Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm của một tín nữ về Chùa làm công quả (bài viết của Phật tử Thanh Phi, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

17/08/202019:20(Xem: 4553)
Cảm niệm của một tín nữ về Chùa làm công quả (bài viết của Phật tử Thanh Phi, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

 

CẢM NIỆM CỦA MỘT TÍN NỮ

VỀ CHÙA LÀM CÔNG QUẢ

Bài viết của Phật tử Thanh Phi

do Phật tử Diệu Danh diễn đọc



 

Nhớ lại thuở xa xưa khi tôi mới chỉ là cô bé 6,7 tuổi, thỉnh thoảng vào chiều thứ Bảy, Mẹ thường dẫn tôi về thăm ông Ngoại. Gần nhà Ngoại có Chùa Linh Quang và Khuông Tuệ Quang, nên lần nào về thăm Ngoại là tối đó Mẹ cũng dẫn tôi đến Khuông Tuệ Quang để tụng kinh, tôi rất thích mặc dù tôi chưa biết tụng kinh và tụng để làm gì. Tôi chỉ thích nghe âm vang lời kinh tụng hòa chung với tiếng mõ nhịp nhàng, cùng tiếng chuông thỉnh thoảng ngân vang, và thích nhất là được nghe tụng Chú Đại Bi, tuy không nghe ra được chữ gì, nhưng thích cái âm điệu dồn dập lúc trầm, lúc bổng của thời kinh. Không hiểu sao mà tôi rất mê nghe tụng chú Đại Bi, nên mỗi khi gần nhà có đám tang, là tôi luôn tìm cách đến xem lúc có ban hộ niệm cúng, để được nghe tụng Chú Đại Bi, và thầm thán phục, sao mà các bác ấy có thể thuộc làu những lời kinh như vậy!

Khi tôi được 10 tuổi Mẹ tôi tái giá, Cha dượng là người chỉ biết thờ cúng Ông Bà nên tôi không còn dịp để đi chùa nữa.  Mãi đến năm 17 tuổi, khi anh của bạn học tôi qua đời, tôi theo bạn đến chùa Linh Quang để dự một buổi lễ Cầu Siêu. Khi thấy thấp thoáng bóng quý Thầy ngoài hành lang, tiếng chuông trống vang lên dồn dập từng hồi, lòng tôi chợt nôn nao thổn thức và nước mắt bỗng tuôn trào, ai cũng tưởng tôi khóc vì người đã mất. Nhưng không, tôi biết chắc không phải vì vậy, mà có lẽ vì thanh âm đó như thôi thúc, nhắc nhớ tôi một điều gì ...Rồi từ hôm ấy tôi cảm thấy thích sự yên tĩnh của cảnh chùa, nên những khi cần ôn bài thi, tôi thường đến chùa. Có lúc đến chùa Linh Sơn gần trường học của tôi; có khi thì đến chùa Linh Quang gần nhà Ngoại, tôi thích nơi này hơn vì yên tĩnh, hầu như không có người qua lại. Ngồi dưới gốc cây có bóng mát được bao trùm bởi tàn lá rộng lớn, bên cạnh ngôi tháp cao, thỉnh thoảng nghe tiếng chim hót ríu rít, lòng tôi thật bình lặng, và điều hẳn nhiên là tôi học thuộc bài rất nhanh. Thời ấy có lẽ vì nhút nhát và cũng không quen đi chùa nên tôi chỉ đến chùa tìm chỗ thanh vắng học bài, học xong thì về chứ không biết vào lễ Phật. Và sau khi thi tú tài xong là tôi không còn đến chùa nữa.

Thanh_Phi_va_Me_2
Tấm hình 4 thế hệ của tác giả Thanh Phi



Cho đến khi lấy chồng, và may mắn, chồng tôi là con trong một gia đình thâm tín đạo Phật và chính anh cũng đã từng tá túc trong chùa suốt 6 năm. Anh kể, nếu không có cuộc đàn áp Phật giáo năm 1963 thì có lẽ anh đã xuất gia rồi, bởi vì năm đó tu sĩ bị bắt, bị đánh đập nhiều quá, nên gia đình đã đem anh và người anh kế, hơn anh 2 tuổi đã xuất gia được 2 năm, về nhà. Và anh tiếp tục đi học, đi lính rồi cưới vợ. Khi tôi có thai đứa con đầu tiên, chồng tôi đã nói: “Nếu muốn sinh con đẹp và thông minh thì đọc Kinh Pháp Hoa”, do đó Kinh Pháp Hoa là cuốn Kinh đầu tiên tôi đọc trong đời, nhưng chỉ đọc chứ chưa hiểu được ý nghĩa thâm sâu vi diệu của Kinh.

Sau này vượt biên và được định cư tại Úc. Khi đã ổn định chỗ ở, việc đầu tiên là chúng tôi đi tìm thỉnh một tượng Phật về thờ. Thời đó muốn tìm một bức tranh hay một tượng hình Phật rất khó, nhưng chúng tôi đã may mắn thỉnh được một pho tượng Phật Thích Ca trong một tiệm bán tranh ảnh và tượng cũ. Tuy pho tượng đã cũ, nhưng tôi rất thích vì có nét quen thuộc của những tôn tượng Phật Thích Ca mà tôi từng thấy trong những ngôi chùa ở quê nhà. Pho tượng ấy cho đến nay đã 40 năm tôi vẫn còn thờ. Tuy lúc đó có bàn thờ trong nhà, nhưng vì mãi bôn ba bận rộn lo cho cuộc sống của chính gia đình mình và cho người thân còn lại bên quê nhà, hơn nữa lúc đó còn trẻ và chưa từng làm quen với nghi lễ tụng kinh, nên tôi hằng ngày chỉ biết thắp nhang lễ Phật.

Đến thập niên 80, đã có vài ngôi chùa Việt tại Melbourne, nhưng vì ngại đến chỗ đông người, nên tôi không thường đến chùa, chỉ biết cúng Phật ở nhà. Những ngày lễ lớn, nếu muốn đi thì cũng đợi đến chiều khi chùa vắng người tôi mới đến lễ Phật. Riêng chồng tôi, anh  thích ở nhà cùng vài người bạn, vừa nhâm nhi ly cà phê, uống tách trà nóng vừa bàn luận về Phật pháp, anh thích nghiên cứu kinh điển và anh nói chuyện về Phật Pháp rất hay, nên nhà tôi thường xuyên có bạn bè đến nghe anh nói chuyện. Anh vẫn hằng mong ước khi con cái đã trưởng thành, vợ chồng tôi sẽ tu tại gia, anh muốn có thời gian để học Phật và viết sách. Một mong ước thật đơn giản nhưng vẫn không thành vì anh đã ra đi khi mới 45 tuổi.

Thanh Phi
Tác giả thỉnh chuông tại Tu Viện Quảng Đức


 Sự ra đi đột ngột của anh khiến tôi hụt hẫng. Vì thương anh, ngày đêm tôi miệt mài tụng kinh để hồi hướng cầu nguyện cho anh, được siêu sanh Cực Lạc như anh hằng mong muốn, và nhờ vậy mà chính oai lực nhiệm mầu của lời kinh, tiếng kệ đã xoa dịu nỗi đau trong tôi, giúp cho tôi có được sự bình thản trong lòng. Và cứ thế tôi đã quen với hai thời kinh sáng tối trong suốt 6 năm, là thời gian tôi cố thủ không giao tiếp với ai, chỉ biết làm việc và lo cho con. Khi hai con đã khôn lớn và ổn định, tôi mới có ý định đi chùa làm công quả để thực hiện lời hứa của mình. Và cơ duyên đã đưa tôi đến Tu Viện Quảng Đức, khi chùa làm lễ đặt viên đá đầu tiên để xây cất Chánh điện.

Những thôi thúc, những nhân duyên đưa tôi gần với đạo, cho đến ngày tôi về Tu Viện Quảng Đức, tôi có cảm giác như về chính ngôi nhà của mình.

Từ đó đến nay ròng rã đã 20 năm, trong suốt thời gian đó, chùa luôn bận rộn với các công trình xây dựng, với những lễ lạc liên tục xảy ra. Và chính nhờ sự bận rộn đó mà tôi học biết được nhiều điều. Có những việc tôi chưa từng làm, nhưng khi cần cũng phải cố gắng tìm cách để làm cho xong, rốt cuộc tôi biết được nhiều thứ, tuy không chuyên môn, nhưng cũng có thể tạm dùng khi cần thiết. Đó là điều khiến cho tôi vui, quên đi sự nhọc nhằn. Và điều này không chỉ với cá nhân tôi mà dường như tất cả những ai có tâm thành về chùa làm công quả, cũng đều như vậy cả.

Trong suốt 20 năm làm công quả tôi nhận thấy một điều: Có lẽ vì chùa ở hải ngoại thường chỉ có một hai vị Tăng, hay Ni, nên chuyện quán xuyến trong chùa, những khâu chuẩn bị trong những ngày lễ thường do Phật tử đảm nhận, nhất là khâu nhà bếp mà đa phần là Phật tử nữ. Từ các Cụ, các chị đến các em, hầu như ai cũng phải vất vả, dành nhiều thời gian để chung tay lo Phật sự, vun bồi ngôi Tam bảo. Đức tính chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đã được thể hiện triệt để vào những lúc đó. Nếu ai đã chứng kiến sự vất vả của các vị Phật tử công quả, mới thấy thương mà cảm thông bỏ qua cho những sai phạm xuất phát từ lòng tị hiềm, tranh đua, vốn dĩ là tập khí nhiều đời mà hầu như người phụ nữ nào cũng có, không nhiều thì ít. Nếu không biết cảm thông bỏ qua cho nhau để phải tạo nên sự bất hòa, thì tuy có công lo phụ giúp cho chùa nhưng đồng thời cũng đem đến nhiều phiền não cho chư vị Trụ Trì. Đó là điều đáng tiếc, nếu khắc phục được thì quả là tuyệt vời. Và hầu như khắp nơi, bất cứ chốn già lam nào cũng mong muốn được như vậy. Bởi thế mà có nhiều vị Thầy từng nói: “Thầy muốn lập chùa nhưng Thầy sợ lập nhà bếp”.

Thanh Phi-2
Tác giả và bạn hiền Đức Nghiêm 


Một lúc nào đó chợt quan sát, thì dường như bất cứ ai dù hung dữ, đối xử xấu với bạn đạo như thế nào, nhưng khi quỳ trước đấng Thế Tôn, hoặc khi đối diện với chư Tôn Đức, thì nơi họ cũng lộ vẻ cung kính với nét thiện lành. Trong họ cũng đã có chủng tử Phật. Ta hãy thương và tha thứ cho họ. Hy vọng với những tháng ngày làm công quả, mọi người có đủ phước để tiêu trừ bớt nghiệp chướng, để một ngày nào đó, huệ được phát sanh, nhận thấy cái sai của mình mà tu sửa, tinh cần tu học, hầu vẹn toàn câu “Phước huệ song tu” để không bỏ công những tháng ngày lui tới chốn già lam, không phụ ân quý Thầy giáo huấn và chính là không cô phụ bản thân mình trên con đường tìm giải thoát.

Vạn pháp vốn không, không tự tánh

Cớ gì ta cứ mãi đua tranh

Sắc tài danh lợi đều duyên hợp

Chấp chặt làm chi cái giả danh...

Riêng tôi cũng đã hơn 20 năm, tuy chọn đường học đạo, nhưng với ngần ấy thời gian, xét ra theo lời của Tổ Quy Sơn nhắc nhở sách tấn người tu đạo: “Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức” (nghĩa là bên trong giữ chánh niệm lập Công, bên ngoài giữ không tranh lập Đức), thì dường như tôi chỉ thực hiện được phần nào của câu vế thứ hai, còn phần hành của vế thứ nhất tôi chưa thực sự dụng công. Bỗng dưng thấy buồn! Nhớ lời Sư Phụ Nguyên Tạng nói: “Người tu lấy trí tuệ làm sự nghiệp” thế mà bao năm tháng qua, tôi đã chưa tận sức vun bồi cho sự nghiệp của mình. Nghĩ đến thời gian còn lại của đời người tôi thực sự lo âu: Mình sẽ còn nhặt được bao nhiêu chiếc lá tri thức trong rừng giáo lý của Như Lai? Đường về quê cũ chắc hẳn sẽ còn xa…xa lắm!

Dạm bước quay về chốn quê xưa

Gian nan trắc trở chẳng phải vừa

Duyên may, bậc trí - Người khai ngộ

Thấu hiểu chơn kinh lý Đại thừa

Vạn pháp xưa nay đều huyễn ảo

Thị phi nhân ngã… chuyện nắng mưa

Từ nay nguyện nhớ lời khuyên dạy

Khắc niệm chi công, chẳng biếng lười...

 

Melbourne 17/8/2020

Thanh Phi

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2015(Xem: 6689)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4898)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10143)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3663)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4861)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5092)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7768)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4277)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13548)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
06/12/2014(Xem: 3690)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]