Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện xứ người: một người Mẹ

08/09/201507:49(Xem: 3535)
Chuyện xứ người: một người Mẹ
CHUYỆN XỨ NGƯỜI : MỘT NGƯỜI MẸ.
 
Vi Tâm

 MereVG

 (tranh của Van Gogh, lấy trên mạng)

 

Ông trời run rủi thật kỳ lạ, cho những người từ những phương trời xa lắc xa lơ bỗng nhiên gặp nhau, rồi cuộc đời ràng buộc với nhau !

 

Hôm đó trong văn phòng ông Paul, khoa trưởng trường đại học ở một tỉnh xa Paris, có ba người gặp nhau lần đầu : ông Paul, cậu Santy và Jean.

Ông Paul người gốc Ba Lan, giòng dõi quý phái, theo cha mẹ lưu lạc sang Pháp. Ông học xuất sắc, đỗ đạt cao, làm giáo sư , rồi lên chức khoa trưởng kiêm giám đốc một trung tâm khảo cứu.

Santy là một thanh niên người Lào, con nhà khá giả, được bố mẹ cho đi học bên Tây. Thông minh, chăm chỉ, đậu tiến sỹ rất sớm, cậu được nhận ngay làm giáo sư diễn giảng trong đại học ông Paul.

Jean mới xong cử nhân, vào cao học, hi vọng sau sẽ được soạn luận án tiến sỹ. Bố Jean là lính thợ, sau giải ngũ lưu lạc đến một làng nhỏ bên Pháp, rồi ở lại, lập gia đình với con gái một nông dân ở đó. Lúc sanh ra, Jean mụ mẫm xinh đẹp, nhưng đến khi được tiêm thuốc phòng bệnh trẻ em thì bị hậu quả tai ác : chân tay bỗng co quặp và Jean biến thành một đứa bé khuyết tật.

 

Ông Paul nói : « - Này anh Santy, khảo cứu anh rất tốt. Vừa xong luận án, anh đã được nhận ngay làm giảng sư đại học. Trường hợp này rất hiếm. Đây là Jean, như tôi đã nói với anh trong điện thoại ». Là vì trước đó mấy ngày, ông Paul đã gọi giây nói riêng cho Santy: « - Tôi có một đứa học trò vừa xong cử nhân, đang vào năm đầu cao học. Nó bị khuyết tật. Tôi quá nhiều việc, không thể trông nom nó được, nên muốn anh kiếm việc phụ trợ cho nó và săn sóc nó. Anh suy nghĩ đi. Dĩ nhiên anh không bắt buộc phải nhận, nhưng nếu anh nhận thì cho tôi biết ». Santy không biết ất giáp gì, nhưng cũng hiểu là khó từ chối, trả lời « - Tôi không cần suy nghĩ gì cả. Tôi xin nhận. Ông hãy yên lòng ». Thế là có cuộc gặp gỡ giữa ba người hôm đó.

 

Nghe ông Paul giới thiệu, Santy đưa tay về phía Jean, nhưng vội rụt lại, vì thấy Jean không bắt tay được. Ba người nói chuyện xã giao chừng mười lăm phút. Rồi ông Paul đứng lên.

 

Khi đứng lên theo, Santy thấy Jean khoèo tay có thể nắm được cái cặp của mình, và có thể đi không cần nạng, tuy chân khòng và đầu gối xụm xuống. Chắc chỉ đi được chừng năm chục mét.

 

Xuống thang máy, Santy thấy một người đàn bà ngồi khúm núm trong một cái xe thật lớn đỗ phạm luật trên hè. Thấy anh, bà hối hả ra xe, lễ phép cúi chào. Đó là mẹ của Jean. Bà mở cửa, giúp Jean lên ngồi chỗ lái. Rồi cầm cặp của con, lặng lẽ xuống ngồi phía sau. Jean đưa tay lòng khòng trên chiếc bánh lái với những bộ phận đã được sửa lại cho thích hợp với người tàn tật. Bà mẹ quay lại chào Santy, còn Jean lái xe hai tay lều khều, không ngoẹo cổ lại được để chào anh.

 

Sau buổi gặp gỡ đó ít lâu thì ông Paul qua đời. Ung thư gan. Ông biết trước giờ đi đã điểm, nên trao Jean cho Santy. Thế là cuộc đời của Santy và Jean dính vào nhau. Cho đến khi Jean lìa đời....

 

Santy hết lòng bênh vực Jean. Anh xin được cho Jean một số giờ phụ dậy sinh viên năm đầu đại học. Anh mua sách, rất nhiều dụng cụ, máy phóng hình bài giảng lên màn hình để Jean dạy học một cách thoải mái. Cố gắng để Jean có những buồng giảng dạy ở dưới nhà không phải lên tầng lầu. Bỏ tiền mua bàn, ghế, tủ sách đặc biệt cho người khuyết tật. Anh bênh vực Jean trong mọi buổi họp hội đồng giáo sư. Nhờ có anh, Jean được sống yên hàn. Vấn đề là Jean học đến cử nhân là hết sức. Không ngồi lâu được trong thư viện, không làm thí nghiệm, không dùng máy vi tính được, ít bạn bè, không đi hội nghị, không thăm thú trao đổi thực tập với các đại học khác. Chỉ biết dạy học, không làm khảo cứu, Jean không tiến được. Anh được vào ngạch trợ giáo (assistant) thì ngưng, trong khi đồng nghiệp tiến tới ào ào.

 

Cha mẹ Jean mua một ngôi nhà nhỏ, có vườn trồng rau quả, xa đại học chừng mười cây số.  Bố Jean không làm gì, cả ngày chỉ lang thang quanh quẩn. Khi Jean làm trợ giáo thì anh nuôi cả gia đình. Mọi người sống thoải mái. Ở vùng quê, nhu cầu không nhiều.

 

Mẹ Jean người bé nhỏ, mặt xạm đen, lưng hơi gù, có lẽ vì quá chịu đựng. Lúc nào bà cũng mặc một bộ quần áo màu nâu. Từ ngày con bị nạn, hình như bà không nói nữa, suốt ngày đi lại lụm khụm như một bóng ma.

Một ngày của bà thì chỉ có như thế này : Sáng dậy lo cho bố con ăn sáng. Làm cơm trưa để ở nhà cho bố. Sửa soạn một gói thức ăn cho mình. Rồi cắp cặp ngồi phía sau, trông cho con lái xe ra đại học. Đến trường, mở cửa xe, giúp con xuống. Khi con dạy học hay đi họp, thì ngồi chờ trong xe. Khi nào trời nóng quá, hay lạnh quá, thì vào trú trong hành lang trường. Buổi trưa Jean ăn trong đại học, bà mở gói thức ăn đã làm sẵn ra, ngồi ăn một mình trong xe. Nhiều khi ngồi thiếp ngủ trong đó. Khi cần, thì vào đại học hay ra tiệm ăn, xin vào nhà sau làm vệ sinh.

Jean ngoài giờ dạy học không bắt buộc phải có mặt thường xuyên. Gần đến giờ con ra, là mẹ ngong ngóng. Chợt thấy con lệnh khệnh đi tới là bà vội vàng chui ra, mở cửa, đẩy con lên chỗ lái, rồi ra ngồi phía sau. Con lái xe về nhà, bà tắm rửa cho nó. Sau làm cơm tối, dọn dẹp, lau chùi. Coi tivi một chút chờ con đi ngủ rồi cũng đi ngủ. Sáng hôm sau lại làm như vậy. Ngày nghỉ thì quanh quẩn dọn dẹp trong nhà, giặt rũ quần áo, chăm nom vườn tược rau quả.

 

Nếu viết lại tất cả những điều bà làm mỗi ngày thì chỉ được chừng nửa trang giấy. Nửa trang giấy đó bà đã viết đi viết lại, y như thế, qua ngày, qua tuần, qua tháng, qua bốn mùa, hết năm này đến năm khác.

Thỉnh thoảng gặp Santy, từ xa bà đã cúi đầu, gập lưng, chào như lạy. Mặt im lặng, mắt biết ơn. Santy chắp tay cúi đầu trả lễ bà, rồi bỏ đi. Sau bao nhiêu năm biết nhau mà hai người chưa nói với nhau một lời.

 

Santy công việc tiến tới, được mời về một trung tâm lớn. Về khảo cứu, anh đã vượt quá xa, Jean không theo được.

Không có Santy bảo quản, Jean sống rất gian nan. Tình hình đại học càng ngày càng khó khăn. Con người trở nên ác độc. Chung quanh xẩy ra nhiều đố kỵ, ghen ghét. Không làm khảo cứu, Jean phải dạy thêm giờ. Giờ dạy lại bị phân phối lung tung, Jean phải đi về vất vả.

 

Người mẹ vất vả theo, nhưng không hề một lời than thở. Sau bao nhiêu năm trời tận tụy nuôi con, bà càng ngày càng gầy yếu, sanh ra bệnh tật. Rồi một ngày kia bà kiệt lực mà chết.

 

Bà ra đi, Jean và bố sống rất khó khăn. Họ không biết nấu nướng. Thân thuộc không có ai, hàng xóm vắng vẻ, người nào cũng bận rộn,  nên chỉ giúp đỡ được phần nào. Bố Jean không thể tắm rửa cho con, không thể đưa con ra đại học và ngồi trong xe chờ đợi. Chỉ vài tháng sau, Santy được tin báo Jean đã bỏ thế giới này đi theo mẹ.

 

Santy từ xa không đủ can đảm về đưa đám tang Jean và người cha. Ngày đám tang, anh đóng kín cửa văn phòng, ngồi một mình, mắt đỏ hoe. Tuy biết mình đã hết lòng với Jean, nhưng anh cho rằng mình đã không trọn lời hứa với ông Paul. Suốt mấy tháng trời anh ra vào âm thầm, dồn hết thời giờ vào giảng dạy và khảo cứu, không làm gì khác được nữa. Tim anh đã mang một vết hằn không bao giờ xóa nổi.

Ở nước nào cũng vậy, có những người mẹ cả đời chỉ biết sống về con...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2087)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3317)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2664)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2817)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2179)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2044)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1861)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2257)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1707)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3290)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567