Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

"Hallyu" và ảnh hưởng cải đạo tại Việt Nam

06/11/201217:03(Xem: 10056)
"Hallyu" và ảnh hưởng cải đạo tại Việt Nam
HALLYU
và ẢNH HƯỞNG CẢI ĐẠO TẠI VIỆT NAM

Minh Thạnh

Hallyu-anhhuongcaidaoHallyu là từ Hàn dùng gọi làn sóng văn hóa Hàn Quốc đang lan rộng đến nhiều nơi trên thế giới. Tạm dịch sát âm là Hàn lưu. Việt Nam là quốc gia Hallyu có tác động hết sức mạnh mẽ đến giới trẻ.

Tác động của Hallyu ở Việt Nam diễn ra trên nhiều khía cạnh của văn hóa, trước hết là âm nhạc, phim ảnh. Các ngôi sao Hàn Quốc trở thành những thần tượng của công chúng trẻ âm nhạc Việt Nam. Khán giả ca nhạc bộc lộ cảm xúc trước những thần tượng Hàn Quốc đến điên cuồng, sảng loạn, với những hành động cử chỉ như khóc lóc đến mức ngất xỉu, hôn ghế ngồi của thần tượng… Còn phim ảnh thì cũng trở thành sốt. Hầu hết kênh truyền hình ở Việt Nam đều chiếu phim Hàn Quốc.

Nhiều nhà nghiên cứu tại Hội thảo khoa học quốc tế “Tìm hiểu làn sóng văn hóa Hàn Quốc ở châu Á” diễn ra tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM tháng 6/2012 vừa qua đều thống nhất mốc khởi đầu Hallyu tại Việt Nam là năm 1998, khi Đài Truyền hình TPHCM chiếu bộ phim nhiều tập “Anh em nhà bác sĩ”.

Hallyu – làn sóng văn hóa Hàn – có tác động đến lãnh vực tôn giáo, cụ thể là nó có làm cải đạo những nơi nó truyền lan đến, cụ thể là ở Việt Nam, theo xu thế cải đạo từ Phật giáo, tôn giáo truyền thống, sang tôn giáo mới du nhập Hàn Quốc trong thế kỷ XX là Tin Lành hay không, đó là vấn đề bài viết này muốn đặt ra.

Hallyu – làn sóng văn hóa Hàn – là một hoạt động văn hóa, một tiến trình văn hóa. Tôn giáo thuộc về lãnh vực văn hóa. Do vậy, tác động của Hallya đối với tôn giáo, mà cụ thể ở đây là việc cải đạo từ Phật giáo sang Tin Lành theo hình mẫu Hàn Quốc, là điều đương nhiên, ắt phải.

Hơn nữa, Hallyu vẫn được coi là một thứ “quyền lực mềm”. Mà nói quyền lực tức là có hàm ý buộc đối tượng chịu tác động phải tuân theo. Hallyu còn được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội đánh giá bằng những cụm từ như “chủ nghĩa dân tộc văn hóa” (Lee Dong Yeon), “Chủ nghĩa quốc gia” mềm (Wong Jon Jin).

Từ một nước 90% theo Phật giáo chuyển sang một quốc gia Phật giáo là tôn giáo thiểu số, Cơ đốc giáo hóa đang là một xu hướng của xã hội Hàn Quốc. Xu hướng đó thể hiện trên nhiều mặt hoạt động, trong đó, có các lãnh vực của văn hóa. Hallyu tràn ra nước ngoài ắt phải mang trong nó điều đó.

Tác động của nó có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp. Trực tiếp là chính những người hoạt động văn hóa Hàn Quốc đến Việt Nam thúc đẩy hoạt động cải đạo. Vì bối cảnh tôn giáo của Việt Nam cũng giống như Hàn Quốc, nên đây tất yếu được coi là một thuận lợi.

Người Hàn Quốc đã cải đạo từ Phật giáo sang Tin Lành đến Việt Nam không sinh hoạt ở những thánh đường riêng, mà họ lồng ghép sinh hoạt tôn giáo vào những thánh đường người Việt. Đây là một lợi thế của Hallyu. Các nhà thờ Tin Lành hỗn hợp Hàn Việt thường xuyên tổ chức truyền giảng cải đạo. Hallyu tôn giáo có được môi trường để tác động mạnh mẽ. Chỉ cần những ngôi sao ca nhạc, điện ảnh đi nhà thờ hỗn hợp để làm lễ hàng tuần, tác động của họ đối với những fan hâm hộ trẻ của Hallyu là vô cùng lớn.

Tôi không có dịp để dự những buổi truyền giảng như vậy, nhưng có nghe nói về những trường hợp bạn trẻ cải đạo rồi tiếp tục sinh hoạt ở nhà thờ hỗn hợp Hàn – Việt (Quận 10, góc 3 tháng 2 – Ngô Quyền). Còn phía Tin Lành, việc sử dụng người của công chúng là con chiên để vận động cải đạo là một sở trường. Ở đây có chung công thức: họ nói từ những điều chưa có được hay không hay khi theo Phật giáo cho đến những điều được coi là tuyệt diệu khi cải đạo (điển hình là trường hợp Huệ Nhật, được viết thành sách).

Vì vậy, về mặt tác động trực tiếp, thì hoạt động cải đạo (mà họ gọi là rao giảng tin mừng), một trong những hoạt động chính của các cơ sở tôn giáo hỗn hợp Hàn Việt đương nhiên không thể bỏ qua cơ hội mà Hallyu mang đến. Sự ưu việt của văn hóa Hàn luôn được nhấn mạnh là sự chuyển đổi từ truyền thống, được coi là lạc hậu, sang hiện đại, được coi là tiên tiến. Quá trình đó gồm có chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo sang Cơ đốc giáo.

Chúng ta để ý, nếu du lịch Nhật Bản thường xuyên giới thiệu những ngôi chùa với niềm tự hào, thì điều đó rất hiếm thấy ở du lịch Hàn Quốc. Thế nhưng, phim Hàn Quốc thì tràn đầy hình ảnh lễ cưới ở nhà thờ, hình ảnh các buổi cầu nguyện dưới thánh giá.

Ví dụ cụ thể nói trên là một trường hợp ảnh hưởng gián tiếp. Người nghiện phim ảnh Hàn Quốc hiện nay, là người chịu tác động của Hallyu, tự mình Hàn Quốc hóa trong sinh hoạt. Điều đó, có nghĩa là giải truyền thống văn hóa dân tộc, phi dân tộc hóa. Họ ăn mặc, trang điểm, để tóc, chọn giầy theo kiểu Hàn Quốc, ăn kim chi, ăn lẩu Hàn, mì Hàn… Cái gì là Hàn thì họ đều vơ vào, còn việc xem phim Hàn, nghe nhạc Hàn thì là điều bình thường của mọi người, tôn giáo Hàn bây giờ là Cơ đốc giáo.

Hallyu không diễn ra tự phát mà có sự thúc đẩy. Có nhiều người Hàn mở quán ăn để rao giảng Tin Lành. Đến ăn thì được chủ quán tiếp chuyện, mời đi nhà thờ Hàn Quốc. Cũng có rất nhiều người Hàn là tín đồ nhiệt thành truyền đạo làm các công việc liên hệ với văn hóa tại Việt Nam, nhiều nhất là dạy học. Số những người này rất tích cực đóng góp cho Hallyu. Chắc chắn họ ý thức rằng Tin Lành theo kiểu Hàn Quốc là một dạng quyền lực mềm có sức mạnh hết sức lớn lao.

Hallyu trong tôn giáo là điều mà từ trước đến nay dường như ít được đề cập đến. Mong rằng bài viết này giúp cho người Phật tử Việt Nam thấy được một khía cạnh mới của áp lực cải đạo tín đồ Phật giáo. Áp lực cải đạo đến từ Hàn Quốc nặng nề không kém gì phương Tây trong bối cảnh làn sóng văn hóa Hàn đang tạo ra những tác động bất ngờ, không tưởng tượng nổi ở Việt Nam, có khi làm bức xúc dư luận xã hội.

Các bậc phụ huynh Phật tử nên quan tâm đến sinh hoạt của con em mình nhiều hơn, nếu con em mình đã có những biểu hiện chịu những tác động của Hallyu. Tác động đó có thể sẽ đi đến việc cải đạo ở một nhà thờ Tin Lành Hàn Việt, thậm chí, vận động bạn bè cùng cải đạo theo kiểu Hàn Quốc.

Kết luận bài viết này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy Thích Văn Phong đã cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin về hoạt động vận động cải đạo cũa những người Hàn Quốc đang cư trú, làm việc tại Việt Nam.

Có nhà nghiên cứu cho rằng Hallyu đã đạt đỉnh sóng và đang qua đỉnh sóng. Có điều, theo chúng tôi, dù Hallyu có giảm đi nữa, thì hoạt động cải đạo tín đồ Phật giáo Việt Nam đến từ Hàn Quốc vẫn sẽ chỉ giảm tác động gián tiếp, còn tác động trực tiếp thì sẽ không giảm bao nhiêu, dù ảnh hưởng của Hallyu nói chung có giảm đến mức nào đi nữa. Tiến trình cải đạo theo như lời thầy Thích Văn Phong đã được, có thể nói là “xuất khẩu” sang Việt Nam. Người Hàn Quốc nhiệt thành đi cải đạo còn hơn cả người Mỹ. Những người Hàn Quốc sang Việt Nam cải đạo sẽ không buông xuôi một khi Hallyu qua thời đỉnh sóng, chuồi xuống thành “sóng xuôi” (1) đi nữa.

Chúng ta hãy nhớ một điều, nếu một người Hàn Quốc nào đó khẳng định Hàn Quốc hiện đại hóa nhờ Tin Lành hóa, thì câu hỏi của chúng ta là tại sao Nhật Bản, Đài Loan… không có cải đạo như ở Hàn Quốc mà vẫn hiện đại hóa thành công?

MT
(Phật Tử Việt Nam)

(1) Xem thêm “Văn hóa Hàn – “quyền lực mềmvà mối lo”, Cát Khuê ghi từ Hội thảo “Làn sóng Văn hóa Hàn Quốc ở châu Á” tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, báo Tuổi Trẻthứ tư ngày 27 tháng 6 năm 2012.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 11659)
Cái gọi là Đường Lưỡi Bò Nghe thật lạ, không vô Cũng không phải dưới đất chui lên Cũng không phải trên trời rớt xuống...
28/07/2012(Xem: 12112)
Biển Đông dậy sóng Đang đe dọa Việt Nam cùng Đông Nam Á Đường Lưỡi Bò là lưỡi hái xâm lăng...
19/07/2012(Xem: 4707)
Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).
15/07/2012(Xem: 5592)
Trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt 144 - 145, ra ngày 1-1-2012, có đăng bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn, một bài viết có nhiều điểm liên quan đến vấn đề phiên dịch kinh điển. Với vai trò của một nhà nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo trong nhiều năm, tác giả Đào Nguyên đã nhận thấy bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn có một số điểm cẩn phải trao đổi. Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Đào Nguyên đến quý bạn đọc.
10/07/2012(Xem: 4429)
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.
02/07/2012(Xem: 6027)
Cách đây khoảng 20 năm, phong trào học thiền Nhân Điện xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rồi một thời gian sau đó truyền về Việt Nam mà người khởi đầu là ông Lương Minh Đáng, một người Việt di cư đến Mỹ năm 1985. Những người theo học được ông hoặc các người phụ tá giảng dạy khai mở luân xa, rồi sau đó có thể tự chữa lành bệnh cho mình và cho tha nhân, kể cả các căn bệnh như ung thư và tim mạch và có khả năng chữa bệnh cho bệnh nhân ở xa qua việc truyền nhân điện bằng điện thoại.
14/05/2012(Xem: 9562)
Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).
12/04/2012(Xem: 4102)
Bài viết này không đưa ra một đề xuất nào, đối với bất kỳ cơ quan nào, mà chỉ thử dự đoán những gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng Duy Tuệ vẫn tiếp tục diễn biến. Việc dự đoán như sẽ được trình bày dưới đây là không mấy khó khăn khi căn cứ trên những gì đã diễn ra, với giấy trắng mực đen, rành rành trên những trang của quyển sách có nhan đề ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiều lầm sau hàng ngàn năm” (sau đây gọi tắt là “Ta là ai?”).
22/03/2012(Xem: 4059)
Những bức hình giúp bạn nhận ra triết lý cuộc sống.
19/03/2012(Xem: 4517)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567