Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

151. Đến địa phủ thấy tội nhân lòng ác không chừa

31/10/201818:07(Xem: 6808)
151. Đến địa phủ thấy tội nhân lòng ác không chừa

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 151:
Đến địa phủ thấy tội nhân lòng ác không chừa

Gặp yêu quái khởi tà tâm tan thân mạng


Bị quỷ tốt ném vào vạc dầu sôi, Trương Sĩ Phương sợ quá hét lên một tiếng giựt mình tỉnh lại, mở mắt ra mới hay là mình vừa chiêm bao, đang nằm trên giường mà mồ hôi ra ướt cả mền nệm. Vừa mới định thần thì nghe bên kia Lý Tu Duyên la lên:

- Không xong rồi, đau lòng em quá Trương đại ca ơi!

Trương Sĩ Phương hỏi:

- Lý hiền đệ, em la cái gì vậy?

Em mới vừa nằm mộng, thấy có hai quan nhân đến trói dẫn anh xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương bảo quỷ tốt dẫn anh đi xem các địa ngục. Em cũng đi theo phía sau anh. Anh xem các địa ngục xong, Diêm Vương nói anh làm hại Vương viên ngoại, lại còn muốn hại bao nhiêu người nữa. Em thấy anh bị quăng vô vạc dầu sôi sùng sục, sợ quá em la lên một tiếng giật mình tỉnh lại.

Trương Sĩ Phương nghe xong nghĩ thầm: "Lạ thiệt, làm sao mình nằm mộng mà nó biết kìa?". Rồi lại nghĩ: "Nằm mộng là ở trong lòng thôi, làm gì có việc đó! Phải nghĩ cách giết hai thằng này mình mới phát tài được. Nếu không như vậy thì không xong!". Nghĩ tới nghĩ lui rồi ngũ nữa. Lại cũng nằm mộng như trước, nhưng lần này thấy mộng không bị quăng vào vạc dầu mà bị ném lên núi dao. Sợ quá giật mình tỉnh giấc, lại ướt đẫm cả mồ hôi! Ba lần như vậy, Trưong Sĩ Phương sợ quá trống ngực đập thình thịch! Nghe bên ngoài trống điểm canh ba, Trương Sĩ Phương nghĩ bụng: "Thôi mình đừng ngũ ở đây nữa, căn nhà này xui quá! Ngủ nữa, mình phải sợ bắt chết đi!". Hắn nghĩ rồi, ngồi dậy nói:

- Hai vị hiền đệ ngủ đi nhé! Tôi có việc phải đi đây.

Vương Toàn cũng tỉnh dậy, nói:

- Trương đại ca, nửa đêm mà anh đi đâu vậy?

- Chú để mặc tôi. Tôi không ở đây nữa.

- Anh muốn thế thì gọi gia nhân mở cửa cho.

Trương Sĩ Phương mặc y phục xong, bước ra kêu gia nhân mở cửa. Mọi người vừa mới ngủ bị dựng dậy mở cửa, ai cũng rủa thầm hắn vì từ hồi nào đến giờ hắn không được lòng ai cả. Ra khỏi thôn Vĩnh Ninh, Trương Sĩ Phương thẳng đến Hài Sanh kiều, ngước mắt nhìn lên, mặt trăng đang lơ lửng trên không. Đương lúc tàn thu, mặt nước lặng lờ long lánh như gương. Gió Tây thổi lại, nhuộm màu vàng cả rừng cây. Nhìn xuống dưới cầu, dòng nước thu trong cuồn cuộn chảy về Đông. Đêm sâu yên tĩnh, gà chó lặng im. Đứng trên cầu, Trương Sĩ Phương tự hỏi: "Đêm khuya canh ba mình đi đâu nhỉ? Chi bằng đến viện Câu Lan nghỉ đỡ đêm nay". Mới tính như vậy, bỗng nghe trong rừng cây phía Bắc có tiếng đàn bà khóc nỉ non. Trương Sĩ Phương theo tiếng tìm đến gần xem thử. Quả nhiên đó là một thiếu phụ, tuổi cũng không quá hai mươi. Tiếng thở than như mật rót đầy vẻ bi ai. Trương Sĩ Phương tiếc cho ánh trăng không đủ tỏ để nhìn thấy vẻ nguyệt thẹn hoa nhường. Chiếc miệng nhỏ xíu hợp với đôi mày ngài mắt hạnh trên gương mặt ngọc phù dung, từ đầu đến chân không chỗ nào chê được. Trương Sĩ Phương nhìn thấy tức thì dâm tâm phát động. Hắn ta vốn là quỷ đói trong đám sắc, ma vương của loài hoa, vội vàng nói:

- Vị tiểu nương này, tại sao đêm khuya tăm tối mà lại khóc than ở đây?

Người thiếu ấy ngước mắt lên nhìn, nói:

- Thưa đại gia công tử, tiểu phụ học Chương, chỉ vì chồng không ra gì, cả gia tài đều đem nướng vào sòng bạc hết, đến nổi nhà phải chạy ăn từng bữa. Như vậy chưa đủ, hôm nay chồng tiểu phụ cần tiền, mới bán tiểu phụ để ăn thua trong sòng bạc. Cho nên tối nay tiểu phụ lén trốn ra đây, định ngồi khóc lóc một hồi rồi treo mình kết liễu cuộc đời cho xong. Đại gia công tử nghĩ xem, rơi vào hoàn cảnh này còn sống mà làm gì?

Trương Sĩ Phương nghe nói có ý mừng thầm, cho đây là dịp thuận tiện, vội nói:

- Tiểu nương tử ơi, nàng đừng nghĩ quẫn như thế! Người ta chết rồi không thể sống lại được. Nàng đang còn tuổi trẻ thanh xuân, chết thật là quá uổng! Chi bằng nàng hãy theo ta có tốt hơn không?

- Ôi, tôi theo công tử đi đâu?

- Ta nói cho nàng biết, nàng thử hỏi thăm trên phố này xem. Ta họ Trương tên là Sĩ Phương, là ai tài chủ ở tại địa phương này, trong nhà cũng có nhà cửa điền sản đầy đủ, cửa hiệu buôn bán tơ lụa. Gần đây vợ ta vừa mới mất, không ai vừa ý nên chưa tục huyền. Không đi bước nữa không phải tại ta không muốn, mà vì muốn chính mắt mình thấy người ưng ý mới bằng lòng. Nếu nàng chịu đi cùng ta, chúng ta hai người quả là trai tài gái sắc đẹp đôi. Một khi nàng thành vợ của ta, y phục cả rương, đồ trang sức không biết bao nhiêu hộp, nhất hô bá ứng, nàng thấy thế nào?

- Công tử hiện ở đâu?

- Nàng đi với ta nhé!

Nói rồi đưa tay muốn kéo đi. Thiếu phụ ấy nói:

- Công tử xem có ai đến không?

Trương Sĩ Phương ngoái đầu nhìn lại không thấy có người nào, day lại cũng không thấy thiếu phụ đâu. Trương Sĩ Phương còn đương ngạc nhiên, thì một con hương chương nhảy xổ lại ngoạm ngay cổ kéo vật xuống ăn thịt. Nó ăn Trương Sĩ Phương còn chừa lại một đầu và một cái đùi. Té ra người thiếu phụ ấy chính là con hương chương biến ra. Nó vâng lệnh Tế Công chờ sẵn ở đây để ăn thịt Trương Sĩ Phương. Chính tên tiểu tử này tâm ý quá độc ác xấu xa, mới bị yêu tinh thanh toán như vậy.

Sáng hôm sau, Vương An Sĩ nghe nói Trương Sĩ Phương nửa đêm bỏ đi mới cho người đi tìm kiếm. Gia nhân về báo là chỉ gặp chiếc đầu và một cái đùi của Trương Sĩ Phương sót lại. Vương An Sĩ bảo gia nhân đi mua một cổ quan tài về bỏ chiếc đầu và chân còn lại của hắn vào trong đem chôn trên gò mả lạng. Vương An Sĩ muốn cho Lý Tu Duyên hoàn tục rồi mới lo chuyện hôn nhân tiếp theo, bèn chọn ngày lành tháng tốt, sai gia nhân đưa tin đến Hòa thượng phương trượng chùa Quốc Thanh vì Lý Tu Duyên là đệ tử ký danh của chùa. Hôm đó lãi viên ngoại cùng Vương Toàn đưa Lý Tu Duyên lên chùa Quốc Thanh làm lễ nhảy tường hoàn tục. Viên ngoại kêu gia nhân chuẩn bị ba cổ ngựa chở Lý Tu Duyên và đặt tăng mạo, tăng y rách nát lên đó, Các gai nhân đều cưỡi ngựa đi theo, Vừa mới ra khỏi đầu thôn Vĩnh Ninh, Tế Điên thi triển nghiệm pháp, con ngựa đang cỡi tách đoàn chạy nhanh tới trước vào thẳng trong rừng. Tế Điên nhảy xuống ngựa trút bỏ toàn bộ y phục văn sinh công tử, lấy tăng y cũ mặc vào rồi dùng tay chỉ một cái, đem ngựa treo lên cây, dùng phép ẩn thân giấu biến con ngựa đi, Tế Điên cất bước lần về phía trước, thấy từ hướng đối diện đi lại năm, sáu ông Hòa thượng kiếc. Họ bảo nhau:

Chúng mình phải đi nhanh may ra tối nay mới kịp. Hôm nay cháu gái của Đổng viên ngoại là Lưu Tố Tố con của Lưu Bá Vạn cúng Tăng thí gạo, mỗi người được 200 tiền và một cái bánh bao. Cô nương nguyên đã hứa gả cho Lý Tu Duyên, con của Lý Tiết đạt sứ. Nào ngờ Lý Tu Duyên từ năm 18 tuổi đã bỏ đi mất. Cô nương này hiện ở nhà cậu, Đổng viên ngoại muốn tìm mối khác cho cô, nhưng cố ấy nói: "Trung thần không thờ hai chúa, liệt nữ chẳng lấy hai chồng, đến chết không đổi ý". Vị cô nương này là người tài giỏi, các thân hào nhân sĩ của huyện Thiên Thai chúng ta ai cũng khen ngợi cô. Đổng viên ngoại thúc ép cô dữ quá, bảo cô nương không cần phải chờ Lý Tu Duyên nữa, nên ưng mối khác đi. Cô nương không biết làm sao mới ra một câu đối, nói rằng nếu ai đối được thì ưng người đó. Cô nương ra câu đố khó quá nên mấy giám sinh ở phủ Thái Châu chúng ta không ai đối được, đúng là đụng đầu vào gai! Cô nương tánh hay làm phước, chúng ta đi lãnh bánh bao và tiền đi!

Tế Điên nghe họ nói chuyện, biết là họ nói về cô vợ chưa cưới của Lý Tu Duyên, nên bước tới nói:

- May quá, may quá! Chúng ta cùng đi nhé!

Các ông Hòa thượng kia dòm lại, hỏi:

- Ông cũng đi lãnh bánh bao ở Đổng gia trang à?

- Chớ sao!

Nói rồi nhìn kỹ trước mắt không xa là một vườn cây, đó là Đổng gia trang. Tiến vào cửa thôn, thấy cổng lớn ở phía Bắc đường cất một cái rạp rất lớn. Các tăng nhân vào cửa, thấy quản gia đang phát bánh và tiền. Tế Điên nói:

- Chúng tôi có bảy Hòa thượng tất cả. Chú đưa bảy cái bánh bao và một điếu tiền 400 tiền cho tôi, tôi sẽ chia lại cho các Hòa thượng kia.

Quản gia nghe nói bèn lấy bảy cái bánh bao và một điếu 400 tiền tổng cộng nặng khoản một cân mốt đưa cho Tế Điên. Tế Điên nói với Hòa thượng kia:

- Bánh bao thì mấy vị hãy cầm phần mình, còn tiền thì thư thả lát nữa lại đằng kia sẽ chia nhé!

Nói rồi nhìn sang thấy cửa sổ mở hoác, bên trong có một chiếc bàn để sẵn bút mực nghiên đầy đủ. Kế bên dán một câu đối 11 chữ, đều có bộ Mịch trùm đầu, câu đối là: "Ký ngụ khách gia, lao thủ hàn song không tịch mịch". (Nương náu nơi này, nóng nảy não nề niềm nợ nặng). Tế Điên hỏi:

- Câu đối này để làm gì vậy? 

Câu đối này của cô nương chúng tôi ra đó. Viên ngoại chúng tôi nói: Nếu có ông nào đối được vế sau thì coi như người nhà; nếu người tăng hay đạo đối được thì viên ngoại tôi sẽ cất một ngôi chùa hay ngôi miếu; hoặc là văn sinh công tử đối được, chỉ cần tuổi tác tương đương, viên ngoại sẽ tình nguyện gả cô nương cho người ấy. Nhưng câu đối ấy quá khó đến nỗi những người đọc sách ở xứ này đều thúc thủ.

Tế Điên nói:

- Để ta đối vế sau câu ấy có được không?

- Nếu ông có tài học có thể đối được về sau, viên ngoại tôi chắc chắn sẽ cất chùa cho ông đó.

Tế Điên cầm viết ngoáy lia liạ. Quản gia cầm đưa cho vú em bảo đem cho cô nương xem. Cô nương xem vế đối cứ tặc lưỡi khen hay, cho thiệt là kỳ văn, diệu văn, tuyệt văn! Thật ra vế trên không phải là dễ đối. Mười một chữ trên đều có bộ Mịch trùm đầu, còn về ý nghĩa thì cô nương nói về thân thế mình, cha mẹ mất sớm phải ở tạm nhà của cậu, khác nào việc "Ký ngụ gia" (tạm ngụ nhà người), còn "Lao thủ hàn song không tịch mịch" là nói con người lẻ loi của chính mình, ngồi một mình ở khuê phòng, trong lòng buồn bả, biết đến ngày nào mới được mở mặt mày!

Về phần vế dưới muốn coi như đắc cách, ngoài việc đối được ý tứ còn phải 11 chữ mang cùng bộ loại: hoặc toàn là bộ Mịch, hoặc ba chấm Thủy, hoặc đeo bộ Khẩu, hoặc Nhơn đơn nay Nhơn kép (xích) ; hoặc có Ngôn ở bên toàn dùng lời nói; còn vế sau của Tế Điên dùng toàn bộ Sước có nghĩa là "đi". Câu đối là: "Viễn ti mê đồ, thối hoàn liên kỉnh phản tiêu diêu" (Đường đời đày đọa, đến đâu đạo đức được đồng đi). Ý nghĩa 11 chữ này ám chỉ Lưu Tố Tố cô nương từ khi lọt lòng đến nay, chay tịnh từ bụng mẹ không ăn thịt cá bao giờ. Cô ta vốn là Liên Hoa La Hán chuyển thế lạc vào nữ thai. Hôm nay Tế Điên đến làm câu đối lại cốt ngầm độ người vợ chưa cưới. "Viễn tị mê đồ" có ý nói người ta sống ở đời như một giấc mộng to, không khác nào lạc trong đường mê. Xa lánh đường mê tức là phải lánh khỏi đường mê đó. "Thối hoàn liên kỉnh phản tiêu diêu" là nói chi bằng đi xuất gia là được tiêu diêu tự tại. Cô nương xem câu đối tắc khen hay, vội bảo:

- Mau kêu người ấy vào đây cho ta gặp mặt.

Gia nhân nói:

- Người đó là một ông Hòa thượng kiếc.

- Bất luận là tăng hay đạo ta cũng muốn gặp.

Gia nhân chạy ra ngoài tìm Hòa thượng thì không còn thấy tung tích đâu nữa. Tế Điên cầm một điếu 400 tiền thi triển nghiệm pháp chạy đi. Sáu ông Hòa thượng trong chớp mắt không để ý, thấy ông Hòa thượng đâu mất bèn lật đật rượt theo. Vừa chạy ra khỏi cửa làng thì thấy Tế Điên đang ngồi trên đất nghịch tiền, nói nhảm một mình:

- Tiền này ít quá, hai trăm tiền không đủ đếm!

Sáu ông Hòa thượng thấy vậy nổi giận áp lại vây chặt định đánh Tế Điên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3902)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10640)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 16727)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9165)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3246)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10311)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3110)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5591)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16558)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8539)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]