6383)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22591)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11206)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5917)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5319)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]