Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi thứ ba: Trải qua ba kinh nghiệm

08/11/201212:16(Xem: 9596)
Hồi thứ ba: Trải qua ba kinh nghiệm

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết của “đạo sư” Duy Tuệ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hồi thứ ba: Trải qua ba kinh nghiệm



Khảo sát cái gọi là“Diễn biến những sự kiện bừng sáng bên trong tôi”.

Ông ta nói:

“Tôi kể vài nét chính để chia sẻ với quý vị. Qua bao nhiêu năm tháng ưu tư về bí mật đời người, ý nghĩa cuộc sống, khổ đau của con người… tôi tình cờ đã rơi vào trạng thái hạnh phúc mãn nguyện khi bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt hoàn toàn”.

Sự trải nghiệm đặc biệt này xảy ra thường xuyên trong ba năm liên tiếp.

Đợt trải nghiệm thứ nhất xảy ra hai lần với đặc điểm là trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu khi bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn!

Đợt trải nghiệm thứ hai lặp lại rất nhiều lần trong hơn một năm với đặc điểm là, nhìn thế giới hữu hình trong tình trạng bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt, vô hiệu hoàn toàn.

Đợt trải nghiệm thứ ba xảy ra một lần với đặc điểm là, bộ máy suy nghĩ không bị khóa nhưng toàn bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị biến mất hoàn toàn. Mỗi giai đoạn trải nghiệm cho tôi thấy một sự thật hiển nhiên để qua đó ổn định đời sống tinh thần của mình”.

Ông kể lại trạng thái mãn nguyện khi bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khóa chặt, nghĩa là trong trạng thái các thức tri không có một đối tượng nào! Người ta thì phải tinh cần tu tập Thiền định một cách miên mật mới đóng 6 căn được, còn ông có lẽ do ma đưa lối, quỷ dẫn đường cho nên tình cờrơi vào trạng thái ấy. Đây được gọi là “Định-tình-cờ”chăng?! Cái “Định-tình-cờ-ngẫu-nhiên”này chẳng lẽ là Thiền Minh Triết của ông ta? Thôi, ta cứ hãy cố gắng nhẫn nại mở rộng tai mà nghe thêm 3 cái kinh nghiệm của ông:

- Trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu khi bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn.

- Nhìn thế giới hữu hình trong tình trạng bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khóa chặt, vô hiệu hoàn toàn.

- Bộ máy suy nghĩ không bị khóa nhưng toàn bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị biến mất hoàn toàn.

Trải nghiệm thứ nhất có lẽ do bị tiêm thuốc tâm thần quá liều lượng nên bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn. Còn nếu là định sơ Thiền, ý thức bị đóng cửa thì nó sẽ đi từ hỷ, qua lạc, vào cận hành và nhất tâm - như một giấc ngủ ngon không mộng mị.

Trải nghiệm thứ hai, có lẽ do nhờ ông ta mượn mắt tai mũi lưỡi thân ý của người chết mà nhìn thế gian, thế giới nên mọi đối tượng bên ngoài không thấy gì nữa cả. Mà lấy cái gì để thấy?

Trải nghiệm thứ ba - vẫn suy nghĩ nhưng đối tượng suy nghĩ bị biến mất hoàn toàn!

Tôi sẽ cô đọng lại một lượt nữa:

- Trải nghiệm một: Khóa chặt cái bên trong.

- Trải nghiệm hai: Khóa chặt bên trong để nhìn cảnh bên ngoài.

- Trải nghiệm ba: Không khóa bên trong, nhưng cảnh biến mất.

Thật ra, tôi đã cố gắng vận dụng tâm trí để hiểu nhưng mà không hiểu nỗi ông ta muốn nói cái gì! Và nếu dạy cho người ta tu tập như thế thì có mà “buông tay dốc thẳm”!Tối như hũ nút!

Tuy nhiên, chỗ này tôi xin tạm mượn “Tứ liệu giản”của Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Hay ông ta đã tình cờ tiện tay “cuỗm”“Tư liệu giản”này rồi biến hóa sáng tạo một cách vừa hời hợt vừa khó hiểu như thế?

“- Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnh

Hữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhân

Hữu thời nhân cảnh câu đoạt

Hữu thời nhân cảnh câu bất đoạt”.

Tôi sẽ giải thích cho ông Duy Tuệ để ông hiểu một chút bí kíp Thiền của người xưa, mà ông đã cao ngạo xem họ như cỏ rác, như sau:

“Có lúc, người tu Thiền chỉ dựa vào chính mình, nhắm mắt lại, đóng ngũ căn lại, chỉ lắng nghe tham sân phiền não ở bên trong - đấy gọi là nắm lấy cái “nhân” chớ không nắm lấy cái “cảnh”!

Có lúc, người tu Thiền bước qua cấp độ thứ hai! Ồ, hóa ra, ngoại cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc chi phối nên nó mới sinh ra chuyện này, chuyện nọ. Vị ấy bèn yểm ly, thu thúc để ngăn chặn phiền não, tham sân phát sanh từ đấy. Đây gọi là nắm lấy “cảnh”, để ý cảnh mà không lý gì đến “nhân”!

Có lúc, người tu Thiền bước qua cấp độ cao hơn, sáng ra một chút! Ồ, hóa ra trong ngoài, “nhân cảnh duyên khởi” nên sinh ra mọi thứ, đâu chỉ nhân, đâu chỉ cảnh mà là cả hai, phải quan sát cả trong ngoài. Đấy là “nhân, cảnh” đều phải quan sát chúng.

Có lúc, người tu Thiền phát sanh tuệ giác, thấy rõ hoàn toàn, trong ngoài duyên khởi đều không tánh, đều như thực tánh thì vị ấy không còn dính mắc gì nữa. Đây được gọi là “nhân cảnh đều không đoạt”, cứ quan sát như thực tự tánh nó đến, nó đi theo cửa ngõ “tam giải thoát môn” không, vô tướng, vô tác!”

Nếu ông đạo sư dổm, Thiền sư dổm Duy Tuệ có nghiên cứu qua “Tứ liệu giản”của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền thì có lẽ ông ta sẽ không đến nỗi ngông cuồng nói chuyện trong ngoài, nhân cảnhnhư kẻ ú ớ mê sảng nói gì chính mình cũng không tự biết! Xót thay! Thương thay! Mà cũng đáng đánh 30 hèo! Ngốc!

Còn những sự thật hiển nhiên sau trải nghiệm nữa. Xem thử ông ta “ngủ mớ”những gì!

Đây, sự thật hiển nhiên thứ nhất:

“Sự thật thứ nhất là có năng lượng hạnh phúc không điều kiện hiện hữu triền miên nơi chính mình.Hạnh phúc hay phúc lạc kì lạ nhất, huyền ảo nhất, rộng khắp nhất, hoàn hảo nhất, sâu thẳm nhất, nhiệm màu (sic) nhất, bền bỉ, ổn định và đáng hưởng nhất mà đời sống do đầu óc suy tính và tác động vào sẽ không bao giờ có được.

Trạng thái hạnh phúc kì diệu, vô giá này sẽ xuất hiện khi suy nghĩ không hoạt động được. Trạng thái hạnh phúc này không phụ thuộc vào sự làm việc của cái đầu và dĩ nhiên là không phụ thuộc vào cuộc sống mang tính hình thức.

Hạnh phúc hay phúc lạc này là chung cho mọi sự sống của hành tinh này và cho tất cả sự sống của các hành tinh khác”.

Cũng không có gì lạ. Chỉ là lặp đi lặp lại cái hạnh phúc vô điều kiện, mênh mông, rộng khắp, cả tinh cầu, vô lượng tinh cầu khi tiêm thuốc tâm thần quá liều lượng cho những cái đầu óc của chúng sanh trên ba ngàn thế giới tê liệt đi hết! Hiển nhiên là vậy! Khiếp chưa!

Còn sự thật hiển nhiên thứ hai?

Nó đây, cái mặt mũi của nó đây:

Sự thật thứ hai là, quan sát cẩn trọng từ trong đầu óc cho đến bên ngoài đích thực là lẽ sống thật, là sinh mệnh của con người!Quan sát càng chính xác bao nhiêu thì cuộc sống càng hạnh phúc bấy nhiêu. Quan sát giúp đầu óc nhẹ nhàng nhất, mới mẻ và dễ chịu nhất!

Trải nghiệm này cho tôi thấy rõ rằng, trong lúc bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt không làm việc được thì có một cuộc sống khác thật ổn định hiện ra, đó là đời sống với tính quan sát cẩn trọng chứ không phải là những ý kiến hay ý nghĩ trong đầu óc. Đây là đời sống ổn định, đời sống thật sự là sống chứ không phải suy nghĩ là đời sống thực.

Trong lúc sự trải nghiệm xảy ra, bộ máy suy nghĩ đã bị khóa, người đang sống dựa trên quan sát biết rõ bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt và đầu óc không thể ra lệnh, không thể hiện hữu các khái niệm về tên gọi cho chính mình, cho các vật thể chung quanh. Mọi thứ mình thấy qua mắt chỉ là những hình ảnh rời rạc của một thực thể thống nhất đang hiện bên dưới chúng. Trọng lượng cơ thể nhẹ hẳn, tất cả đất đá và những đồ vật hằng ngày mình thấy giờ đây hoàn toàn mới và chưa có hay không có tên gọi.

Tóm lại, mọi thứ dừng lại ở giai đoạn quan sát. Và ngay lúc ấy, khi tôi rờ vào đâu, nhìn vào đâu đều tự nhiên ứng ra lời giải đáp không nằm trong cái đầu của mình”.

Tôi cố nhẫn nại đọc một đoạn văn câu cú lộn xộn, ý tứ trùng lặp, tư tưởng tối mò để lần ra mấy điểm chính sau đây:

- Quan sát trong ngoài (nhân cảnh)là lẽ sống đích thực, là sinh mệnh của con người. Quan sát chính xác bao nhiêu thì hạnh phúc bấy nhiêu. Nó giúp đầu óc nhẹ nhàng, mới mẻ và dễ chịu nhất.

- Trải nghiệm ấy có được là do “nhân”bị khóa chặt, vô hiệu hóa nó thì có một cuộc sống khác thật ổn định hiện ra; nó giúp cho sự quan sát cẩn trọng hơn - chứ không phải ý kiến hay ý nghĩa trong đầu óc. Đây mới thực sự là đời sống ổn định, là đời sống thực - chứ không phải suy nghĩ là đời sống thực. Đến chỗ này thì đầu óc không thể ra lệnh, các khái niệm tên gọi (danh khái niệm)về nhân, về cảnh không hiện hữu; còn những hình ảnh (vật khái niệm)rời rạc của một thực thể thống nhất hiện ra. Từ đây, trọng lượng cơ thể nhẹ nhàng và tất cả cảnh, thế giới ngoại trần đều mới mẻ, chưa có hoặc không có tên gọi (không có danh khái niệm).

- Cuối cùng, mọi thứ dừng lại nơi sự quan sát. Và ngay lúc ấy, sờ vào đâu, nhìn vào đâu tự nhiên ứng ra lời giải đáp không nằm trong cái đầu của mình.

Quả thật là mệt khi đọc văn của một đạo sư tâm thần, vĩ cuồng! Có bao nhiêu đâu mà nói dông dài con cà con kê, mù mịt tối tăm như thế kia chứ.

Đây, tôi diễn đạt lại theo thuật ngữ Phật:

- Quan sát trong ngoài, tâm cảnh một cách chánh niệm, tỉnh giác. Vì trong ngoài tâm cảnh duyên khởi, vì “sự sống đang là”chính là duyên khởi căn trần thức, ngoài sự diễn tiến, vận hành ấy, không có sự sống nào nữa cả!

- Khi tâm không, trí không quan sát thì ta sẽ lần hồi từ bỏ thế giới danh khái niệm (nāma-paññatti),chỉ còn vật khái niệm (attha-paññatti)hiện ra. Ngay khi ấy, trời đất cỏ cây, sum la vạn tượng nó hiện ra mới mẻ, tinh khôi.

- Chỉ quan sát, “minh sát”thế thôi! Và lúc ấy, “trực giác” (từ của tôi dùng)xuất hiện, nó sẽ ứng ra những lời giải mà không qua đầu óc!

Rõ ràng quá chứ! Và chắc chắn, ông Duy Tuệ không nói được như vậy. Thứ nhất, do ông ta chưa có căn bản Phật học. Hoặc thứ hai, do ông ta chỉ muốn dùng “chữ”của riêng mình, hòng lếu láo bảo với mọi người là Thiền Minh Triết do ông ta khai đạo.

Tôi đã làm sáng tư tưởng mù mờ của ông. Tuy nhiên, do cách diễn đạt tối tăm của ông, cho tôi kết luận rằng, ông ta chỉ là kẻ học lóm, chưa tới đầu tới đũa. Và dù ngang cái chỗ dừng lại nơi chỗ quan sát không tư tưởng, không thành kiến như Krishnamurti - thì ông duy trì chúng được mấy sát-na? Rồi vô lượng tham sân si, phiền não nằm lưu niên lưu cữu trong rừng già hoang nguyên, hoang dã, sâu kín thăm thẳm của nội tâm, ông giải quyết ra sao - không nghe ông nói đến? Lộ trình minh sát tuệ không đơn giản, cũng cần phải công phu miên mật, không chỉ đầu môi, chót lưỡi ba xạo mà được, thưa ông!

Còn nữa, ông muốn nói gì nữa đây.

À, còn sự thật hiển nhiên thứ ba:

“Sự thật thứ ba là khi mọi thứ nguyên liệu của bộ máy suy nghĩ biến mất thì tôi nhìn thấy nguyên nhân gây ra khổ đau cho chính mình là do cái đầu suy nghĩ.Cùng với sự nhìn thấy ấy, tôi thấy năng lượng sáng tạo đời sống hạnh phúc và tình yêu vô tận của con người đã bị suy nghĩ tàn phá, khống chế hay che lấp.

Trải nghiệm này cũng cho tôi thấy rất rõ bộ óc hay đầu óc hoàn toàn có khả năng làm việc thật hoàn hảo trong trạng thái không chứa bất cứ thứ nguyên liệu nào trong đó như kí ức, kiến thức trong cuộc sống, khái niệm hay triết lí sống cho riêng mình, niềm tin tôn giáo, niềm tin vào một học thuyết hay triết thuyết để xây dựng một xã hội, hay xây dựng một cuộc sống cho cá nhân hay cho gia đình.

Không còn một ý niệm hay ý tưởng khuôn mẫu nào cho cá nhân, cho một gia đình, hay cho một cộng đồng quốc gia hay quốc tế.

Sau này, tôi tạm gọi là sống và làm việc, yêu thương theo đầu óc mở, không theo khuôn phép nào. Trải nghiệm và nhận biết rằng mọi ý tưởng, khái niệm, chữ nghĩa, ý nghĩ, ý nghĩa của các chữ viết, quan niệm sống, sự tiêm nhiễm các triết thuyết hay học thuyết có thể rơi rụng hoàn toàn trong đầu óc, và không gian trống rỗng vô tận trong đầu óc chỉ mang năng lực nhìn thấy và hiểu biết vô tận sẽ chiếu soi và cho ta biết rằng, thủ phạm gây khổ đau tinh thần (và đôi khi cả thể chất) mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là suy nghĩ. Và đi cùng với suy nghĩ là con người không nhận biết được điều này, mà trái lại, còn tin tưởng và bám chặt lấy nó, không chấp nhận từ bỏ nó”.

Ta có thể phanh từ trong cái rừng rậm chữ nghĩa ấy, có bốn điểm chính:

- Mọi nguyên nhân đau khổ, đầu óc là thủ phạm.

- Sống và làm việc, yêu thương với đầu óc mở rộng không theo một khuôn phép nào.

- Hãy làm rỗng đầu óc. Đừng cho nó bất cứ một nguyên liệu nào như ký ức, kiến thức, triết lý, học thuyết, niềm tin tôn giáo hay niềm tin vào các định chế xã hội. Không lưu giữ một ý niệm, ý tưởng khuôn mẫu nào cho cá nhân, gia đình, quốc gia hay quốc tế. Khái niệm, chữ nghĩa, ý nghĩa, ý nghĩ cũng tương tự vậy, cho nó rụng hết.

- Khi ấy, đầu óc sẽ là một không gian trống rỗng vô tận, mà năng lượng nhìn thấy và hiểu biết của nó sẽ chiếu soi, nó cho ta biết rằng, sự đau khổ tinh thần và cả thể chất mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là suy nghĩ. Nhân loại không nhận biết điều ấy, cứ tin tưởng nó, bám chặt nó không chịu buông rời!

Đoạn này cũng chỉ lặp đi, lặp lại, không có gì khác: Thủ phạm là suy nghĩ, là đầu óc; hãy rời suy nghĩ, làm rỗng đầu óc, thế thôi!

Duy Tuệ còn nói tiếp:

“Qua ba lần trải nghiệm, tôi đã bỏ ra thời gian hai năm để thưởng thức thứ hạnh phúc mà mình chưa bao giờ trải nghiệm.

Nó gần giống như tôi thấy lại một con đường xưa cũ, con đường mà tạo hóa ban cho loài người tự bao giờ vẫn còn đó, không có một chút bụi bám lên, không có chút tì vết của thời gian do con người quy ước, không có một bóng người đi trên con đường, chỉ mỗi mình tôi.

Cho dù thật sự cô độc nhưng hoan lạc ngập tràn cho một người đã vượt ra khỏi lịch sử về tuổi tác, nguồn gốc, hình tướng, màu da, tiếng nói, kiến thức, học thức, ngôn ngữ và văn hóa cũng như văn minh.

Tôi tự biết đây là con đường tuyệt vời dành cho loài người vẫn còn bị che giấu bên dưới đầu óc của mình. Không có lối vào con đường này nhưng hơn mười năm qua, tôi hết sức cố gắng để đưa những đệ tử thiêng liêng cao quý đi cùng tôi và truyền sự màu nhiệm của con đường này cho cuộc sống của họ với mọi người chung quanh.

Cũng có thể nói theo cách khác là, ba giai đoạn trải nghiệm đã đưa đầu óc tôi vào thế giới sáng tạo ra vô lượng, vô biên các con đường để chẳng những dẫn đến chấm dứt hoàn toàn sự khổ đau, mà còn cho ra những con đường khai mở khả năng rộng lớn đến vô tận của sự sáng tạo, của tình yêu, của sự làm việc trong đời và của sự hưởng thụ trọn vẹn cuộc đời đầy chông gai, bão táp và thiên biến vạn hoá này.

Sau ba lần trải nghiệm như nói trên, tôi bắt đầu tập thành thói quen một số phương pháp để giữ bền vững không gian Minh Triết trong đầu óc mình và tôi thật sự hạnh phúc!

Đến tận bây giờ, tôi cũng vẫn thường xuyên quan sát và theo dõi các diễn biến trong đầu óc của mình.

Tôi lấy sự quan sát làm lẽ sống của mình, coi nó là đời sống thật, là hơi thở cho Minh Triết trong đầu óc và lấy việc không tin vào suy nghĩ của mình làm lẽ sống cho riêng mình.

Tôi thật sự hạnh phúc”!

Đoạn này lặp đi, lặp lại cũng đã cũ mòn, khuôn sáo - nhưng nổi bật cái mà nhà báo ngày nay hay gọi là tự sướng - “tự sướng bản ngã”.Rồi còn “than vãn”trong hoang vu rừng rậm, là tôi cô đơn, tôi một mình đi trên con đường ngàn xưa, con đường mà “tạo hóa”ban cho loài người, vẫn còn đó, không bụi bặm, không tì vết của thời gian và quy ước, không một bóng người, không có ai đi trên đó, “thui thủi” chỉ mỗi một mình tôi!

Mọi người nghe rõ cả đấy chứ? Đức Phật lúc tìm ra Bát chánh đạo ngài cũng nói tương tự thế nhưng lại vô cùng khiêm tốn: Là Như Lai không sáng tạo con đường, mà chỉ là người phanh lần ra con đường xưa cũ của chư Chánh Đẳng Giác đã đi trong quá khứ. Đấy, một vị Chánh Đẳng Giác mà còn noi theo chư Chánh Đẳng Giác đi trước; còn con đường của ông ta là do “tạo hóa”ban, và từ xưa đến nay chỉ có “mỗi một mình ông ta” đi thôi!

Viết đến đây tôi chợt muốn khóc giùm ông ta, muốn ngậm ngùi rơi giọt lệ như Trần Tử Ngang:

“Tiền bất kiến cổ nhân.

Hậu bất kiến lai giả

Niệm thiên địa chi du du

Độc sảng nhiên nhi thế hạ!”

Tạm dịch:

“Ngoảnh trước mặt, người xưa chẳng thấy.

Trông sau lưng, quạnh quẽ không ai.

Gẫm suy trời đất dặt dài

Mình ta hạt lệ u hoài mà thương!”

Tôi cũng chạnh lòng mà xót thương cho ông Duy Tuệ như thế đó! Ôi, là “ba sự thật hiển nhiên”của ông ta đã làm cho tượng đồng vô tri phải toát mồ hôi mà tượng đá vô tình cũng phải rỏ lệ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7226)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 18079)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6141)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10466)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
10/02/2015(Xem: 7907)
1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên. 2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.
30/01/2015(Xem: 6383)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22590)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11206)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5917)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5319)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]