Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 10 – Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (Lesson 10 – The garden of Jetavana)

23/07/202112:37(Xem: 4833)
Bài 10 – Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (Lesson 10 – The garden of Jetavana)

10_Bai 10 picture

Bài 10
– Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc

Lesson 10 – The garden of Jetavana

Lecon 10Les Jardins de Jetavana

           

 

            Thời Đức Phật, ở Ấn Độ có một vị phú ông rất giàu lòng nhân từ, Ông thường chăm sóc giúp đỡ cho những người nghèo khổ, cô độc, nên mọi người đều xưng hô là trưởng giả Cấp Cô Độc.

            Vị trưởng giả ấy muốn mua đất, cất một tòa nhà lớn để cúng dường đức Phật và chúng Tăng. Ông rất thích mua vườn hoa của Thái tử Kỳ-Đà, nhưng Thái tử không bán.

            Thế rồi, vị phú ông nghĩ ra một cách khá hay: Ông cho người đem vàng tới trải khắp mặt đất của sở vườn, trừ các gốc cây và xin đem giá trị của số vàng đó làm tiền mua vườn. Thái tử Kỳ-Đà vì quá cảm động tấm lòng thành kính của ông đối với đức Phật và chúng Tăng nên không những bằng lòng bán đất mà còn tặng luôn tất cả cây trong vườn của ông.

            Vì thế, cái tên “Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên” là để kỷ niệm công ơn hai đại thí chủ có liên hệ mật thiết với sự hình thành ngôi giảng đường tại nước Xá Vệ thời ấy.

 

            In the Buddha’s time, there lived in India a rich merchant who was renowned for his generosity and kindness. He always look after the sick and helped poor and lonely people. The merchant’s name was Anathapindaka, which means the man who helps the lonely.

            Anathapindaka wanted to buy some land and build a large dwelling to accommodate the Buddha and his monks. He had found the ideal spot – a pleasure garden belonging to Prince Jeta. But Prince Jeta refused to sell the land.

            The rich merchant suddenly had a marvelous idea – he sent cart loads of gold coins to the park, and had the coins spread all over the land like a carpet, leaving out only the trees. Then he offered to buy  the park with as many coins as covered the land. Prince Jeta was so moved by Anathapindaka’s devotion to the Buddha and his followers that he not only accepted to sell the park, but offered all the trees on his land as a gift.

            This place henceforth became known as the Jetavana monastery in memory of the two kind benefactors who contributed to the foundation of one of the main centers of Buddhism in the land of Sravasti.

 

            A l’époque du Bouddha, vivait en Inde un riche marchand renommé pour sa générosité et sa gentilesse. Il se préoccupait toujours des malades et aidait les gens pauvres et seuls. Le nom de ce marchand était Anathapindaka, ce qui signifie l’homme qui aide les gens seuls.

            Anathapindaka voulait acheter des terres et construire une vaste maison pour loger le Bouddha et les bonzes. Il avait trouvé le lieu ideal – un plaisant Jardin appartenant au Prince Jeta. Maisle Prince refusait de vendre sa terre.

            Le riche marchand eut soudain une merveilleuse idée. Il envoya des chariots pleins de pieces d’or qu’il répandit, comme un tapis d’or, sur la terre, tout autour des arbres. Il offrit alors d’acheter le parc avec autant de pieces d’or qu’il était necessaire pour le recouvrir. Le Prince Jeta fut si touché par la devotion d’Anathapindaka pour le Bouddha et ses disciples qu’il accepta non seulement de vendre le parc, mais aussi fit don des arbres qui y poussaient.

            Ce lieu fut désormais connu le nom du monastère Jetavana, en mémoire des deux bienfaiteurs qui contribuèrent à la foundation d’un des principaux centres du Boudshisme en pays Sravasit.

 

 

**0**

 

(Đánh máy - Diệu Vân)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/03/2011(Xem: 8746)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
13/03/2011(Xem: 10756)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
13/03/2011(Xem: 6687)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
10/03/2011(Xem: 11961)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
09/03/2011(Xem: 11219)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
04/03/2011(Xem: 5548)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
04/03/2011(Xem: 10843)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
04/03/2011(Xem: 8452)
Một hôm, Hàn Sơn hỏi Thập Đắc: Ở đời, có người đánh tôi, mắng tôi, làm nhục tôi, khi dễ tôi, dọa tôi, gạt tôi, chê tôi, khinh tôi, ăn hiếp tôi, cười ngạo tôi cho đến đối xử khắc nghiệt với tôi, thì phải xử trí như thế nào? Thập Đắc đáp: Chỉ cần nhịn nhục họ, kính họ, sợ họ, tránh họ, nhường họ, khiêm tốn với họ, không chống cự họ, không cần để ý đến họ, rồi chờ ít năm ông hãy nhìn họ xem.
04/03/2011(Xem: 7370)
Ngài Hàn-Sơn : Trong thế gian mà bị người phỉ báng, khi dễ , nhục mạ, cười chê, khinh khi , chà đạp, ghen ghét , đè bẹp, đố kị ta. Như thế, ta phải xử trị cách nào ? Ngài Thập-Đắc trả lời : Thản nhiên vì họ mà nhẫn, mà nhường,  mà cung kính, là trọng tự do của họ, mà tránh đi, cuối cùng đừng để ý tới họ nữa. Chờ vài năm sau sẽ gặp họ. Hàn-Sơn lại hỏi : Họ vẫn giữ quyết liệt như vậy ! Có thể trốn núp được chăng ? Ngài Thập-Đắc nói : " Tôi đã từng thuộc Bài Kệ của Bồ-Tát Di-Lặc. Bạn lắng nghe ! Tôi vì Bạn mà niệm bài kệ :
24/02/2011(Xem: 2919)
Cách đây 28 năm (1973), hồi đó tôi 16 tuổi (1945), nghe kinh Bát Nhã và pháp Bảo Đàn, bỗng nhiên lòng tôi không còn luyến tiếc gì bản thân và muốn xa lìa tất cả để lên non cao tu luyện. Tôi đem ý nguyện ấy thưa với Bổn sư là Hòa thượng Diệu Quang, Tổ thứ sáu của Tổ đình Thiên Ấn và là vị khai sơn chùa Viên Giác núi Thanh Thanh - nơi tôi đang tu học. Hòa thượng nhìn tôi và nghiêm trọng bảo - ông nên dẹp bớt lòng bồng bột ấy đi! Vì khi đang học đạo thì ai cũng tưởng mình có thể thực hành sáu pháp lục độ chẳng mấy khó. Nhưng khi va chạm vào thực cảnh, chịu đói lạnh vài ba tháng, những cơn sốt rét ở rừng sâu và biết bao cảnh trạng kỳ quái cứ đêm đêm lại hiện về như trêu cợt, như dọa nạt thì thối chí ngay. Nếu chí thoát trần mạnh mẽ có thể vượt qua được, thì bấy giờ cái "Động" ở nội tâm lại hiện ra. Tổ xưa đã dạy: "Cực tịnh sanh động". Ông nên tham cứu nghĩa lý ấy và nán lại năm sau, hay đợi khi thọ đại giới rồi sẽ cho ông đi cũng không muộn. Rồi Hòa thượng đưa tay chỉ về trảng núi phía tâ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]