Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghe Pháp Thoại của TT Đạo Hiển giảng về “Kinh Bát Đại Nhân Giác”

03/11/202214:57(Xem: 5849)
Nghe Pháp Thoại của TT Đạo Hiển giảng về “Kinh Bát Đại Nhân Giác”
tt dao hien (1)
Nghe Pháp Thoại
“Tổng Quan về Kinh Bát Đại Nhân Giác” trên Zoom ngày 2/11/2022

với TT. Giảng Sư Thích Đạo Hiển,
Trụ trì Tu Viện Nguyên Thiều, Sydney, Úc Châu


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni.

Kính bạch TT. Thích Đạo Nguyên, Tổng Vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục.

Kính bạch TT, Giảng Sư Thích Đạo Hiển, Trụ trì Tu Viện Nguyên Thiều / Sydney

Kính thưa quý đạo hữu gần xa đã và không nghe pháp thoại online trên Zoom & Facebook

Thật là một điều vui mừng khi gần hai năm con mới được có dịp ôn lại nội dung Kinh Bát Đại Nhân Giác mang giáo lý nền tảng căn bản của Phật giáo, nhưng trong đó chú trọng tinh thần nhập thế tự lợi, lợi tha trong tư tưởng Bồ tát đạo của Phật giáo Phát triển.

Con còn nhớ khi nghe TT. Thích Nguyên Tạng thuyết giảng online bài pháp thoại về Kinh Bát Đại Nhân Giác cho Huynh trưởng & Đoàn Sinh Gia đình Phật tử Úc Đại Lợi vào ngày 18/10/2020, con đã tóm tắt như sau: Đây là 8 điều Giác Ngộ của một bậc đại nhân.

1-Quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp theo Tứ Niệm Xứ. -Thứ nhất: Giác ngộ thế gian vô thường, đất nước nguy khốn, bốn đại khổ không, năm ấm không ngã, thảy đều sinh diệt, hư dối không thật, tâm là gốc tội, thân thể biến hoại. Quán sát như vậy dần lìa sinh tử.

2- Thiểu Dục -Thứ hai: Giác ngộ tham dục là gốc khổ dẫn vào sanh tử, thiểu dục vô vi thân tâm tự tại.

3- Tri Túc - Thứ ba: Giác ngộ lòng tham không đáy, càng có càng cầu, càng thêm tội ác. Bồ tát ngược lại, ít muốn biết đủ, vui đạo quên nghèo, bồi đắp trí tuệ.

4- Tinh Tấn - Thứ tư: Giác ngộ, lười biếng trụy lạc thật là điều đáng tủi hổ, luôn luôn tinh tấn phá trừ phiền não, hàng phục tứ ma chống khỏi địa ngục giam hãm.

5- Trí Tuệ -Thứ năm: Giác ngộ, ngu si là đầu mối của sanh tử, Bồ tát chăm lo học rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí huệ sớm đuợc biện tài, giáo hóa chúng sinh là niềm vui lớn.

6- Bố Thí -Thứ sáu: Giác ngộ, nghèo khổ sinh hận tạo thêm duyên dữ, Bồ tát không oán không ghét người ác, oán thân bình đẳng.

7- Yểm Ly (Ly sanh Hỷ) - Thứ bảy: Giác ngộ, dục là nguồn họa, còn ở thế gian, tâm không đắm dục, tâm chí hướng về chí hạnh xuất gia giữ hạnh thanh bạch, cầu hạnh thanh tịnh thương khắp mọi loài.

8- Đại Từ Bi (Phát Bồ Đề Tâm) - Thứ tám: Giác ngộ, lửa sinh lửa tử, ngày đêm thiêu đốt, biển khổ không bờ, phát tâm độ sinh, thay hết chúng sinh, chịu vô lượng khổ khiến đều an vui.

Và đã từ lâu khi nghiên cứu Phật Pháp con được biết rằng Kinh Bát Đại nhân giác là bải kinh rất cổ và rất đơn giản và đã được HT Thích Thanh Từ giảng giải từ 1996 và các trang mạng điện tử như trang nhà Quảng Đức đã truyền tải PDF từ năm 2010 của quý tác giả như HT Thích Nhất Hạnh, HT Thích Viên Giác,v,v…

Chính vì vậy mà hôm nay con rất hân hoan khi được nghe lại tám điều giác ngộ này để cùng chia sẻ nhau những điều mà một hành giả tu học cần nhận thức đúng đắn và ghi nhớ tu học. Đó là cũng là lý do mà con đã tham khảo và nghiên cứu sâu rộng hơn và chú tâm lắng nghe lại TT Giảng Sư sẽ triển khai từng phần đặc biệt hơn ngỏ hầu con được tường thuật lại tất cả những điều đã được nghe từ phút đầu tiên đến phút cuối cùng để cùng chia sẻ thêm sự thâm thúy của 8 điều giác ngộ và giác tri để thực tập hằng ngày trên bước đường tu học .

Và bây giờ con đã bước vào phòng trước 5 phút bắt đầu, hiện diện đã thấy sự trở lại của TT Tổng vụ Trưởng Thích Đạo Nguyên sau nhiều tuần vắng bóng và TT Giảng Sư Thích Đạo Hiển cùng những thành viên thường trực trong Tổng vụ cùng các đạo hữu tham dự con số vào khoảng 25 và đã tăng lên con số 32 trong suốt khoảng nửa giờ sau. Có thể nói đây cũng là một điều khích lệ vì thời tiết mùa Xuân tại Úc Châu năm nay khá lạnh và nhiều mưa dầm khiến con người uể oải.

Sau khi niệm Phật cầu gia bị, Thầy Đạo Nguyên đã bắt đầu giới thiệu sơ lược đôi nét về TT Thích Đạo Hiển (Trú trì TV Nguyên Thiều tại Sydney) như sau:

Thầy xuất gia tại chùa Hưng Long, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định .

Học Trung cấp Phật học Nguyên Thiều từ năm 1992-1996, là học viên của khoá 1 đầu tiên của Cao cấp Phật Học mở tại Huế năm 1997 và thi đậu tốt nghiệp Cử nhân Phật Học 2001 .

Năm 2003 có duyên đến Úc hoằng pháp từ đó vừa đi học thêm ngành Xã Hội Học tại đại học Sydney và đã tốt nghiệp vào năm 2013.

Thầy đã từng giữ chức phó ban 1 của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của GHPGVNTN Hải Ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan trong các đại hội khoáng đại 4, 5 khi HT Thích Trường Sanh còn đảm nhiệm Tổng Vụ Trưởng và Thầy Đạo Nguyên làm phó ban 2, sở dĩ nhiệm kỳ đại hội 7 năm nay Thầy Đạo Hiển không tham dự trong hội đồng điều hành vì lý do Phật sự của chùa Nguyên Thiều quá đa đoan.

Sau lời giới thiệu TT Giảng Sư đã cung kính chào đón quý chư Tôn Đức và quý Phật Tử tham gia và xin phép dùng chữ chúng tôi để dễ thuyết trình

Và bài pháp thoại đã bắt đầu như sau:

Thầy Đạo Hiển đã nhấn mạnh “Kinh Bát Đại Nhân Giác đây là bài kinh thứ 779 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh và đã được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán do Ngài An Thế Cao, gồm toàn bộ 372 chữ, 93 hàng, mỗi hàng 4 chữ, tại trung tâm Phật giáo Lạc Dương, trong khoảng thời gian từ năm 140 đến năm 171 của kỷ nguyên Tây lịch.”

Nguyên bản Phạn văn của kinh đã lưu truyền nay không tìm thấy còn lưu giữ nơi đâu. Kinh văn của Bát Đại Nhân Giác rất cổ và rất đơn giản. Văn thể của kinh thuộc loại kết tập như kinh Tứ Thập Nhị Chương và kinh Lục Độ Tập. Kinh này dung hợp cả đạo Phật Nguyên Thủy và đạo Phật Phát Triển.

Tám điều mà kinh văn nói đến có thể chia làm nhiều đề tài nhỏ cho thiền quán. Về nội dung thì tư tưởng của kinh rất sâu sắc và thực tiễn, không có tính cách luận thuyết

Thầy đã tóm lược vài nét về Đại Sư An Thế Cao như sau : một cao tăng nước Parthia (xứ Ba Tư cổ) tên là An Thế Cao . Ông là người dịch các văn bản Phật giáo Ấn Độ sang tiếng Trung sớm nhất được biết đến. Theo truyền thuyết, ông là Thái tử, nhưng đã nhường ngôi vị lại cho người chú của mình, để xuất gia tu hành học Phật.

An Thế Cao đến Trung Quốc thời kỳ hậu Hán. Vào năm Kiến Hòa thứ hai (năm 148 TL), đến trung tâm Phật giáo Lạc Dương, từ đó về sau, trong 20 năm ông làm công tác dịch kinh sách, tổng cộng phiên dịch được hơn 30 bộ kinh điển Hán văn.

Giảng Sư đã giải thích vì sao khi mở đầu kinh Bát Đại Nhân Giác không có phần “Tôi nghe như vầy” của Lục chủng thành tựu ? Vì lúc bấy giờ Phật pháp mới truyền vào Trung Quốc, người học Phật chưa thâm nhập giáo lý nhiều, nếu để trọn bộ kinh dày cho họ đọc, e không kham đọc nổi, nên Ngài phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra: thứ nhất, thứ hai, thứ ba… đến thứ tám, tập thành Kinh Bát Đại Nhân Giác, để cho người mới phát tâm tu học dễ nắm được những điểm cần yếu trong Phật pháp, rồi sau mới học tiếp những phần khác sâu rộng hơn. Vì lý do đó, mà kinh Bát Đại Nhân Giác không có lục chủng chứng tín của ngài A-nan khi kết tập

1-Văn thành tựu : Văn nghĩa là nghe; ai nghe? Tôn giả A-nan nghe. Nghe cái gì? Nghe những lời Phật dạy. Nghe như thế nào? Nghe rõ, nhớ kỹ, và chi tiết. Một trong mười đệ tử xuất sĩ lớn của Đức Phật, Tôn giả A-nan, vị thị giả trung tín với Đức Phật, có khả năng nghe nhiều, nhớ rõ, và tiếp thu các bài Kinh điển trọn vẹn.Sau khi chính thức trở thành vị thị giả của Đức Phật, Tôn giả A-nan cung thỉnh Đức Phật thuyết giảng lại những bài Pháp mà Tôn giả chưa nghe. Đức Phật hoan hỷ đồng ý những lời thỉnh cầu của Tôn giả A-nan.

Trong lần Kiết tập Kinh điển thứ nhất, Tôn giả A-nan, người có trách nhiệm trùng tuyên lại lời Phật dạy, đặc biệt là Kinh tạng. Thông thường, câu đầu tiên của bài kinh, chúng ta thường bắt gặp “Tôi - Tôn giả A-nan, nghe như vầy,” nhằm nhấn mạnh và xác quyết rằng Kinh mình đang đọc tụng và hành trì là do chính Đức Phật tuyên thuyết và nói ra.

2. Tín thành tựu: Một là, tin tưởng sâu sắc vào Tôn giả A-nan, vị A-la-hán, nghe nhiều, nhớ rõ toàn bộ Kinh điển chi tiết, và đã thuật lại toàn bộ Kinh điển sau khi Đức Phật nhập diệt; hai là, với chánh kiến và chánh tín, tin tưởng tuyệt đối vào chân lý Phật.

3. Thời thành tựu : Thời gian Đức Phật thuyết Pháp, thời gian những người nghe Pháp, hiểu Pháp, thực hành Pháp, thưởng thức chánh Pháp, ứng dụng chánh Pháp, hoằng dương chánh Pháp, và bảo hộ chánh Pháp.Tất cả các thời giữa người thuyết Pháp và những người nghe Pháp, hay người trao truyền chân lý, người mồi đèn chân lý và những người tiếp nhận chân lý đều thành tựu viên mãn.

4. Chủ thành tựu : Trong lúc giảng dạy, Đức Phật, Người nói Pháp, khéo sử dụng những lời nói, những hình ảnh dụ ngôn, ẩn dụ, so sánh, đối chiếu, và những phương pháp quy nạp và diễn dịch giúp cho các hàng đệ tử dễ dàng nghe, cảm nhận, và thấu hiểu chánh Pháp, chân lý Phật một cách sâu sắc.

5. Xứ thành tựu : Bất cứ nơi nào, trú xứ nào, và quốc gia nào, nơi mà Đức Phật và các đệ tử của Người lưu trú và hoằng dương chánh Pháp thì nơi đó xưa cũng như nay không bao giờ xảy ra chiến tranh tôn giáo, và nơi đó quý ngài đã góp phần đem lại hòa bình, hòa hợp, hòa giải, an vui, và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại ngay tại thế gian này.

6. Chúng thành tựu: Ý nghĩa này bao gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Sa-di, Sa-di ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ; tất cả chư vị để thành tựu tốt đẹp về các khía cạnh Pháp học, Pháp hành, Pháp hiểu, Pháp hỷ, Pháp lạc, Pháp thành, và Pháp chứng.

Và bây giờ Giảng Sư khái quát về nội dung kinh Bát Đại Nhân Giác.

Kinh Bát Đại Nhân Giác mang tất cả giáo lý nền tảng căn bản của Phật giáo, trong đó chú trọng tinh thần nhập thế tự lợi, lợi tha trong tư tưởng Bồ tát đạo của Phật giáo Phát triển.

Theo đó nhận thức về thế gian (vũ trụ quan, thế giới quan), về con người (nhân sinh quan) của Phật giáo được cô đọng trong điều quán niệm thứ nhất (Đệ nhất giác ngộ): Vô Thường- Vô Ngã- Lý Duyên Khởi

Đặc biệt Giảng Sư chỉ rõ thế nào là Thân vô thường, Tâm vô thường, và Pháp vô thường. Thầy cũng đưa ra thí dụ về kiếp sống con người gói gọn nơi một hơi thở mà kinh Tứ thập nhị chương đã dạy và dù pháp hữu vi hay vô vi vẫn phải tuân theo định luật vô thường này (kính mời xem câu hỏi của Thầy Nghiêm Tịnh ở phần cuối giờ)

Điều thứ hai, ba, bốn, năm cần phải giác tri rằng : Biết tham muốn nhiều là nhân của đau khổ. -Biết luôn mong cầu là nhân của đau khổ.-.Biết lười biếng là nhân của trầm luân- Biết si mê là nhân của luân hồi- Biết nghèo là nhân của oán hờn- Biết năm dục là nhân của tai họa.

Vì thế cho nên sau khi đã giác ngộ, thấy biết bằng trí tuệ đâu là nguyên nhân khổ, vui trong cuộc đời, thấy biết bản chất của đời sống, vị Bồ tát tinh tấn nỗ lực trong việc học pháp, hành pháp. Vị Bồ tát biết rõ rằng, hễ lười biếng giải đãi thì không tránh khỏi rơi vào dục lạc thế gian (giải đãi trụy lạc trong Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy). Bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, khi tâm không có chánh niệm, không có phòng hộ thì ngũ dục, lục trần có cơ hội tác động, chi phối hành giả.







Hành giả tu tập thấy rất rõ điều này, khi không có chánh niệm, không an trú vào các thiện pháp thì tâm dao động, rối loạn, các phiền não tham, sân, si, mạn… sinh khởi. Phiền não có mặt thì đồng thời khổ não, bất an có mặt.

Do đó muốn tâm thanh tịnh không còn phiền não nhiễm ô, cũng tức là không còn khổ não, thì hành giả phải siêng năng tinh tấn học và hành các thiện pháp, không xao lãng việc tu học. Có tinh tấn hành trì chánh pháp bằng phương pháp Tứ Chánh Cần mới có đủ định lực, tuệ giác hàng phục nội ma ngoại chướng (những phiền não, nghiệp chướng và sự ngăn trở, phá hoại của tà ma, ngoại đạo), thoát ra khỏi ngục tù ấm giới (thân người và cõi thế gian như nhà lửa này).

Từ điều thứ sáu trở đi phải cần luôn quan tâm trau giồi đạo đức, phạm hạnh (giới) và trí tuệ (huệ), không ngừng cầu tiến, vì một khi chưa đạt quả vị Vô thượng Bồ đề thì vẫn còn phải học. Giảng Sư cũng nhắc lại “Theo Phật giáo Nguyên thủy thì hàng thánh A la hán được gọi là bậc vô học (không cần phải học nữa vì đã giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, việc cần làm đã làm xong). Nhưng theo Phật giáo Phát triển thì các bậc thánh A la hán vẫn còn cần phải học. Những gì các vị ấy học là các pháp hành để có đủ trí tuệ, biện tài làm lợi ích cho chúng sinh và tiến lên quả vị Phật, đem lại an lạc hạnh phúc lớn cho tất cả (Bồ tát thường niệm: quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc).

Nếu không có trí tuệ, biện tài thì Bồ tát không có năng lực độ sinh rộng lớn. Nếu không có trí tuệ và phước báu vô lượng thì không thành tựu quả vị Phật, vì Phật là bậc phước trí nhị nghiêm, là thầy của trời, người, là bậc đã từng tu tập và tạo lập công đức trong vô số kiếp. Phật và các vị thánh A la hán đều giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, nhưng trí tuệ và phước báu, năng lực độ sinh giữa Phật và các vị thánh A la hán còn một khoảng cách rất xa.

Để thành tựu tâm đại bi, xả bỏ lòng vị kỷ, đồng thời tạo công đức phước báo cho mình và lợi lạc tha nhân, vị Bồ tát thường hành pháp bố thí gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là bố thí tiền bạc, của cải, vật dụng, phương tiện đời sống, tức giúp đỡ, sẻ chia về phương diện vật chất. Pháp thí là bố thí giáo pháp giải khổ, giáo dục đạo đức, truyền trao kinh nghiệm sống, nghề nghiệp, cách thức mưu sinh chân chính. Vô úy thí là dùng lời nói, hành động, việc làm đem lại sự bình an, đem lại niềm tin, nghị lực sống cho người khác; dùng sức mạnh hoặc trí tuệ, biện tài giúp người khác vượt qua khó khăn, sợ hãi…Vô úy thí và pháp thí có liên hệ với nhau. Đôi khi có sự bổ sung, hỗ tương lẫn nhau giữa tài thí, pháp thí và vô úy thí.

Và muốn được như thế nơi điều thứ 7 và 8 cần phải xuất gia và phát tâm đại thừa (rộng độ chúng sinh với lòng hy hiến). Riêng ở điều giác ngộ thứ 7 muốn nhấn mạnh đến ý chí phải xuất gia mà đạo hữu Tịnh Bảo có lẽ không nghe rõ nên đã hỏi lại Theo đó Giảng Sư đã nhắc lại ý nghĩa vị Bồ tát tại gia tuy sống trong nhà thế tục nhưng không đắm nhiễm dục lạc thế gian, không vướng mắc vào thị phi, danh lợi, tình ái… Có thể nói các vị ấy thân chưa xuất gia nhưng tâm đã xuất gia. Dù còn mang hình thức thế tục nhưng lại có ý chí xuất trần, đời sống phạm hạnh trong sạch như băng tuyết, lòng từ bi rộng lớn, chí nguyện cao thượng luôn vì Phật pháp và chúng sinh (tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc, thường niệm tam y, ngõa bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết) . Với tâm chí như thế thì chắc chắn về sau các vị Bồ tát tại gia này sẽ xuất gia.

Và cuối cùng diều giác ngộ thứ tám chính là đề mục mà Bồ Tát phải tâm tâm niệm niệm của vị Bồ tát luôn hướng đến đạo quả Bồ đề và hóa độ chúng sinh (Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát Đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sinh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sinh, tất cánh đại lạc)bằng cách dùng trí tuệ, biện tài giúp cho chúng sinh mọi loài đều an lạc.

Kính bạch Giảng Sư và thính chúng, đây quả thật là một bài pháp thoại hữu ích cho bất cứ đệ tử Phật bất cứ tông phái nào và trình độ căn cơ nào vì mỗi một đề mục chính là thiền quán và toàn bộ 8 diều giác ngộ này đều là những điều mà chư Phật và các vị Bồ tát, các bậc đại nhân đã từng giác ngộ, theo đó tu tập mà thành tựu đạo quả và trở lại thế gian giáo hóa, tế độ chúng sinh.

Và TT Thích Đạo Nguyên đã cảm ơn thời gian và trí tuệ của TT Giảng sư qua bài pháp thoại này đã nhắc nhở và khuyến khích chúng ta mỗi ngày nên xem đó là một đề án để thiền quán rằng: Cuộc đời này và vô thường, đời sống con người vui ít khổ nhiều, những niềm vui có được cũng tạm bợ, không dài lâu.

Tuy nhiên, không có bao nhiêu người giác ngộ được căn nguyên những nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống. Đa phần đều cho rằng do thiếu tiền bạc, của cải, những điều kiện vật chất, những phương tiện, tiện nghi, thiếu hưởng thụ mà khổ.

Kỳ thực đó không phải là cái gốc của khổ, mà cái gốc của khổ là do tham muốn nhiều, do tâm không biết đủ, không biết tự mãn nguyện. Con người đi từ tham muốn này đến tham muốn khác, dục vọng cứ leo thang thì biết bao giờ tâm mới yên ổn, an lạc. Tâm con người cứ bị ngũ dục, lục trần thúc đẩy, sai khiến, dẫn dắt đi quẩn quanh trong vòng vui-khổ .

Khác với thế gian thường xem tài sản của cải, danh tiếng, quyền lực, địa vị là sự nghiệp, Bồ tát chỉ xem trí tuệ giải thoát là sự nghiệp. Bởi vì chỉ có trí tuệ mới giúp con người thoát khổ, chấm dứt con đường sinh tử luân hồi triền miên.




tt dao hien (2)tt dao hien (3)tt dao hien (4)tt dao hien (5)tt dao hien (6)tt dao hien (7)



Lời kết:

Sau thắc mắc nhỏ đã được Giảng Sư trình bày lại chi tiết hơn khi câu hỏi của Đại Đức Nghiêm Tịnh vì sao Vô vi lại cũng vô thường? Con đã trộm nghĩ :

Thật ra “vô vi” cό nguồn gốc từ tư tưởng cὐa Lᾶo Tử – Về у́ nghῖa, “vô vi” cό nghῖa là không làm gὶ mà không gὶ không làm, у́ muốn khuyên con người cứ nghe theo lẽ trời, tự nhiên ắt cό sự vận hành cὐa riêng mὶnh.Triết lу́ “vô” – “hữu”, “cό” – “không” biểu hiện trong hành động cὐa con người là “Vô vi nhi vô bất vi”. Lᾶo Tử không cό у́ bἀo “vô vi” chỉ là “vô vi”, ông nόi rō “vô vi” mà vẫn “hữu vi” và là làm theo tự nhiên, vὶ chỉ cό theo quy luật tự nhiên thὶ hoᾳt động mới cό hiệu quἀ.

Và lời phát biểu của đạo hữu Diệu Đắc Catherine Nguyễn khi đã chiêm nghiệm những câu thơ của thiền sư Vạn Hạnh “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô-Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô-Nhậm vận thịnh suy vô bố úy-Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. Đã nói lên sự hữu ích khi nghe pháp mà đó là mục tiêu chính của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục đã thực hiện được trong nhiệm kỳ 2022-2026.

Kính tri ân và tán thán hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải Ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan trong đường hướng hoằng pháp rất thích hợp với thế kỷ hiện đại

Kính chúc quý Ngài luôn được Phật lục mười phương gia hộ , thân tâm an tịnh , phước trí nhị nghiêm , Phật đạo viên thành

Kính trân trọng,

Kính tri ân Tổng vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục

Chủ đề pháp thoại hôm nay ...sách tấn tinh thần

Ôn nhắc tám điều giác ngộ bậc đại nhân

Cần sáng suốt chiêm ngiệm về thực tại, về chân lý

Luật nhân quả, lý duyên sinh thấu rõ nhớ kỷ

Nhân của đau khổ là tham muốn, mong cầu

Tâm phóng dật, lười biếng chỉ mang lại u sầu

Si mê trong năm dục sẽ trầm luân sanh tử

Nguyện quán niệm kiếp nhân sinh cuộc lữ

Vô thường, Vô Ngã, Khổ từng mỗi sát na

Thọ trì, tụng niệm ghi nhớ ,...chợt hiểu ra

Hạnh phúc tối thượng là nghe pháp và học pháp

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

Melbourne 3/11/2022

Phật tử Huệ Hương kính trình pháp




  

Những bài liên quan:


* Tường thuật nhanh về Lễ Ra Mắt Tổng Vụ Hoằng Pháp-Giáo Dục 

1/ Ý Nghĩa An Cư Kiết Hạ (Bài giảng của TT Tâm Minh

2/ Gương Hiếu của Tôn giả Xá Lợi Phật (TT Thích Nguyên Tạng)

3/ “Chữ Hiếu Trong Đạo Phật” (NS Thích Nữ Thảo Liên)

4/ “Hiếu Đạo” (TT Thích Viên Trí)

5/ “Thiền Chánh Niệm” (TT Thích Đạo Nguyên)

6/ Nhân Quả Ba Đời (TT Thích Giác Tín)

7/ Cốt tủy Kinh Thủ Lăng Nghiêm (HT Thích Huyền Tôn)

8/ Quy Y Tam Bảo (NS Thích Nữ Tâm Lạc)

9/ Vô Thường (TT Thích Phổ Huân)

10/ Bồ Tát Giới (Đức Trưởng Lão HT Thích Bảo Lạc) 

11/ Nguyên nhân và quá trình hình thành GHPGVN Thống Nhất" (HT Thích Như Điển)

12/Ngũ Giới (Sư Cô Giác Anh)

13/Tổng Quan về Kinh Bát Đại Nhân Giác (TT Thích Đạo Hiển)

14/ Thập Thiện Nghiệp Đạo (TT Thích Viên Tịnh)

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2024(Xem: 1474)
Thật là một hoan hỷ đặc biệt đối với con khi được nghe về Tịnh Độ Mật Giáo và những vấn đề ngộ nhận dù rằng từ hơn 15 năm nay con đã khám phá, tìm tòi, học hỏi , rồi chia sẻ về THIỀN, TỊNH, MẬT theo cách phát triển cá nhân, theo quan điểm thọ nhận của mình bằng những bước đi tuần tự như thu thập bằng cách đọc, nghe và dành thời gian để suy ngẫm, tiêu hóa những kiến thức đã thu thập được.
04/10/2024(Xem: 3467)
Talk show: Đi Tu Để Làm Gì ? (Sean Le, Channel Người Việt Hải Ngoại phỏng vấn: HT Thích Như Điển)
25/09/2024(Xem: 1600)
Chúng ta thấy rằng cuộc đời của Ngài Thiếu Khang rất là kỳ đặc, sanh ra cho tới năm bảy tuổi Ngài không nói tiếng nào hết, tới năm bảy tuổi bà mẹ mới dẫn Ngài đi chùa, bản tánh của người mẹ rất thương con, dù con không nói được tiếng nào nhưng bà vẫn nói chuyện, vẫn tâm sự với con, dẫn vào Chánh điện lễ Phật chỉ vào tượng Phật hỏi mới biết con mình biết nói, Bà rất cảm động vui mừng vì không ngờ con mình im lặng bảy năm trời hôm nay mới mở miệng nói, mà nói đúng tên Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vị Giáo chủ của cõi Ta Bà, thật là tuyệt vời. Khi đọc tiểu sử của Ngài Thiếu Khang Thầy nhớ tới câu chuyện của Tổ thứ chín của Thiền tông Ấn Độ là Tổ Phục Đà Mật Đa (Budhamitra) đệ tử của Tổ Phật Đà Nan Đề, sanh ra sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khoảng ba trăm năm.
25/09/2024(Xem: 4483)
Con vừa ghi lại buổi pháp thoại Thầy thuyết giảng về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa", con kính gửi Thầy xem và chỉnh sửa thêm trước khi online. Con kính cám ơn Thầy cho phép con phiên tả, vì đây là cơ hội để con chú tâm để hiểu ít nhiều về Phật pháp thêm vào vốn liếng giáo lý quá ít ỏi của con. Bạch Thầy, con chợt nhận ra rằng, Thầy đã dùng phương tiện này để dẫn dắt con, thay vì như Tổ Thiếu Khang cho tiền để trẻ niệm A Di Đà, Thầy đã khéo léo bảo con tường thuật để cột tâm con vào một mối không đi lang thang như khi ngồi nghe giảng hay tụng kinh. Con kính tri ân Thầy.
21/09/2024(Xem: 3268)
Con trộm nghĩ nếu câu Niệm Phật được thực hiện đúng, nghĩa là luôn được gắn chặt vào một suy nghĩ bất cứ lúc nào thì suy nghĩ duy nhất này sẽ đẩy ra tất cả những suy nghĩ khác thì đương nhiên tác động kỳ diệu của việc niệm Phật rất giống với Thiền.( một yếu tố bắt buộc trong việc học Phật .) Hơn thế nữa con được nghe rằng “ Học lịch sử mà không làm sống lại được nhân vật và hoàn cảnh lịch sử thì nào có bổ ích gì" nhấn mạnh rằng việc học lịch sử không chỉ đơn thuần là ghi nhớ các sự kiện, ngày tháng, hay tên tuổi mà còn phải hiểu rõ bối cảnh, tâm tư và động lực của những nhân vật trong lịch sử. Nếu chỉ học theo cách máy móc mà không thể thấu hiểu và cảm nhận được những giá trị ẩn sau sự kiện, ta sẽ bỏ lỡ những bài học quan trọng nhất.
17/09/2024(Xem: 1521)
Từ lâu, con đã học được ý nghĩa câu nói tuyệt vời của Ngài “ Mahatma Gandhi” như sau: “Hãy sống như thể bạn sẽ chết vào ngày mai. Hãy học như thể bạn sẽ sống mãi mãi.” Theo sự hiểu biết của con : Câu nói này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trân trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống và không ngừng học hỏi. Sống với sự ý thức rằng thời gian có hạn sẽ thúc đẩy mình tận dụng mỗi ngày một cách tối đa, nhưng đồng thời hãy luôn duy trì tinh thần ham học hỏi, giống như mình còn nhiều thời gian để khám phá thêm những điều mới mẻ.
17/09/2024(Xem: 1824)
Chương trình Hoằng Pháp và gây quỹ xây dựng Học Viện PG Viên Giác (Đức Quốc) của Hòa Thượng Thích Như Điển tại Cali vào tháng 10-2024
08/09/2024(Xem: 1105)
Bạn thường tranh cãi luận bàn pháp môn Tịnh Độ Có thể “ Đới nghiệp vãng sanh “ đến cõi Tây Phương? Ý nghĩa sâu sắc định vị cảnh Thiên đường Thế thì chúng mình đang ở đâu nhỉ ? Có phải “ Tịnh độ Trần gian” nên ít khổ sầu nhiều hoan hỷ ! Bạn ơi, mình vừa tham dự pháp đàm về chủ đề này ! Nhờ chăm chú lắng nghe, nay chia sẻ những điều hay
01/09/2024(Xem: 2725)
Kính bạch Ngài, trước khi vào buổi thuyết giảng, nhờ biết trước chủ đề được giảng là “ TỰ LỰC VÀ THA LỰC TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG NHẬT BẢN “ nên con đã nghiên cứu nhiều tài liệu có liên quan về chủ đề này nhất là tác phẩm “ Tìm hiểu giáo nghĩa của Chân tông Tịnh Độ Nhật Bản “ được Giáo Sư Định Huệ dịch từ tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83) với sự kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 1490)
Ngàn người đến nghe Thượng tọa Thích Pháp Hòa giảng pháp tại chùa Đức Viên, San Jose, Hoa Kỳ. Nhân mùa lễ Vu Lan Báo Hiếu năm 2024, Phật lịch 2568; Thượng tọa Thích Pháp Hòa, trụ trì tu viện Trúc Lâm và tu viện Tây Thiên (Canada) đã đến thăm và thuyết giảng tại chùa Đức Viên, thành phố San Jose, tiểu bang California (Hoa Kỳ) vào chiều thứ tư ngày 28 tháng 8 năm 2024.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]