Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Thuyết A-di-đà Kinh: Giới Thiệu – Dịch – Chú Giải (PDF)

10/06/202119:01(Xem: 14329)
Phật Thuyết A-di-đà Kinh: Giới Thiệu – Dịch – Chú Giải (PDF)

PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH

Giới thiệu Dịch Chú giải


 Kinh A di đà - bìa41-2


 

MỤC LỤC

NG.......................................................................................... 6

GII THIU KINH A-DI-ĐÀ............................................ 13

CÁC TRUYN BN.................................................... 13

1-   Bn Phạn văn Devanagari................................. 13

2-   Bn Phạn văn La-tinh........................................ 15

3-   Bn ngài La-thp................................................ 18

4-   Bn ngài Huyn-tráng........................................ 23

CÁC KINH VĂN LIÊN H TỊNH ĐỘ CỦA ĐỨC PHT A-DI-ĐÀ ...25
GIÁO HNH QU          45

CÁC DANH HIỆU ĐỨC PHT A-DI-ĐÀ............... 53

PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ...................................... 70

THN CHÚ VÃNG SANH......................................... 75
A-DI-ĐÀ NHẤT TCHÂN NGÔN.......................... 85
NHÂN DUYÊN QUTỊNH ĐỘ................................ 91

GIỚI ĐỊNH TU TRONG KINH A-DI-ĐÀ........... 102

DANH HIU PHT A-DI-ĐÀ
ĐẦY ĐỦ TAM THÂN............................................... 111

VÀI NÉT LCH S.................................................... 116

PHẠN VĂN DEVANĀGARĪ.......................................... 135

KINH A-DI-ĐÀ
DCH T PHN NG DEVANAGARI....................... 143

Ý NGHĨA ĐỀ KINH.......................................................... 158

CHÚ GIẢI KINH VĂN..................................................... 164

BN VIT ÂM PHT THUYT A-DI-ĐÀ KINH...... 528

BN VIỆT NGHĨA PHT DY KINH A-DI-ĐÀ....... 538

BN VIT ÂM XƯNG TÁN TỊNH ĐỘ PHT NHIP TH KINH            549
BN VIỆT NGHĨA XƯNG TÁN TỊNH ĐỘ PHT NHIP TH KINH     569
THE SMALLER SUKHVATĀĪVYŪHA....................... 592
NG VNG....................................................................... 606

THƯ MỤC  THAM  KHO............................................ 654
CÁC TÁC PHM CA TÁC GI ĐÃ XUẤT BN ...661


 

 

NG

 

T khi vào chùa vi tuổi để chm, Bổn thế độ đã trao cho tôi bn kinh "Pht thuyết A-di-đà" bng ch Hán, bn dch của ngài Cưu-ma-la-thp dy phi hc thuc lòng, ri theo đại chúng đi thc tp tng kinh vào mi bui chiu.

 

Hc tng thuc lòng ngâm nga vào mi bui chiu, chng hiểu gì, nhưng tôi li rt thích. Thích không phi hiểu thích được tng kinh, li kinh ca Pht. Thích không phi hiu, thích nim tin xut gia ca mình được đặt trn vn vào thời kinh mình đang tụng y. mi khi tng, li thy gc r tâm linh ca mình ln lên. ln lên mi khi mình tng ln lên mi ngày, đến ni thy cái trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thin thấy ai đến chùa cũng đều phát xut t tâm hn thánh thin.

 

Đẹp thánh thiện đến ni, khiến cho mình đi đứng nm ngồi nói cười đều rt nh. Nh như một li kinh thánh thiện như nụ cười của chư Pht các vị B tát. Nh vy mỗi ngày đi qua làm cho mình lớn lên trong ngôi nhà của Phật pháp. Lớn lên đến ni, mình chẳng bao giờ thấy mình ln lên cả, khiến nim tin xuất gia trong sáng của tôi từ thu ấy cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên vẹn.

 

Nim tin ca tôi nguyên vn, không phi tôi gi Gii gii, tu thin gii, nim Pht gii hay hc gii, nguyên vn tôi được Thy tôi to ra không gian Tịnh độ của chư Phật cho tôi được xông ướp mi ngày trong ca Pht mt cách t nhiên. T nhiên trong s xông ướp t nhiên trong s biu hin.

 

Giáo dc bng s xông ướp, y s giáo dc trong thế gii Tịnh độ của chư Phật. Trong kinh A-di-đà diễn t chánh báo  y báo trang  nghiêm   thế gii  Tịnh  độ phương Tây của đức Pht A-di-đà từ nơi đại nguyn ca Ngài to thành. Ngay c các loại chim như: Khng- tước, Anh-vũ, Ca-lăng-tn-già, Cng-mạng đang mặt nơi thế gii Tịnh độ của đức Pht A-di-đà, tất c chúng không đến t nơi nhng nghiệp đạo bt thin ca loài súc sinh, tt c chúng đến t nơi bản nguyn ca Pht A-di-đà, nhằm hót lên nhng tiếng hót ngay trong tiếng hót y, diễn ra những pháp âm vi diệu, khiến người nghe khi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

 

Mi khi người nghe chim hót khi tâm nim Pht, thì nim chúng sinh không th khi lên; mỗi khi người nghe chim hót khi tâm nim Pháp thì các tâm hành bt thin không th khi lên; mỗi khi người nghe chim hót khi tâm niệm Tăng, thì những ht ging phin não ràng buc trong tâm t đứt rã.

 

Không nhng, nhng tiếng hót ca chim muông cõi Tnh độ tác động xông ướp như vậy, tiếng sui reo, tiếng mưa rơi, tiếng lá bay, tiếng gió thổi, hương thơm của hoa, mùi v của nước, màu hoàng kim của đất, tt c nhng âm thanh, mùi vị, hương thơm, sắc màu thế gii Tịnh độ của đức Pht A-di-đà đều tác dng kích hot xông ướp, to thành nhng cht liu hiu biết, t do an lc nơi thế gii y mt cách t nhiên.

 

T nhiên đến ni, ai mun v Tịnh độ thì hãy t nguyn chp trì danh hiu ca Pht t một ngày cho đến by ngày  nhất tâm bất loạn thì tự nhiên về, ai không muốn về thì thôi. Ai mun về, thì mang theo hành trang tín hnh nguyn về. Ai không mun v thì cứ t nhiên bỏ hành trang y xuống.

 

Tín - Hnh - Nguyện điều kin hay nhân duyên ti thiu để kích hoạt phước đức nuôi lớn phước đức làm người. Tín nim tin. Không nim tin không s hy vng. Không s hy vng không s vươn tới vươn lên. Nên, Tịnh độ của chư Phật là s sng ca nhng con người đầy sinh lực để vươn tới vươn lên.

 

Hạnh hành động theo nim tin biến nim tin tr thành hành động, đồng thi hnh cht liu kích hoạt để nim tin tr thành sc sng mt cách linh hot thc tế. Thc tế đến ni tín hnh không th tách ri nhau.

 

Nguyn ôm p nim tin, ôm p s hy vọng không để b rơi mất trong bt c hoàn cnh nào. Nguyn ôm p nim tin hành động, khiến hai cht liu này trn quyn vi nhau to thành mt sc m mãnh lit, để nim tin nthành hoa trái trí tu hành động tr thành gc r t bi. 
Không trí tuệ, ta sẽ vĩnh viễn không giải thoát tự do. Không từ bi, ta sẽ vĩnh viễn không hạnh phúc an lạc. Không trí tu thì không đủ nhân duyên để được dự phần vào dòng dõi của bậc Thánh, trở thành Pháp vương tử, được như Như lai làm pháp quán đỉnh, để gánh vác gia tài của Như lai giao phó không t bi là không có chất xúc tác làm lợi ích cho hết thy chúng sanh, để nuôi dưỡng trí tuệ đến chỗ viên thành Phật đạo, nhằm to thành y báo, chánh báo trang nghiêm ca cõi Tịnh độ. Chánh báo của Tịnh độ trí tuệ và y báo của Tịnh độ từ bi. Không trí tu từ bi, không những ta không thể nào dự phn với tha phương Tịnh độ, để cùng được với các bậc Thượng thiện nhân sống chung mt trú xứ an tịnh đã đành, cũng không thể nào khám phá diện kiến được vi Tịnh độ nơi tự tâm, để cùng ngay nơi tâm y hin kiến vi Tịnh độ của lượng, biên chư Phật đang hiện hữu khắp cả mười phương.

 

Đối vi bn kinh này, khi ln n trước 1975, tôi được hc ti Pht hc vin Báo-quc, vi Hòa thượng Thích-đức-tâm dạy ý nghĩa bản kinh Pht thuyết A-di-đà này, trong Nhị khóa hip gii. Sau 1975, tôi lại được hc bn kinh này qua bn A-di-đà sớ sao ca ngài Châu-hoành với Hòa thượng Thích-đôn-hu dy ti Pht hc vin Báo-quc Huế.

 

Li nữa, hơn bốn mươi năm thọ trì, nghin ngm, đọc tụng, đối chiếu Phn bn, Hán bn, Anh bn, cũng như các bn Chú s ca các bậc cao đức đối vi bn kinh này đến lúc hội đủ nhân duyên, tôi nguyn dch bn kinh này t bn tiếng Phn ra tiếng Vit, đối chiếu hai bn Hán dch ca ngài La-thp Huyn-tráng, lại đọc các bn: Pht thuyết Vô-lượng-th kinh, bn dch ca ngài Khương- tăng-khi; Pht thuyết Vô-lượng-thanh-tnh-bình-đẳng- giác kinh, bn dch ca ngài Chi-lâu-ca-sm; Pht thuyết A-di-đà-tam-da-tam Pht-tát-lâu Pht-đàn quá độ nhân đạo kinh, bn dch ca Chi-khiêm; Pht thuyết đại tha Vô- lượng-th trang nghiêm kinh, bn dch ca  Pháp-hin; Pht thuyết Đại A-di-đà kinh, bn ca Vương-nht-hưu gio tp; Pht thuyết Vô-lượng-th kinh, bn dch ca Cương-lương-da-xá lại đọc các bn Ký, S như: A-di- đà kinh nghĩa của Trí-khi; A-di-đà kinh nghĩa thuật ca Tu-tnh; A-di-đà kinh sớ ca Khuy-; A-di-đà kinh thông tán sớ của Khuy-cơ; A-di-đà kinh s của Nguyên- hiu; A-di-đà kinh sớ của Trí-viên; A-di-đà kinh nghĩa sớ của Nguyên-chiếu; A di-đà kinh yếu giải của Trí-húc… để tham khảo tông ý thâm ý ca kinh từ tu giác chứng nghiệm của chư bậc T đức, nhằm những phần thích ngữ luận gii, khiến không bị rơi vào những tri kiến kinh nghiệm chủ quan.

 

Nay, trong bn kinh dch chú gii này, nhng tt đẹp công lao của chư bc T đức, chư vị Giáo th , cũng như của Thy, Tvà Thin hu tri thc, đồng thi xin hồi hướng cho hết thy chúng sinh, đều hướng tâm quy kính Tam bo, hiếu tho cha mẹ, tôn kính trưởng, b ác làm lành, gi gìn tâm ý trong sch còn li nhng khiếm khuyết trong bn dch chú gii này do s hc của tôi chưa thông đạt, t tàm quý chí thành sám hi.

 

Chùa Phước-duyên Huế,
Mùa nhp tht, PL. 2563 - DL. 2019

Tỷ khưu Thích-thái-hòa
pdf-iconPhật Thuyết A-di-đà Kinh Giới Thiệu – Dịch – Chú Giải



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20253)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3859)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8377)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7944)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9449)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4717)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2918)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4073)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3730)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3774)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]