Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Xem Thơ Dặn, Thám Dọ Triệu Gia Lầu

17/10/201821:01(Xem: 7525)
68. Xem Thơ Dặn, Thám Dọ Triệu Gia Lầu

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 68:
Xem Thơ Dặn, Thám Dọ Triệu Gia Lầu
Gặp Nạn Phụ, Anh Hùng Tâm Trắc Ẩn


Sau khi được vị lão trượng chỉ đường, Lôi Minh, Trần Lượng đi thẳng về hướng Bắc. Không xa đó quả nhiên có tiệm gạo Đức Thái Dũ ở phía Đông đường. Cách vách tường của tiệm về hướng Bắc có một con đường khá lớn. Theo con đường Hưng Long ấy đi một đỗi thấy bên đường trước mặt có một cái cổng to với hai cây hòe lớn bên ngoài. Trên cổng có một biển đề: "Lạc thiện hiếu thi". Trần Lượng xem kỹ biết bên trong thế nào cũng có nội quái. Nội quái là gì? Đó là tiếng lóng của giới giang hồ lục lâm, gọi những người mhận công việc bảo tiêu là nội quái, những người múa võ kiếm ăn trên đường là tinh quái. Trần Lượng quan sát rồi cùng với Lôi Minh đi qua phía Đông, thấy bên Đông của cửa lớn có một đường hẻm nhỏ ở bên chạy về hướng Bắc. Lôi Minh, Trần Lượng cùng bước vào con đường hẻm nhỏ ấy. Con đường này rất hẹp, rộng ước chừng hai thước (60m). Trần Lượng nói:

- Nhị ca, anh coi con đường hẻm nhỏ này, nếu đằng kia có ai mập mạp một chút đi lại thì hai bên chen nhau có thể không lọt lắm đấy.

Hai người đi thẳng vào con đường hẻm xem thử. Bên trong vách tường phía Tây là hoa viên của nhà họ Triệu. Lôi Minh, Trần Lượng đứng trên gò cao nhìn qua một lượt. Bên trong hoa viên bài trí rất lớp lang với những giá sơn đá đâm tua tủa, nguyệt nha hà, mẫu đơn đình, đậu tường vi, chiếc thuyền con, lưu phong các, đình đụt nắng, đình thưởng tuyết. Thật là hoa nở bốn mùa không ngớt, cỏ thơm tám tiết xanh rờn. Chính giữa vườn hoa có một nhà lầu ba gian. Trước những cửa sổ đều có treo màn. Mấy đứa a hoàn bộc phụ đang cầm giỏ nhỏ xuống lầu hái hoa, hái xong đem trở lên lầu. Trần Lượng nói:

- Nhị ca này, anh xem trên lầu chắc là có phụ nữ ở, nhưng vì mắc tấm rèm che chắn nên không nhìn rõ được bên trong là cô nương hay thiếu phụ.

Hai người cũng không dám nhìn lâu vì sợ e người mhà họ Triệu trông thấy. Trần Lượng nói: 

- Nhị ca, tối nay bọn mình sẽ do con đường này vào dọ thám nhé.

Nói rồi hai người cùng trở ra ngõ hẻm. Vừa đến đầu hẻm thấy ở cổng nhà Triệu thiện nhân người vây đông nghịt. Trần Lượng ngạc nhiên nói:

- Hồi nãy mình mới vào đường hẻm này đâu có ai, sao bây giờ đông nghịt vậy kìa?

Nói rồi bèn vẹt mọi người tiến vào xem. Bên trong là một thiếu phụ còn nhỏ tuổi, đầu chít khăn tang, mình mặc hiếu phục, lưng thắt dây gai. Một ông lão đứng kế bên cầm tờ giấy trải trên đất. Trên tờ giấy viết sẵn tờ cáo bạch: Kính cùng chư vị tứ phương: Tiểu phụ nhân họ Lưu, nhà ở cuối đường phía Bắc ngõ Hưng Long này. Chỉ vì gia đình quá nghèo túng, bà gia tôi lo lắng lâu ngày, bệnh cũ nhân đó tái phát, thuốc thang vô hiệu, vừa tạ thế vào giờ Thân ngày hôm quạ Chồng của tiểu phụ nhân vốn sống bằng nghề buôn bán lặt vặt, mấy lúc nay bị ghẻ độc hành hạ không thể day trở được, bà già tôi vừa qua đời, áo mền quan quách đều không có, nhà đang chạy ăn từng bữa, không còn gì để bán được. Gặp cảnh khốn khó này chẳng biết phải làm sao! Cùng kế khả thi, chỉ trông cậy vào lòng trắc ẩn của chư vị bốn phương. Ngày xưa nhờ có thuyền thóc hỗ trợ mà khỏi được ốm o của ngựa kém. Xưa nay đều như thế. Thảng như nhờ lòng thương của chư vị ra sức giúp vun, góp ít thành nhiều, trọn nên nghĩa cử. Bà gia của tiểu phụ nhân được cất chôn kín đáo, thật là một ân đức không gì sánh kịp!

Nói xong, Lưu thị dập đầu bái tạ.

Trần Lượng xem thấy hoàn cảnh thật đáng thương tâm. Lại nghe ông lão đứng kế bên nói;

- Thưa các vị đại gia, người phụ nữ này là hàng xóm của lão hán. Nhân vì bà già chồng của cô ta vừa mới mất, chồng cô ta lại bị ghẻ dữ không thể tống táng được. Tôi đi với cô ta đến đây, cầu xin bốn phương quân tử mở lòng nhân từ, ra tay làm phước, mỗi người một ít giúp qua cơn nghèo ngặt.

Có người ưa làm việc bố thí, nghe thấy hoàn cảnh đáng thương vừa mới rút tiền ra, thì có người khác đứng kế bên nói:

- Lão huynh, anh đừng vội tin! chuyện này biết thiệt hay giả đấy? Coi chừng họ kiếm chuyện làm tiền anh đấy!

Vì câu nói ấy mà người nọ rút tay ra không! Thật là: "Một câu nói nên nhà, cũng một câu nói mà nát cửa". Người vừa nói câu phá bình ấy họ Trần, tên là Sự Bất Túc, ngoại hiệu là Hoại sự hữu dư "rớ đâu hư đó". Trần Lượng nói

- Nhị ca này, đây là việc tốt, chúng ta nên giúp đỡ cô ta.

Lôi Minh đáp: Phải đó!


Nói rồi rút ra một nắm bạc có hơn 10 lượng đưa cho người thiếu phụ ấy. Trần Lượng cũng móc bạc đưa thêm và nói:

- Khoản bạc này tính chung ước 40 lượng, cô hãy đem về nhà lo mua sắm quan tài và các vật dụng tang ma, khỏi phải trước mọi người kêu cầu nài nỉ.

Người thiếu phụ thấy Trần Lượng đưa cho số tiền lớn như vậy, lật đật hỏi:

- Xin hỏi nhị vị ân công quý tánh đại danh là gì?

Trần Lượng đáp:

- Cô khỏi cần hỏi tên họ tôi làm chi, chúng tôi không phải là người ở vùng này, đừng tính chuyện đền đáp làm chi, hãy trở về nhà lo việc thì hơn!

Người phụ nữ không ngờ gặp người qua đường có lòng tốt như vậy. Cô ta cốt đến đây để xin Triệu thiện nhân giúp đỡ mà thôi. Trước kia, Triệu thiện nhân thường hay thí xả quan tài cho người nghèo khó. Cũng bởi bọn vô sỉ lợi dụng lòng tốt của người, nhà không có người chết, cũng mặc áo sô đến nhà họ Triệu dập đầu xin quan tài, gạt lấy áo quan tài đem ra trại hòm bán lại. Vì thế hiện tại nhà họ Triệu không phát tâm thí áo quan nữa, trừ khi thấy đúng nhà có người chết mới chọ Người phụ nữ này định đến cửa nhà họ Triệu để xin Triệu thiện nhân. Nào ngờ được Lôi Minh, Trần Lượng giúp đỡ cho một số bạc, người ấy hết lòng cảm tạ rồi trở về nhà.

Lôi Minh, Trần Lượng làm nghĩa cử ấy xong bèn về hướng Tây, ngõ Hưng Long, tìm một quán rượu vào ăn uống. Nhâm nhi mãi cho đến trống đổ canh hai, hai người tính tiền rượu rồi bước ra khỏi quán. Tìm chỗ vắng lấy bao đồ dạ hành lôi ra quần áo đen khăn đen để thay đổi. Trên đầu cột chiếc khăn đoạn màu đen, bên trên đội một cái mũ xẻ ba, khắp người quấn dây La hán đầu gút mối, trước ngực đính hình con bướm, hai cánh phủ đến cạnh sườn; trước đầu bướm là túi bát bửu, bên trong đầy đủ những vật dụng cần thiết như: thiên lý hỏa, đèn tự minh, nạy cửa khoét song... khố đen vớ xanh với đôi giầy đế cao. Đơn dao đút vào bao da cất kỹ, quần áo mặc ban ngày bỏ hết vào bao cột kỹ bên mình. Sửa soạn xong, hai người cất mình nhảy lên nóc nhà, dùng thuật phi thiềm tẩu bích lướt đi vùn vụt.

Hai người đi đến một ngôi nhà gồm có ba gian. Trong gian phía Đông có ánh đèn thấp thoáng, bóng người lung linh. Bỗng nghe có tiếng người nói:

- Nương tử cúng hai vị ân công chưa? Đốt hương chưa?

Có tiếng đàn bà đáp lại:

- Đã cúng rồi!

- Nương tử đi nghỉ chút đi! Ngày mai hãy đi mua quan tài. Thật tội cho nàng, hôm nay phải cực khổ quá! Nàng hãy nằm ngủ một chút. Kể ra ông trời cũng không nỡ đẩy người đến bước đường cùng, mới khiến cho gặp được người xem tiền như rác thế ấy.

Trần Lượng nằm trên nóc nhà nghe tiếng nói hơi quen, bèn kéo Lôi Minh nhảy xuống, đến bên cửa sổ lấy nước miếng thấm ướt dùi một lỗ nhìn vào: Trên đất nằm ngay ngắn một người đã chết, ấy là lão thái thái. Ngay phía trước là một cái giường tre, trên giường một người đàn ông chừng 30 tuổi, trên bắp vế mọc mụn ghẻ to bằng cái chén. Dựa vách phía Đông có đặt một chiếc bàn. Trên bàn thờ, một bài vị trên viết: - Nhị vị ân công thần vị. Trước bài vị, ba nén hương còn cháy dở. Một người phụ nữ đứng dưới đất chính là thiếu phụ chít khăn sô xin tiền quan tài lúc ban chiều. Người thiếu phụ sau khi thổi tắt đèn bèn đến bên giường, vẫn để nguyên áo, nằm xuống ngủ.

Trần Lượng kéo Lôi Minh ra góc tường Đông thì thầm:

- Nhị ca ơi, không xong rồi! Bài vị thờ trên bàn là người thiếu phụ ấy viết tên chúng ta đó.

- Thờ thì thờ, có sợ gì?

- Tại nhị ca không đọc sách nên không biết đó chớ. Hồi xưa vào thời Tùy Đường có vị tên Tần Quỳnh tự Phúc Bảo, ông ta cứu mạng Đường Vương Lý Uyên ở núi Lâm Đồng, Đường Vương hỏi họ tên ông là gì? Tần Quỳnh chạy xa nói với lại: Tôi tên là Tần Quỳnh. Vừa nói vừa đưa tay khoát. Đường Vương Lý Uyên nghe không rõ, tưởng là Quỳnh Ngũ. Trở về bèn thờ bài vị Quỳnh Ngũ đại tướng quân. Báo hại Tần Quỳnh sa sút đến nỗi phải cầm cây giản và bán con ngựa quý của mình ở thành Lộ Châu đấy. Bọn mình là bọn phàm phu tực tử mà bị thờ như vậy, há không tổn phước mà tàn mạt hay sao?

- Vậy để ta trộm quách bài vị cho xong.

- Anh lấy cắp rồi ngày mai họ lại viết bài vị khác.

- Vậy phải làm sao bây giờ?

Hai người nói chuyện tới đó bỗng nghe từ bên ngoài có cục đất ai ném vào. Lôi Minh, Trần Lượng đoán chừng Hoa vân long đi hái hoa ngang qua đây. Hai người lật đật đứng nấp vào góc tường nhìn ra. Từ bên ngoài vách nhô lên một cây sào dài, bên trên cột cây ngang, đó gọi là cái thang rết. Một tên trộm vặt từ bên ngoài leo vào, mắt nhìn quanh bốn phía. Tên trộm vặt vừa mới đến họ Tiền, tên là Tâm Thắng. Tên này vốn là người ở đường hẻm Hưng Long, thường ngày chẳng làm chi cả trừ việc ăn nhậu và đánh bạc. Bao nhiêu sản nghiệp tiêu ma hết, vợ con cũng buồn tình bỏ đi nốt. Trưa hôm đó hắn thấy bọn Lôi, trần giúp đỡ Lưu Vương thị một gói bạc độ 40 lượng, Tiền Tâm Thắng hận không được số tiền ấy. Tối lại hắn mới nảy ra ý gian, bèn làm một cái thang rết, đem đền nhà họ Lưu, leo lên tường dò thử rồi theo thang tuột xuống. Hắn rút ra một con dao nhỏ, đi đến cửa nhà trên cạy cửa một cái rồi nghe thử, cạy đôi ba lượt cửa mới bật mở. Tên trộm bước vào dòm thử, trong nhà chẳng có tủ rương chi, vợ chồng Lưu, Vương ngủ say như chết. Vì không có chỗ cất tiền, Lưu Vương thị bèn nhét tiền dưới mép chiếu. Tên trộm mò mẫm một lát liền vớ phải, lòng mừng khấp khởi, lật đật bước ra khỏi nhà, theo thang trèo lên tường. Đứng trên tường bỏ thang ra ngoài rồi trèo xuống. Lôi, Trần hai người đứng rình thấy rõ tất cả, bụng mắng thầm: "Hay cho tên trộm này! Thật là lòng lang dạ sói! Nhà người ta có người chết không tiền mua quan tài, phải dập đầu năn nỉ mọi người làm phước. Vậy mà nó nỡ lấy trộm của người ta chớ!". Trần Lượng tức giận phừng phừng nói:

- Nhị ca, anh đứng đây đợi tôi một lát nhé. Để tôi chạy theo nó.

- Phải đó!

Trần Lượng rút dao, nhảy khỏi tường chạy theo tên trộm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4785)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6782)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4952)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10206)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3695)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4922)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5125)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7988)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4318)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13622)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]