Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Lục Tổ Huệ-Năng.

12/10/202111:12(Xem: 13975)
06. Lục Tổ Huệ-Năng.
54_TT Thich Nguyen Tang_Luc To Hue Nang



Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Lục Tổ Huệ Năng, vị tổ thứ 33 theo dòng truyền thừa từ Sơ Tổ Ca Diếp.

Lục Tổ mồ côi cha năm lên ba tuổi. Lớn lên Tổ làm nghề bán củi phụ mẹ để độ sanh.

Nhân một hôm, Tổ đi giao củi cho một người đặt mua trước đó, Tổ nghe nhà cạnh bên có tiếng tụng kinh rất hay, ngài đứng lại để nghe, đến câu:
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (có nghĩa là: Hãy nương vào chỗ không có chỗ nương mà khởi lên tâm kia).
Như là Tổ đã nghe từ vô lượng kiếp xa xưa.Tổ chờ dứt tiếng tụng kính, liền gõ cửa xin hỏi người nhà tụng kinh gì nghe hay quá.

Sau khi Tổ được biết là kinh Kim Cang do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở chùa Đông Thiền, quận Huỳnh Mai giảng dạy. Tổ tìm phuơng cách đến tu học Ngũ Tổ, người nhà giúp cho Tổ số tiền để Tổ lo cho mẹ. Tổ lên đường đi bộ sau hai tháng đến chùa và được Tổ Hoằng Nhẫn thọ nhận.

Sau 8 tháng cực khổ làm công quả dưới nhà trù, ngài được sư phụ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ấn chứng và truyền Y Bát cho Lục Tổ và khuyên đi về miền nam ẩn tu, đợi thời cơ thuận duyên mới ra giáo hóa.
Ngài Huệ Minh đuổi theo nhưng được Tổ dùng lòng từ bi để nhiếp phục và cảm hóa, Tổ khai thị: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của TT Huệ Minh”. Sư phụ giải thích đây là bài pháp đầu tiên mà Lục Tổ tuyên pháp.

Sau đó ngài ẩn tu trong đám thợ săn 15 năm, đến thời cơ, Tổ đến chùa Bửu Lâm ( nay là chùa Nam Hoa ) được thỉnh mời giảng pháp. Một sư cô xin Tổ giảng kinh Niết Bàn, Tổ bảo đọc cho Tổ nghe vì Tổ không biết chữ, Tổ chỉ cần nghe rồi giảng, thính chúng liễu nghĩa và rất khâm phục Tổ.

Sau đó Tổ đến chùa Pháp Tánh. Nơi đây Tổ giải thích cho hai vị tăng đang tranh luận về "gió động hay phướn động", Tổ đưa ra lời khuyên " không phải gió động, cũng không phải phướn động mà chính là tâm của hai vị đang động".
Đại Sư Ấn Tông nghe Tổ giải thích thấy hay quá, nhận ra Ngài là truyền nhân của Ngũ Tổ và xin Ngài cho xem Y Bát.
Đại Sư Ấn Tông làm lễ xuất gia cho Tổ và xin làm đệ tử của Tổ.

Tổ không truyền thừa Y Bát vì số người chứng ngộ nhiều.

Tổ để lại lời kệ cốt tủy :


"Tâm địa hàm chư chủng
Phổ vũ tất giai sanh

Đốn ngộ hoa tình dĩ

Bồ-đề quả tự thành ".

Dịch nghĩa:

"Đất tâm chứa các giống

Mưa khắp tất nẩy sanh

Đốn ngộ - hoa bừng nở

Bồ-đề quả tự thành".

Chỉ cần lìa ngũ dục thì hạt giống Phật là chân như tự tánh là tâm phật hiện tiền .

Sự chứng đắc của Lục Tổ làm thức tỉnh lòng người qua pháp tu “đốn ngộ”tuyệt vời và quá đơn giản, con tưởng chừng như hành giả không cần phải tu hành gì mà vẫn được giác ngộ. Nói dễ nhưng kỳ thực khi làm thì quá khó, Tổ dạy chỉ cần liễu đạt cốt tủy lời dạy của Ngài qua mấy chữ “tự tâm đốn ngộ, trực chỉ Nhơn tâm, tự tánh cụ túc, kiến tánh thành Phật”, có nghĩa là ngay mãnh đất tâm này của mình có dung chứa hạt giống Phật, cần chăm sóc, tưới tẩm 24/7 không ngừng nghỉ, không gián đoạn thì Phật quả sẽ hiện tiền. Không cần tìm cầu bên ngoài.



 Kính mời xem tiếp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3010)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20294)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3867)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8394)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7966)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9469)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4733)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4075)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]