Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

72. Thiền Sư Viên Ngộ Khắc Cần, Tổ thứ 48, đời thứ 11 Thiền Phái Lâm Tế

13/10/202108:33(Xem: 17164)
72. Thiền Sư Viên Ngộ Khắc Cần, Tổ thứ 48, đời thứ 11 Thiền Phái Lâm Tế

218_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Khac Can






Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Viên Ngộ Khắc Cần Phật Quả (1036-1135). Ngài thuộc đời thứ 15 sau Lục Tổ Huệ Năng và cũng là Tổ thứ 11 của Thiền Phái Lâm Tế.

Ngài quê ở Bình Thành, tỉnh Giang Tô, xuất thân trong gia đình nho giáo, từ nhỏ ngài có túc duyên đến với Phật pháp.
Ngài đến chùa Diệu Tịch thấy kinh sách, tôn tượng Phật, ngài nhớ tiền kiếp của mình từng là một sa môn, ngài xin cha mẹ xuất gia với Thầy Tự Tỉnh, rồi theo học kinh luật với HT Văn Chiếu Thông, học Kinh Lăng Nghiêm với HT Mẫn Hạnh. Sau đó ngài lâm bệnh nặng và tự than rằng " Con đường Niết-bàn của chư Phật không có trong văn cú". Nên sau khi lành bệnh, ngài lên đường du phương cầu pháp. Ban đầu ngài đến học với Thiền sư Thắng ở Chùa Chân Giác. TS Thắng chích máu nơi cánh tay chỉ dạy Ngài: "Đây là một giọt nước nguồn Tào Khê". Ngài kinh hãi trong giây lâu và nói: "Đạo là như thế ư ?"

Ngài không chấp nhận và bỏ đi.

Tiếp đó, Ngài đi bộ đến đất Thục để lần lược theo học Pháp với Thiền sư Hạo ở Ngọc Tuyền, Thiền sư Tín ở Kim Loan, Thiền sư Triết ở Đại Qui, Thiền sư Tổ Thiền sư Độ Liễm ở Đông Lâm, Thiền sư Tổ Tâm ở Hoàng Long, trong đó TS Tổ Tâm có lời dự tri về cuộc đời của ngài rằng: "Ngày sau một tông Lâm Tế sẽ thuộc về con vậy".

Sau cùng, Ngài đến yết kiến thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ trình hết những hiểu biết của mình đã tu học lâu nay, nhưng TS Pháp Diễn không chấp nhận mà chỉ dùng những lời nói thô tục không theo kinh điển, nên ngài tức giận bỏ đi.  Thiền sư Pháp Diễn cảnh báo ngài "Đợi khi ông mắc bệnh nặng rồi mới nghĩ đến ta".


Ngài Khắc Cần Phật Quả tới Kim Sơn, bị bệnh thương hàn nặng thì nhớ tới lời của thiền sư Pháp Diễn. Khi hết bệnh, ngài trở lại thiền sư Pháp Diễn và được cho làm thị giả để có cơ hội học pháp.

Nữa tháng sau, có Quan Ngự Sử Đề Hình hưu trí trở về đất Thục, ghé vào thăm TS Pháp Diễn và hỏi đạo. Ngài Khắc Cần ngộ đạo nhờ cuộc đối đáp giữa Sư Phụ Pháp Diễn và vị quan Ngự Sử này.

Thiền sư Pháp Diễn hỏi: "Đề Hình thuở thiếu niên có từng đọc Tiểu Diểm thi chăng? " Trong đó có hai câu thơ gần nhau:

"Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự
Chỉ yếu Đàn Lang nhận đắc thanh"

Dịch nghĩa:

“vừa kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc,
Chỉ cốt đàn lang nhận được thanh”.

Sư phụ giải thích: 2 câu thơ này TS Pháp Diễn đọc lại từ trong câu chuyện xưa để trắc nghiệm tánh thấy của ông Đề Hình. Chuyện là ngày xưa có đôi vợ chồng mới cưới, nhưng vì lễ giáo phong kiến ràng buộc, nên dù là vợ chồng mà không được ở bên nhau để tâm sự. Chàng thì mãi miết ở thư phòng để ‘sôi kinh nấu sử’, chờ ngày ứng thí; nàng thì phải hầu hạ mẹ chồng, làm phận sự con dâu. Chàng nhớ nàng đến trước phòng hoa chúc mà ngại ngùng không dám gõ cửa. Nàng ở trong phòng dù rất muốn được gặp chồng mà cũng dám mời vào. Trong tình cảnh ấy, nàng chợt nghĩ ra một cách, gọi cô hầu Tiểu Ngọc làm việc này việc kia, rằng “Tiểu Ngọc! Lấy giúp ly nước, lấy cái trâm cài"..… Việc sai Tiểu Ngọc làm việc chỉ là cái cớ để cho chàng ở ngoài cửa kia biết rằng mình đang ở trong phòng. Cho nên, tất cả những tiếng gọi Tiểu Ngọc ơi, Tiểu Ngọc hỡi chỉ là muốn nói “Chàng ơi! Thiếp đang ở trong phòng đây nè!”. Câu chuyện ấy đã được viết thành bài thơ nổi tiếng có tựa đề là “Tiểu Diễm thi”:



Kính mời xem tiếp





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3068)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20440)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3942)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8650)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8275)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9752)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4836)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2987)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4144)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3802)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]