Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hình tượng phối ngẫu trong Kim Cang Thừa

08/03/201323:47(Xem: 6068)
Hình tượng phối ngẫu trong Kim Cang Thừa
phoingautrongkimcangthua_1HÌNH TƯỢNG PHỐI NGẪU
TRONG KIM CANG THỪA
Thích Lệ Thọ

Một tượng Phật bị “ném đá” trên mạng vì tạo hình được cho là quá sắc dục. Một người nữ khỏa thân ngồi trong lòng, choàng tay ôm lấy vị Phật. Ngay lập tức bức tượng này khiến nhiều người cảm thấy đạo Phật bị xúc phạm, đã khiến phật tử Thái Lan vô cùng giận dữ. Không chỉ có thế, nhiều cư dân mạng VN cũng chia sẻ nỗi bất bình vì hình ảnh này.

Bangkok Post dẫn lời một cư dân mạng gọi người đúc tượng là “quỷ dữ”, muốn làm ô uế thanh danh của Đức Phật. Một người sử dụng mạng xã hội Facebookcòn kêu gọi giới chức Thái Lan can thiệp bằng đường ngoại giao để phá hủy bức tượng.

Phật giáo Tây Tạng- tu tập theo Kim Cang Thừa trước đây luôn được giữ kín trong núi cao rừng rậm với những bậc thầy ẩn mình hoàn toàn không giao tiếp với thế giới bên ngoài, ngày nay với những phương tiện thông tin của thế kỷ 21, Mật tông đã được quá nhiều người biết đến qua những nguồn thông tin khác nhau.

Qua nhiều lần chúng tôi tiếp xúc với các bạn trẻ quan tâm đến Mật tông, người viết những dòng này đã nhận ra một thực tế là có rất nhiều bạn hiểu sai về Mật tông, và nguyên nhân chính là vì không có được những nguồn thông tin đầy đủ và chính xác.

Để trở một vị hành giả tu theo Kim Cang Thừa, phải dùng nhiều pháp tu để tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, tâm để trở thành thân, khẩu, tâm của một vị Phật. Trên bước đường thuần hóa tâm hồn trở thành Pháp thân của Phật. Hành giả phải trải nghiệm pháp tu “Mật”, do một vị thầy trực tiếp giảng dạy. Giống như thầy thuốc gia giảm hay tăng phát đồ điều trị cho bệnh nhân. Pháp đó còn được gọi là Mật thừa hay Mật Tông.

Mật thừa có 4 đặc tính: thứ nhất là pháp Du già tịnh hóa triệt để môi trường chung quanh; thứ hai là pháp Du già tịnh hóa triệt để thân xác; thứ ba là tịnh hóa triệt để mọi cảm thọ; thứ tư là pháp Du già tịnh hóa triệt để mọi hành vi. Bất cứ giáo lý nào chứa đựng bốn sự tịnh hóa ấy đều là Mật thừa”[1].

Như vậy, rõ ràng Phật giáo Tây Tạng hay Kim Cang Thừa không hề hướng dẫn người tu đi vào con đường vọng nhiễm sắc dục, thói đời thường của kiếp sống nhân sinh.

Vậy các bức ảnh, tượng đang ngồi trên hoa sen đang “ôm ấp” hình ảnh nữ sắc kia là ai? Và những bức ảnh, tượng đó có xúc phạm đến các tông phái khác, và cộng đồng Phật giáo trên thế giới hay không?

Sau 500 năm đức Phật nhập Niết-bàn, chúng ta nhận thấy Cơ cấu của những mối quan hệ nhân và quả, nó bao gồm chính cơ cấu của dòng tâm thức của riêng ta, bị thu hẹp tột bực. Cho nên mỗi hành giả đi vào lộ trình giải thoát giác ngộ cho chính mình còn khó khăn hơn nữa.

Vì vậy, Kim cương thừa sử dụng tất cả những gì mà con người có thể có được trong thân tâm mình để tiến bộ trên đường giải thoát. Bởi thế, có một câu nói nổi tiếng rằng: “Con người đã ngã té trên đất, hắn phải nhờ chính mặt đất để đứng dậy”. Sự nhấn mạnh vào phương tiện, phương pháp, kỹ thuật là một đặc điểm của Kim cương thừa.

Phần lớn những cuộc tranh luận là về pháp Yab-yum hay còn gọi là pháp song tu, pháp tu phối ngẫu. Hình tượng một vị Phật, đang ôm một phối thân nữ đã bị rất nhiều Phật tử cho là không đúng đắn, là sai với tôn chỉ của đức Phật, là một dạng tha hóa... Hay nặng nề hơn là đã từng có một số vị thầy giảng pháp cho Kim Cang Thừa là đạo dâm tà…

Toàn bộ chúng sinh cõi Dục được cấu thành bằng những vật chất rất thô trọc, đồng thời lòng Dục luôn tồn tại trong chúng ta. Những chúng sinh từ cõi Sắc Giới trở lên cho đến cõi Vô Sắc Giới thì lòng Dục đã không còn. Vì sao? Đơn giản là vì vật chất cấu thành thân của họ đã thanh tịnh và vi tế, nhẹ nhàng hơn vật chất cấu thành thân của chúng ta rất nhiều. Cho nên chúng ta phải hiểu trong những ảnh tượng của tông Nyingma Tây Tạng,Phổ Hiền trong tư thế Yab-Yum ở trung tâm của Mạn Đà la Shi-tro, Mạn Đà La của Thái Hòa. Tuy nhiên có khi vị Bồ Tát này cũng được biểu thị trong hình tướng phẫn nộ được gọi là Chemchok Heruka. Trong hình tướng này, ngài là vị thần có cánh với thân hình màu nâu đỏ sẫm có ba mặt, sáu tay và bốn chân, thường được miêu tả trong tư thế ôm lấy người phối ngẫu màu đỏ tươi. Hình ảnh đó tượng trưng cho sự nhất thể (như tượng trên) trong Phật Giáo Đại Thừa (tranh tượng dạng này rất phổ biến tại Nepal, Tây Tạng, Ấn Độ…)

Từ cảm hững bất tận trong diễn đạt từ suy nghĩ đang tuôn chảy trong tận cùng ngóc ngách của dòng tâm thức ra bên ngoài bằng hình vẽ, hay đúc thành tượng. Mục đích chỉ cho chúng ta thấy, muốn chuyển đổi thân tướng ngũ uẩn và thế giới uế trược này để chứng Pháp thân là phải vượt qua một cửa ải ái dục khá vất vả. “Khuyết điểm lớn nhất của chúng sanh là si ái-ngày đêm sống trong si ái, không thể xả bỏ được. Nếu chuyển được tâm háo sắc thành tâm tu học Phật Pháp, từng giờ từng phút không lãng quên việc tu học, thì sẽ mau chóng thành Phật.”[2]

Pháp thân này rất rất vi tế, thanh tịnh và không có một chút hàm chứa Dục Lạc trong đó. Độ vi tế và thanh tịnh của thân Bồ tát thậm chí còn vi tế và thanh tịnh hơn chúng sinh cõi Vô Sắc rất nhiều. Vì vậy, thị hiện hình tướng phối ngẫu của chư Tôn vốn dĩ đã hoàn toàn không còn một chút gì là Dục vọng nữa.

Thông thường chúng ta có một thói quen là nhìn tượng Phật ở trên bằng con mắt của một con người bình thường. Hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Nhưng nếu các bạn nhìn tượng với nhãn quan của người ngồi thiền sẽ thấy hoàn toàn khác hẳn. Phật trong bức tượng hoàn toàn trong tư thế thiền và không để tâm gì đến cô gái trong bức tượng cả. Cô gái và tư thế như đang giao hoan chỉ để diễn tả trạng thái hỷ lạc của thiền định. Các bạn nào đã từng ngồi thiền và nhập định được sẽ hiểu được niềm hạnh phúc trong cõi thiền khi mà các hormon tạo ra sự sảng khoái, hưng phấn được tiết ra sau khi cơ thể đạt đến trạng thái thư giãn hoàn toàn. Đồng thời, chỉ cho tất cả chúng sinh khi đang tu tập còn chịu sự chi phối rất nhiều của nghiệp quá khứ, tận cùng trong tâm thức vẫn còn ái nghiệp chưa dứt, khi chưa chuyển “thức” thành “trí”. Một cách khắc họa tâm thức ra bên ngoài, thay vì chúng ta phải tránh né, nhưng không có nghĩa nghiệp ái không tồn tại trong ta. Nó khó, tại sao chúng ta không đối mặt để hóa giải, hay kê toa cho đúng bệnh. Vì ái nghiệp dắt chúng ta đi trong sinh tử luân hồi. “Con người đã ngã té trên đất, hắn phải nhờ chính mặt đất để đứng dậy” Đạo Phật đến để thực hành chứ không phải đến để chiêm ngưỡng hay nhận xét. Vài dòng chia sẻ!

07/03/2013

Lệ Thọ

____________________________________

[1] Hòa Thượng Geshe Kelsang Gyatso.

[2] Khai thị về ái dục, Hòa Thượng Tuyên Hóa.

Ý kiến bạn đọc
03/04/201806:47
Khách
Phật giáo đại thừa ,hay phật giáo Mật tông không phải là chính thống nguyên thủy của Đức Phật mật tông lai đạo Bon của Tây tạng và Đại thừa thì lai từ Bà là môn những hình ảnh của các vị là hán hay những cỏi Trời phạm thiên cùng địa ngục a tỳ không biết khi còn tại thế Đức Thế Tôn có công nhận hay không? Còn chuyện bức tượng trên đây chẳng có gì để nói Đức phật chỉ là một vĩ nhân của Nhân loại chuyện dục vọng lòng ham muốn và thương yêu không loai trừ bất cứ ai ,không có dục vọng thì làm sao mà có bà Da du Đà la và ông la hầu La ,tóm lại không ai vượt qua cái biễn của ái nịch và ái buộc .
Bức tượng nầy chỉ là biểu tượng phi dục tính cho người Chân tu còn riêng ông Thích huyền Tôn thì miễn bàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 11683)
Cái gọi là Đường Lưỡi Bò Nghe thật lạ, không vô Cũng không phải dưới đất chui lên Cũng không phải trên trời rớt xuống...
28/07/2012(Xem: 12158)
Biển Đông dậy sóng Đang đe dọa Việt Nam cùng Đông Nam Á Đường Lưỡi Bò là lưỡi hái xâm lăng...
19/07/2012(Xem: 4713)
Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).
15/07/2012(Xem: 5618)
Trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt 144 - 145, ra ngày 1-1-2012, có đăng bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn, một bài viết có nhiều điểm liên quan đến vấn đề phiên dịch kinh điển. Với vai trò của một nhà nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo trong nhiều năm, tác giả Đào Nguyên đã nhận thấy bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn có một số điểm cẩn phải trao đổi. Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Đào Nguyên đến quý bạn đọc.
10/07/2012(Xem: 4436)
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.
02/07/2012(Xem: 6050)
Cách đây khoảng 20 năm, phong trào học thiền Nhân Điện xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rồi một thời gian sau đó truyền về Việt Nam mà người khởi đầu là ông Lương Minh Đáng, một người Việt di cư đến Mỹ năm 1985. Những người theo học được ông hoặc các người phụ tá giảng dạy khai mở luân xa, rồi sau đó có thể tự chữa lành bệnh cho mình và cho tha nhân, kể cả các căn bệnh như ung thư và tim mạch và có khả năng chữa bệnh cho bệnh nhân ở xa qua việc truyền nhân điện bằng điện thoại.
14/05/2012(Xem: 9581)
Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).
12/04/2012(Xem: 4114)
Bài viết này không đưa ra một đề xuất nào, đối với bất kỳ cơ quan nào, mà chỉ thử dự đoán những gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng Duy Tuệ vẫn tiếp tục diễn biến. Việc dự đoán như sẽ được trình bày dưới đây là không mấy khó khăn khi căn cứ trên những gì đã diễn ra, với giấy trắng mực đen, rành rành trên những trang của quyển sách có nhan đề ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiều lầm sau hàng ngàn năm” (sau đây gọi tắt là “Ta là ai?”).
22/03/2012(Xem: 4074)
Những bức hình giúp bạn nhận ra triết lý cuộc sống.
19/03/2012(Xem: 4529)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567