Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Đóa Sen (sách)

25/01/201519:26(Xem: 5418)
Một Đóa Sen (sách)


Mot Doa Sen



TÁC PHẨM MỘT ĐÓA SEN

Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN  hiện tại và hậu lai noi theo…

 

 

 

CHƯƠNG MỘT

 

DẪN NHẬP

 

Sau hơn mười phút lái chiếc xe Camry Le đời cũ 96 bốn máy, chạy lòng vòng tới lui một cách uể oải trên con đường biển La Jolla cong cong và hẹp, mới có được một chỗ đậu hơi ngắn trước lằn đỏ không mấy lý tưởng cho lắm, do xe của một ông già Mễ vừa lui ra.

Đăng Triệu tay khóa xe, miệng lẩm bẩm “cái xứ gì mà mới 9 giờ sáng thứ sáu, ngày còn đi làm, không còn parking nào trống, kể cả chỗ handicap cũng hết ráo! Đúng là xứ Cờ Hoa, đất nước giàu nhất thế giới, nên người dân ai cũng ra biển hít thở không khí trong lành, không chờ đến ngày chủ nhật, thứ bảy.

Đăng Triệu đứng bên cửa xe của mình, chờ ngớt xe để qua đường, nhưng dòng xe cứ khít nối đuôi nhau. Trong lúc chờ đợi có khoảng cách, dưới ánh nắng gay gắt của tháng năm Đinh Hợi, tháng con ngựa lả mồ hôi, văng móng sắt trên đường, chàng lấy tờ báo Phương Trời Cao Rộng từ cái xách vải nâu, che lên đầu hói. Chừng cỡ hai phút, một chiếc van dừng lại ở phía phải, Đặng Triệu thấy cái khoát tay cho qua của bà Mỹ lớn con ngồi ở ghế trưởng xa phía trước. Chàng bước nhanh qua bên kia đường, dừng chân bên vệ đường xi măng cũ kỹ, đưa mắt nhìn xa xăm ra biển xanh, đoạn chàng đi chậm về hướng tây bắc, bàn tay phải vẫn cầm tờ báo PTCR che nghiêng trước trán. Chàng đi giữa dòng người ngược xuôi, xuống chiếc cầu xi măng không rộng lắm, hơi cong và dài cỡ chừng hơn hai mươi mét tây ra tận mặt nước có chiều sâu trên mét rưởi. Nơi đây mọi người nói nhiều thứ tiếng khác nhau. Họ tới lui trên cầu, đưa tay chỉ chỏ các cô chú Sealion cùng với tiếng nói riêng của họ. Một số người khác đưa máy hình lên mắt, nghiêng đầu, nghiêng vai để chụp cho chính xác các con sealion đang nằm nửa trên cát nửa dưới nước, thỉnh thoảng ngẩng đầu, lắc qua lắc lại làm cho mấy cọng râu mép nhọn như lông nhím rung rinh.

Đăng Triệu cảm thấy cô đơn giữa đám người xa lạ, chưa có gì vui, nếu không nói là tâm thức của chàng lúc nào cũng thiền định bên trong, nên chàng giã từ đám đông, bọn sealion, cây cầu, đi lên dốc, rồi tiến về hướng tây bắc, đến cái nhà gỗ vuông, nơi dành cho khách ngắm biển, ai cảm thấy mệt muốn ngồi, vào đó để nghỉ. Tuy vậy, rất ít người vào và có vào cũng chỉ vài phút lại ra, không ai ngồi lâu, nên thường có chỗ trống.

Đăng Triệu bước vào căn nhà nhỏ vuông, có bốn vách thấp ở dưới, trên được trống rỗng xuyên suốt bốn phía, vách phía nam không có ghế vì có cửa ra vào, ba phía đông, bắc, tây, phía nào cũng có ghế gỗ dính chặt vào vách. Ghế phía bắc có một bà Mễ trạc tuổi bốn mươi và hai đúa con trai, đứa này lớn hơn đứa kia cái đầu. Họ vừa ăn bánh mì hotdog và nói chuyện lí nhí với nhau. Ghế phía tây, duy nhất chỉ có một người đàn ông châu Á, có vóc dáng Việt Nam, đang ngồi ở tư thế chân phải trên ghế, chân trái thòng xuống nền nhà, nửa phần ngực ngả úp lên cánh tay phải đang gát dài theo bệ thanh gỗ của vách, hơn một nửa ngực bên trái nghiêng ra phía căn phòng, làm cho cánh tay trái cũng buông xuôi xuống đùi chân trái. Mắt của người đàn ông nhìn ra biển một cách thầm lặng như đang tư duy về chuyện gì đó. Còn chàng Đăng Triệu đã chọn cái ghế ở phía đông từ lúc mới bước vô, vì nó đơn côi chưa có ai ngồi. Ghế phía đông này, ai ngồi cũng ở cái thế dựa lưng ra sau, đưa mắt nhìn biển, chân trên, chân dưới hay xếp bằng cả hai chân lên ghế cũng được, chứ không bị ẹo mình, nghiêng vai để nhìn biển như ghế phía tây mà người đàn ông đang ngồi phải ẹo mình mới nhìn được ra biển.

Đăng Triệu ngồi, khi thì xếp bằng hai chân lên ghế, vòng tay trước ngực, mắt nhìn ra biển, khi thì hai chân thòng xuống tréo mảy chân và khi thì chân trên, chân dưới, nhưng đôi mắt nhìn say mê ra biển. Thỉnh thoảng lật trang báo PTCR ra xem hình, đọc thơ, đọc truyện chừng vài phút, thì lại xếp bỏ vào túi vải nâu, nhìn xuống mấy con sealion đang nằm trên các tảng đá, chốc chốc lại tuột mình xuống nước bơi bơi, đưa cái mỏ nhọn hoắc cùng bộ râu kẽm lên mặt nước, rồi hụp xuống, ngẩng lên…

Để biết người đàn ông ở trước mặt mình có phải là người Việt Nam hay không, Đăng Triệu đứng lên, bước tới gần bên trái người đàn ông, rồi ngồi dựa lưng vào vách mặt quay ra giữa căn phòng tạo thế ngồi đối diện không chính xác cho lắm, nhưng sẽ dễ nhận diện khi mắt nhìn liếc qua. Đặng Triệu liếc nhìn lần thứ nhất, lần thứ hai cách nhau hai phút. Qua hai lần nhìn, Đăng Triệu quả quyết là người Việt, liền cất tiếng hỏi:

- Xin lỗi, có phải anh là người Việt?

- Vâng, tôi là người Việt.

Sau lời hỏi và trả lời của hai người, không ai bảo ai, tự động quay lưng vào vách, ngồi thòng chân xuống đất, hết nhìn ra biển, mà lại nhìn ra phía đường và các cao ốc.

Tuy rằng mới chào nhau chừng vài phút thôi, nhưng vì là người Việt vốn có đức tính hiếu khách và hơn nữa biết nhau ở tuổi cao niên, tuổi có nhiều kỷ niệm, nếu không nói là nhân chứng sống của một đất nước có nội chiến hơn một phần tư thế kỷ, nên chi Đăng Triệu và gã đàn ông gần thất thập kia đã không ngớt lời hỏi thăm nhau từ việc này đến việc nọ.

Đặng Triệu hỏi:

- Ở Việt Nam anh ở đâu?

- Tôi là người con của Ngũ Hành Sơn và sông Thu Bồn.

- Như vậy anh là dân Đà Nẵng? Lời hỏi của Đặng Triệu

- Vâng, tôi là người Quảng Nam, sống ở thành phố Đà Nẵng từ nhỏ đến hai mươi lăm tuổi, tôi vào trong Nam. Còn ông anh ở tỉnh nào?

- Tôi cũng gốc Quảng Nam, nhưng không hề ở ngoài đó, vì ông bố tôi vào lập nghiệp ở Bình Thuận, sanh tôi ra, khi lớn lên ở tuổi mười lăm, tôi ra học ở Nha Trang, rồi lại vào ở Sài Gòn.

Đặng Triệu vừa ngưng, liền quay qua hỏi gã đàn ông:

- Xin lỗi, anh tên gì?

- Tôi họ Cung tên Tuệ Đạo.

Đăng Triệu đứng lên bắt tay và nói:

- Hân hạnh được biết tên anh. Tôi xin giới thiệu với anh, tên tôi là Dương Đăng Triệu. Mà nè, anh Tuệ Đạo, anh qua Mỹ năm nào, đi theo diện HO hay ODP?

- Tôi là diện vượt biên, vì hồi xưa tôi là dân sự, làm nghề dạy học. Dạy mãi cũng chán, thấy thiên hạ ra đi, mình cũng bắt chước đi theo thí mạng cùi, té ra cũng được đến xứ Sao Bạch từ năm 1984. Được định cư ỏ Arizona từ đó cho đến nay. Còn anh Đăng Triệu thì sao, qua Mỹ theo diện nào?

- Tôi cũng xin khai báo thật thà với ông anh, tôi đi theo diện HO. Nói đến HO, anh dư biết nghề nghiệp cũ của diện HO rồi, khỏi cần nói chi tiết nữa. Từ lúc qua Mỹ đến nay, tôi chỉ ở duy nhất một chỗ, đó là Las Vegas, về hướng bắc xứ quận Cam. Với diện HO khi đến Hoa Kỳ, sau đó đa số đi làm, nhưng một số cũng khá đông xin hưu non vì có nhiều bệnh ở nội tạng, do vậy tôi là một trong số người được nhà nước Mỹ cho hưởng hưu non. Thật là cảm ơn đất nước Hoa Kỳ hết lòng. Anh Tuệ Đạo đã về hưu chưa?

- Tôi đã hưu lâu rồi, cũng xấp xỉ gần năm năm, từ 2003 đến nay 2007.

Tuệ Đạo ngưng một giây, định sắp sửa nói thêm, Dương Đăng Triệu chen lời:

- Trong thời gian hưu từ đó đến nay, anh Tuệ Đạo làm gì để cho hết thì giờ?

- Khi chưa hưu, chỉ có đi làm, không có thì giờ thăm viếng bà con hay du lịch. Khi được hưu rồi, với tôi toàn là việc Phật sự cho Phật giáo chiếm hơn nửa thời gian.

Đăng Triệu chen lẹ lời hỏi:

- Anh là Phật tử à?

- Tôi là gốc Phật giáo, gốc bự Bồ Đề, chứ không phải gốc nhỏ. Còn anh Đăng Triệu thì sao, có theo đạo Phật?

Đăng Triệu đứng dậy bắt tay Tuệ Đạo nói một cách trịnh trọng:

- Anh Tuệ Đạo, tôi cũng giống như anh, cội Bồ Đề của tôi lớn gần bằng anh, nên chi sau ngày nghỉ làm việc đến nay, toàn làm các việc phụng sự Đạo Pháp không thôi. Việc phụng sự Đạo Pháp của anh Tuệ Đạo không biết như thế nào, chứ của riêng tôi, đó là tụng kinh niệm Phật tại nhà, tham dự các đại lễ và Phật thất tại các chùa ở địa phương. Bên cạnh đó, có viết xã luận Phật giáo cho các tập san Phật giáo hải ngoại và viết sách giảng luận Phật pháp để hướng dẫn cho các bạn Phật tử được biết thêm cách hành Bồ Tát Đạo vào đời, chính là cách thực tập Phật pháp sau khi học trong kinh điển hay nghe lời giảng từ chư tôn đức Tăng, Ni.

 

HÀNH BỒ TÁT ĐẠO

Phụng sự Đạo pháp của tôi là như vậy, xin anh Tuệ Đạo có ý kiến gì không?

Tuệ Đạo đưa tay gãi đầu như để tìm ý trả lời, sau đó Tuệ Đạo nói một cách khẳng định:

- Vừa rồi anh Đăng Triệu có nói đến việc hành Bồ Tát Đạo. Như vậy trước khi nói hành Bồ Tát Đạo, anh đã viết về ý nghĩa của Bồ Tát và Bồ Tát Nguyện để cho Phật tử được biết hay chưa? Bởi vì người hành Bồ Tát Đạo, phải là người Bồ Tát đích thực, nên có hạnh nguyện hành Bồ Tát Đạo trong việc cứu khổ chúng sanh.

Với các bậc Bồ Tát đích thực đều đã vượt qua thập địa, nhưng sau đó phải tự tái sinh làm người tại cõi trần, để tiếp tục phá trừ tận gốc các thứ vô minh vi tế còn trụ địa trong nội thức, còn gọi là dứt trừ biến dịch sanh tử, bằng hành Bồ Tát Đạo vào đời trên cơ sở phụng sự Đạo pháp, trong đó có việc hóa độ chúng sanh là chủ yếu, chính là động cơ tiến lên Niết Bàn Phật quả, tức là thành Phật, đúng với cụm từ Thượng cầu Phật Đạo hạ hóa chúng sanh. Hạ hóa chúng sanh tức là hóa độ chúng sanh trong mọi giai cấp bằng nhiều việc khác nhau, phương tiện khác nhau để phù hợp với căn tính con người trần gian.

Tất cả chư vị Bồ Tát phát nguyện tái sanh làm người trần gian, đều chọn các gia đình  vừa khá giả, vừa có thiện căn Phật Đạo, Bồ Tát hoặc trung bình, nhưng phải có thiện căn Bồ Đề. Vì thế khi lớn lên ở lứa tuổi 8 hoặc 10 – 15 đã được xuất gia làm Tăng, Ni. Gọi là đồng chơn xuất gia, tức là được vào Nội Điện liền. Số lượng vào Nội Điện liền là 60%, còn lại là Bồ Tát tại gia. Cả hai bậc Bồ Tát xuất gia và tại gia đều cùng đi đến mục tiêu thành Phật bằng công cuộc hoằng dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh. Về Bồ Tát tại gia được điển hình như Bồ Tát Duy Ma Cật, Bồ Tát Asoka (A Dục), Bồ Tát Kaniska, v.v…

Trong thời tập kết kinh điển lần thứ ba và tư, nếu không có hai vị Bồ Tát  Asoka và Kaniska hộ giúp, thì công việc kết tập kinh điển lúc bấy giờ sẽ gặp nhiều trở ngại, khó mà tránh được. Cho nên Bồ Tát tại gia là Bồ Tát Hộ Pháp.

Với Bồ Tát phát nguyện làm người cư sĩ để hộ trì Tam Bảo, thì hầu như không có những đặc tính khác lạ như các Bồ Tát phát nguyện làm người xuất gia, dù Tăng hay Ni đều có những đức tính đặc biệt sau khi được cha mẹ sinh ra, đã có một số đặc tính được thấy rõ lúc 3 tuổi, 4 tuổi, lên đến 15 tuổi hay hơn nữa. Những đặc tính ở mỗi tuổi có khác nhau. Đã là đặc tính, không ai có thể ngăn cản được, cương quyết thực hiện cho bằng được. Những việc làm một cách cương quyết ấy, đều là việc làm cứu khổ cho tha nhân, gần nhất là giúp cho bạn bè được cơm áo, sách vở. Nói chung những đặc tính của các bậc Bồ Tát xuất gia, tại gia là những đặc tính thiện hoàn toàn, không bao giờ đặc tính ác. Những đặc tính thiện của các hàng Bồ Tát chính, là những biệt tài về văn, thơ, cắm hoa, nhạc lý, vẽ, đánh đàn, thổi sáo, viết văn, thuyết giảng, làm thơ, làm từ thiện xã hội không biết mệt mỏi, hy sinh mọi thứ cho bạn bè một cách bất vụ lợi, thông suốt nền đạo lý của Phật và kể cả các giáo điển của thánh hiền, vân vân, không thể nào nói cho hết, viết ra hết!

Trong lúc Tuệ Đạo ngưng để giải lao hay ngụ ý cho Đăng Triệu có thắc mắc gì thì cứ hỏi. Quả thật, Đăng Triệu mở lời:

- Anh Tuệ Đạo à, chắc là anh biết nhiều về các vị Bồ Tát có đặc tính khác nhau. Mặc dù tôi đã và đang viết sách giảng luận Phật pháp, nhưng không thể am tường bằng anh. Vậy xin anh kể cho Đăng Triệu được nghe luôn hôm nay, vì sau khi chia tay, anh về Arizona, tôi về Las Vegas khó có thể gặp nhau. Có được không anh?

Tuệ Đạo cười ra tiếng, rồi nói khẽ:

- Ở xứ Sao Bạch này, mà sợ gì không gặp nhau chớ! Phone tay, phone bàn, xe tư, xe công, là phương tiện gặp nhau dễ dàng. Anh yên chí, tôi còn ở chơi tại San Diego cả tháng mới về lại Arizona, tôi đang ở nhà bà chị tôi tại Escondido. Còn Đăng Triệu đến đây ở đâu?

- Tôi ở nhà ông anh họ tại Chula Vista lận! Tôi chơi ở đây lâu hơn anh, có thể gần ba tháng mới về lại Las Vegas, vì sẵn dịp con trai út ông anh, cháu lên tám, muốn học tiếng Việt trong thời gian nghỉ hè, ông anh bảo tôi xuống ở đây nghỉ mát và dạy cháu học.

- Ồ! Như vậy quá tốt, còn lâu mà! Mình tiếp tục gặp nhau ở đâu đó tại nhà hàng Buffet trên tôi hay dưới anh được thoải mái và tự do đàm đạo hơn là tại nhà bà con mình. Nếu muốn ngồi nơi vắng vẻ, có bóng cây, chim hót, có Thập Bát La Hán ngồi yên nhìn đời, thì anh lên tôi, tôi đưa anh đến Tu Viện Pháp Vương ở Escondido. Tại đó thật thanh vắng cả ngày và có nhiều bờ đá, bãi cỏ, ta tha hồ đàm đạo. Hoặc là chúng ta thích đến bờ biển này lần nữa, OK, sẽ gọi phone hẹn nhau. Bây giờ chúng ta tiếp tục nói đến những đặc tính của chư vị Bồ Tát thị hiện vào đời làm thân người. Dĩ nhiên quý ngài làm thân người, dù nam hay nữ là phải có những đức tính đặc biệt, không thể không có!

Không ai vô đó, nơi Đức Thế Tôn chúng ta, ngài có rất nhiều đức tính đặc biệt, như sanh ra ở nách phải, đi bảy bước nở bảy hoa sen, lớn lên ưa trầm lặng, ít nói, bắn cung luôn đúng mục tiêu, nói chung văn võ toàn tài và kể cả biết về thiên nhạc và thổi sáo… Khi xuất gia tu hành, ngài đã vất bỏ hết tất cả.

Hầu hết tất cả những thánh Tăng trong Tăng đoàn của Phật thời xưa, ngài nào cũng có một vài đức tính đặc biệt ngay từ lúc nhỏ tại gia đình. Nhất hạng là mười vị đệ tử lớn của Phật, những đức tính đặc biệt nơi mỗi người rất là siêu đẳng. Chẳng hạn Tôn giả Tu Bồ Đề có đặc tính thích bố thí  rất lớn, nên được có tên NHÀ TỪ THIỆN NHỎ dù mới ở lứa tuổi lên năm.

Cậu bé Tu Bồ Đề lúc thời thơ ấu, khi chưa quy y Phật, cậu đã có cái nhìn đời bằng đôi mắt từ bi và trí tuệ. Mặc dù cậu được sinh trưởng trong một gia đình Bà La Môn giàu có, được cha mẹ thương yêu, thường cho tiền ăn xài, may cho những áo quần đẹp, nhưng thân tâm của cậu không bị sợi dây xích vàng bạc, của cải ấy trói buộc, nên cậu đã đem số tiền mỗi lần cha mẹ cho hằng ngày, bố thí hết cho những người nghèo khổ.

Một hôm trên đường về nhà, thấy người ăn xin không có mảnh vải che thân, cậu Tu Bồ Đề bèn cởi chiếc áo ngoài cho ông ăn xin. Đến khi về đến nhà, mẹ cậu thấy cậu mặc áo lót và quần cụt, liền hỏi:

- Không Sinh! Khi con ra đi có mặc chiếc áo lớn bên ngoài, vậy chiếc áo đâu rồi?

Tu Bồ Đề trả lời:

- Con đã cởi cho người ăn xin, vì ông ấy không có áo che thân.

Bố mẹ của cậu không phải là hạng người không biết bố thí, nhưng vì thấy việc làm bố thí của con mình không đúng cách ở chỗ cởi áo ngoài đem cho, rồi để tấm thân ở trần với chiếc áo lót, nên gọi Tu Bồ Đề lại mà trách mắng:

- Không Sinh! Áo là phải để mặc, tiền là phải để xài, cớ sao con đem cho hết? Nếu từ nay còn tiếp tục hành động bố thí không đúng lúc, sẽ bị nhốt trong nhà, không cho đi đâu cả, nghe chưa?

Tu Bồ Đề cung kính thưa:

- Thưa bố mẹ! Con chả biết vì nguyên nhân gì, mà con cảm thấy con người và mọi vật trên trần gian này, đối với con đều có sự liên quan mật thiết. Riêng mọi người và con như có đồng một thể tính, nên cái khổ của họ là cái khổ của con, sự đói khát của người là sự đói khát của con. Thân của mọi người và thân của con đâu có khác gì  nhau đâu, nên đem tiền bạc, áo quần của mình để bố thí cho con người nghèo khổ, đâu có gì là không đúng!

Nghe Tu Bồ Đề nói những lời có tính cách khẳng định và chứa đựng tư tưởng sẽ không từ bỏ việc bố thí, bố mẹ cậu liền thi hành nhốt cậu Tu Bồ Đề trong nhà không cho đi đâu hết, và cả việc đi học cũng không đến trường.

Nhưng vì tình thương, để cho con được tự do đi lại, bố mẹ cậu liền thả cậu ra và dặn dò khi cho tiền, là không nên bố thí hết, phải ăn xài. Nhưng Tu Bồ Đề không sửa đổi được bản tính Bồ Đề tâm vốn có trong lòng, nên vẫn tiếp tục bố thí. Sau đó Tu Bồ Đề bị bố mẹ nhốt luôn trong nhà không cho đi đâu nữa.

Những vị Bồ Tát thị hiện làm người, dù nam hay nữ ở tuổi ấu thơ, có những đức tính đặc biệt từ thuở ấy. Khi lớn lên ở tuổi vị thành niên (15 – 16) và thanh niên, thì những đặc tính ấu thơ được giảm dần. Liền sau đó được xuất hiện những đức tính đặc biệt khác, nếu không nói là tâm thức quý ngài có nhiều hiểu biết thật cao rộng, thật bác học về Phật pháp và các đạo lý vũ trụ, nhân sinh. Qua đó cho ta thấy ngài Tu Bồ Đề là vị Thánh Tăng rất tinh thông về tính KHÔNG, do đã được ngộ qua lời Phật dạy trong kinh Kim Cang lúc bố thí phải vô tướng, lúc độ sinh phải vô ngã. Tức là không thấy ta, người, chúng sinh sinh mạng lúc bố thí tài vật và Phật pháp, phải phá trừ chấp ngã, chấp pháp thì mới thông đạt được tính KHÔNG.

 

Đang nói thao thao, bỗng nhiên Tuệ Đạo dừng lại, do trên đường có tiếng còi hụ của xe cảnh sát. Thừa cơ hội này, Đăng Triệu nhìn qua Tuệ Đạo nói:

- Này anh Tuệ Đạo! Để cho các giới Tăng Ni và Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước, được biết đến những đức tính đặc biệt cứu độ chúng sanh của các Bồ Tát thị hiện làm người Tăng, Ni Việt Nam hiện đang còn sống, mới đáng nói đến làm gương cho mọi người hơn, chứ còn các bậc Bồ Tát trong thời Phật còn tại thế hay các Bồ Tát có danh tiếng tại Trung Quốc, Nhật Bổn, Tây Tạng, Triều Tiên, v.v… và ngay cả các bậc Bồ Tát Việt Nam dưới đời Lý Trần, Nhà Nguyễn… phải nói rằng có nhiều đức tính đặc biệt rất siêu đẳng, đáng nêu lên cho mọi người hôm nay noi gương, nhưng đều nằm trong kinh tạng, sách vở không hiện thực sống động, làm cho Tăng Ni và Phật tử hiện tại khó có thể tiếp nhận được. Chỉ có các bậc Bồ Tát thị hiện làm Tăng Ni Việt Nam hiện đang sống trên quê hương và hải ngoại, mới đáng nói đến những đức tính cao đẹp và sự hiểu biết bác học của quý ngài, bằng lời văn trong sách được nêu danh ra cho các Tăng Ni Phật tử đọc để mà thấy biết, lấy đó làm kim chỉ nam trên bước đường học và tu tập Phật pháp cho đúng khế lý Phật Đạo.

Như vậy anh Tuệ Đạo có biết trên quê hương mình ở đâu, có Bồ Tát thị hiện vào các gia đình khá giả, trung lưu có thiện căn Phật Đạo, nên có nhiều đức tính đặc biệt từ lúc ấu thơ lên 3, lên 4… rồi càng lớn càng tinh thông các đạo lý thánh hiền, nhân sinh, vũ trụ, v.v… Sau đó xuất gia làm Tăng Ni chơn tu, đạo cao đức trọng, hiện đang còn sống, anh có biết không?

- Chuyện đó “easy” thôi! Tôi dư có, vì trong quyến thuộc tôi có một Bồ Tát tái sanh vào, nên chi có những đức tính đặc biệt, trong đó đức tính thương người nghèo khổ và bố thí là số một hàng đầu. Chuyện Bồ Tát trong quyến thuộc tôi dài lắm đó, phải kể dài dài cả tuần mới hết.

Trước khi nói đến Bồ Tát đang có mặt trong quyến thuộc tôi từ xưa, cách đây mấy mươi năm mà nay vẫn còn, tôi xin phép anh Đăng Triệu nói sơ qua lý nghĩa Bồ Tát để anh nghe có đúng không nhá! Nói Bồ Tát trước mặt anh là múa rìu qua mắt thợ đấy nhé! Ha! Ha! Ha! Có phải vậy không, huynh Đăng Triệu?

- Tội quá anh! Anh ngỏ lời xin phép tôi, làm như tôi là Hòa Thượng không bằng! Anh xin phép tôi làm cho tôi tổn đức đấy nhé! Thôi thì thà chịu tổn… để được nghe, được biết đến Bồ Tát ngày xưa nay vẫn còn. Mấy khi trong cuộc đời, được có người kể cho nghe về Bồ Tát, mà lại là Bồ Tát đang còn sống mới đáng quý và giá trị ngàn vàng, cũng như sẽ gặp trong tương lai nữa. Chứ từ xưa nay chúng ta chỉ biết về các bậc Bồ Tát qua sách vở, kinh điển không thôi. Như lời anh nói Bồ Tát ngày xưa vẫn còn đây, thì trong những ngày sắp tới, tôi sẽ gặp được vị Bồ Tát đó không?

- Sure, dễ dàng! Lời khẳng định chắc chắn của Tuệ Đạo.

- OK! Đăng Triệu xin mời ông anh nói lý nghĩa Bồ Tát trước, sau nói đến vị Bồ Tát trong gia quyến anh.

Sau lời mời của Đăng Triệu, Tuệ Đạo tằng hắng mấy cái, đổi thế ngồi chéo chân, mắt nhìn lên đường vài giây, rồi nói:

- Từ xưa nay, người ta quan niệm về Bồ Tát, phải là vị thần do Ngọc Hoàng trên trời sai xuống trần gian có thân tướng bệ vệ, áo rộng đỏ, mão cao cánh chuồn, uy quyền, biến hóa, thưởng phước cho những kẻ tôn thờ và cúng dường, trừng phạt những ai không tế lễ, cúi đầu tuân phục Bồ Tát. Bồ Tát đâu phải vậy!

Bồ Tát chính là những người nam, nữ trên cõi đời này ở mọi lứa tuổi ấu niên, thiếu niên, thanh niên, cao niên trong các giai cấp giàu có, trung lưu, vua, quan, công nhân, thứ dân… khi nhìn thấy đồng loại gần mình đang bị lâm vào hoàn cảnh túng thiếu vật chất, liền ra tay chia sẻ vật chất. Đến đây Đăng Triệu nhớ lại ai đã cởi áo cho người ăn xin?

- Cậu bé Tu Bồ Đề, chứ còn ai vô đó, phải không?

 

MỘT NHÂN CHỨNG TRONG QUYẾN THUỘC

- Đúng rồi! Trong gia quyến tôi có bé Minh Hoàng, con ông bác tôi, cũng có hành động bố thí tương tự như cậu bé Tu Bồ Đề. Tôi sẽ nói về chị Minh Hoàng tôi sau phần lý nghĩa Bồ Tát này. Bây giờ tôi nói tiếp đến hành động cất dành vật chất của Bồ Tát để bố thí. Khi đang có vật chất trong nhà dù chỉ là một chén cơm, manh áo hay của cải, v.v… không bao giờ ăn hết, tiêu hết, luôn nhớ cất dành cho đồng loại ai đó đang bị túng thiếu đến xin hay nghe biết ở xa, sẵn sàng đem ra bố thí. Nói đến chỗ này, tôi nhớ trong cuốn sách Phật Học Tinh Hoa của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần trang 251-252 có đoạn nói về hành động Bồ Tát của Thánh Gandhi. Thánh Gandhi nói: “Khi ta ăn cơm no rồi, còn giữ lại chén cơm ngày mai… nếu có kẻ đói đang thiếu ăn đến ta, mà nếu ta lại không đem chén cơm dành cho ngày mai ấy giúp họ, là ta đã ‘trộm’ của thiên hạ rồi vậy”.

Cũng từ sách Phật Học Tinh Hoa ở trang 251 có đoạn nói: “Ngày kia có Đức Ramakrishna thấy một kẻ bị người ta đánh bằng roi… thì trên mình ông, người ta thấy hiện lên rõ ràng các lằn roi như người ta đã thấy trên mình người bị đánh. Đó là một vị Bồ Tát có thật bằng xương bằng thịt của thời bấy giờ bên Ấn Độ cách đây vài mươi năm.”

Vừa kể xong hai mẫu chuyện Bồ Tát là người thật tại cõi người làm việc bố thí, Tuệ Đạo quay qua Đăng Triệu hỏi:

- Con người dù già hay trẻ, một khi thấy ai túng thiếu thì cảm nhận như mình túng thiếu, rồi đem của cải vật chất ra bố thí, thấy ai bị đau đớn khổ lụy, mình đau đớn khổ lụy theo, là do động lực nào mà có?

- Do Phật tánh bừng lên, Bồ Đề tâm phát triển, có phải vậy không, anh Tuệ Đạo?

- Đúng như vậy, không sai tý nào! Thêm bước nữa, đó là từ bi và trí tuệ, hai con đẻ của bà mẹ Bồ Đề tâm. Do tâm có đại từ bi, nên cảm thấy bức xúc cực độ trong lòng khi biết và thấy đồng loại đang bị đói khổ, ách nạn, tù đày, đánh đập, giam cầm cực hình… liền đem vật chất ra bố thí và dấn thân tìm cách cứu đồng loại ra khỏi chốn giam cầm, tù đày hay ngỏ lời với bạo lực, van xin tha cho đồng loại khỏi đòn roi đánh đập, v.v…

Do tâm có trí tuệ, nên đã thấy được thật tướng các pháp là vô ngã không tự thể. Vì không tự thể do các duyên giả hợp mà có, nên bị vô thường làm cho tan rả hoại diệt, không thể tồn tại vĩnh cửu. Do có trí tuệ nên đã thấy con người bị luân hồi sinh tử trong sáu nẻo là do tâm hữu ngã, chấp pháp là trường tồn không diệt… Từ đó quyết tâm xả bỏ hết chức tước, danh vọng, địa vị, tiền tài, xa lìa mọi thứ dục lạc cõi đời, v.v…

Đến đây Tuệ Đạo ngưng, đứng lên, đi ra tới ngưỡng cửa ngôi nhà gỗ vuông, rồi trở vô, đến ngồi lại chỗ cũ. Sau đó Tuệ Đạo hỏi Đăng Triệu rằng:

- Một khi con người đã tự mình thấy thực tướng các pháp là vô ngã, nhưng có ngã là do các duyên giả hợp tạo thành, nên bị vô thường làm tan rả. Từ đó con người quyết tâm xả bỏ hết tất cả tham lam ích kỷ… Sau tâm xả bỏ này, Đăng Triệu có biết họ sẽ làm gì tiếp theo?

- Tìm đến Tam Bảo, xin quy y xuất gia tu hành, chẳng hạn cậu bé Tu Bồ Đề.

- Rất đúng! Đa số đi xuất gia làm Tăng Ni tu tập sống khổ hạnh theo Tăng đoàn hoặc trong chùa chiền, tu viện, thiền viện với nhau từ bốn vị trở lên.

- Còn số người không xuất gia thì sao? Lời hỏi của Đăng Triệu.

- Không xuất gia thân và tâm, thì chỉ xuất gia tâm không thôi, thân tại gia như cư sĩ Duy Ma Cật. Với con người Phật tử thật sự, muốn đạt được trí tuệ vô ngã làm hành trang giải thoát, cả hai xuất gia và tại gia ai cũng phải tu tâm. Không tu tâm lấy gì để có trí tuệ vô ngã làm hành trang giải thoát!

Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia, đều do tâm phát hạnh nguyện của đời trước, cho nên được tái sanh vào đời phải đi theo hạnh nguyện đó.

Thôi thì việc xuất gia tại gia của người con Phật nói mãi cả tháng cũng chưa hết.

 

ĐỨC TÍNH ĐẶC BIỆT CỦA BÉ MINH HOÀNG

 

GIA CẢNH CỦA BÉ HOÀNG

- Tôi có một ông bác họ, không phải bác ruột. Quyến thuộc nội ngoại tôi theo Đạo Phật và Nho giáo, nên có người làm quan dưới các triều đại nhà Nguyễn xa xưa. Đến thời đại ông bà tôi, là thời đại Tây học và chữ quốc ngữ.

Tuy là Tây học, ông vẫn dạy bảo con cái biết về các đạo lý Nho, Phật, Lão để trang bị thân tâm có nếp sống nghiêm minh chánh trực trong đối đãi với mọi người từ gia đình, ra ngoài xã hội đúng đạo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhờ đó mà 8 người con bác tôi, 3 trai 5 gái, ai cũng học hành thành đạt sự nghiệp khoa bảng. Ba người con trai lớn, hai người học và đậu bác sĩ, một người là sĩ quan cao cấp trong QLVNCH trước 1975. Bốn chị gái đều làm thương gia rất tài nghệ. Riêng cô gái út Minh Hoàng, sự nghiệp của cô ấy thuộc về tinh thần, sự nghiệp của một nữ Bồ Tát đi giữa trường đời đầy cát bụi vô minh, mà đôi chân cứng đá mềm từng bước đem dòng suối pháp tắm mát cho thế nhân được bừng tỉnh cơn mê.

Trước khi Tiểu Bồ Tát Minh Hoàng đem dòng suối pháp tắm mát cho thế nhân, Minh Hoàng có những đức tính rất đặc biệt lúc còn thơ ấu. Những đặc tính ấy sau vài giây chào đời, chỉ khóc ba tiếng liền mở mắt. Mở nhiều hơn là nhắm, khi mở là lúc thức, thường nở nụ cười với mọi người. Mội lần cười đôi mắt tròn xoe đen láy và tay chân cũng cười theo như muốn ngồi dậy, để mừng mọi người cho đúng cách lễ nghi.

Trước trạng thái thân thiện nhiệt tình của bé, nên ông bác tôi đặt tên cho chị út tôi là Minh Hoàng. Mặc dù lúc sinh ra, cơ thể chỉ được bốn pounds. Trông có vẻ ốm yếu, nhưng lại ít đau bệnh. Không ăn nhiều như những đứa trẻ hàng xóm. Ấy thế vậy mà biết lật sớm, đi trước thôi nôi, lúc biết đi, đi chững chạc, không phá phách đồ đạc trong nhà, ngồi chơi với các đồ chơi một cách yên lặng. Chán đồ chơi, đứng nhìn lên bàn Phật, bàn thờ ông bà, rồi tựa cửa nhìn ra đường đời. Đang chơi hay đang đứng ở đâu đó vẫn vâng lời chị, mẹ, cha, anh gọi tên là chạy đến để được cưng hay được đút cơm, cháo. Hoặc có khi bà chị ngồi làm gì ở đâu đó trong nhà, cất tiếng gọi: Minh Hoàng ơi, lấy cái đó… đem đây cho chị; Minh Hoàng biết vật ấy đang ở đâu đó, liền đến lấy đúng ngay, mang đến cho bà chị, chẳng hạn như cây chổi, cái khăn.

Tai bé Minh Hoàng nghe mọi thứ tiếng nói, âm thanh và ý đã biết hết các hình tướng sự vật trong nhà và ngoài đường ngay từ lúc lên hai tuổi. Do đó Minh Hoàng gật đầu là đồng ý, không đồng ý là lắc đầu hay chạy đi lấy vật gì đó qua lời sai bảo của mọi người trong gia đình.

Hai bác và các anh chị tôi cứ nghĩ rằng, bé Minh Hoàng mới hai tuổi chưa nói đâu, lên ba, bốn mới nói. Khi lên ba tuổi, Minh Hoàng không thèm nói, làm cho hai bác và các anh chị tôi hơi lo ngại. Sau đó ông anh học bác sĩ có nói về các trẻ con biết nói, là đúng theo quy luật thính thị. Trước hết tai của các trẻ con biết nghe rõ từ lúc biết lật, thì nhất định sẽ biết nói bập bẹ từ một tuổi, nói chút chút lúc lên hai, nói nhiều lúc lên ba. Tức là hễ nghe được là nói được, không nghe không nói. Cho nên các nước Tây phương thường đem trẻ con đến bác sĩ về tai để khám.

Với bé Minh Hoàng đã nghe rõ lời của mọi người sai khiến làm gì đó, lấy cái chi đó, liền làm đúng theo, lấy đúng vật theo lời yêu cầu của mọi người. Như thế làm sao mà không nói! Sẽ nói, nói chậm thôi, không thể không nói. Sở dĩ không nói, chắc là một thần đồng gì đây rồi!

Thông thường những bậc vĩ nhân khi sinh ra ở vào tuổi ấu niên, được xuất hiện những đặc tính khác biệt hơn những trẻ con khác, trong đó có đặc tính chậm nói. Biết đâu sau này, bé Minh Hoàng sẽ là một bác sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, tăng sĩ… rất nổi tiếng.

Mặc dù bé Minh Hoàng chưa nói được, nhưng biết hết các việc, nghe rõ lời nói của ba mẹ, các anh chị trong nhà lúc lên hai. Sau tâm ý biết các việc khi đôi mắt nhìn thấy, liền hành động theo sau không ai bảo, tự làm lấy, như tại bàn ăn nhìn thấy bố chưa có ly nước, là đi lấy nước đem đến chỗ bố ngồi. Luôn lắng nghe lời dặn của bố nói với các anh chị về các việc, Minh Hoàng tiếp thu vào lòng không sót một điều. Khi lên ba tuổi cũng chưa nói, nhưng hành động các việc nhanh nhẩu và chính xác hơn hai tuổi do nghe rõ, làm cho tâm ý nhận biết rõ từng việc, gọi là tâm ý tương hành với nhĩ thức theo lý của Duy thức học, có phải vậy không, anh Đăng Triệu?

- Đúng quá, quá đúng! Anh nói nãy giờ tôi nghe qua giống như mấy vị thầy tu Phật giáo thuyết pháp không bằng. Hồi xưa anh có đi tu?

- Thôi đừng thắc mắc nữa, bộ người Phật tử tại gia không được học Duy thức hay sao!

 

CHƯA NÓI MÀ BIẾT LÀM CÁC VIỆC NHỎ

Tôi xin kể tiếp chuyện bé Minh Hoàng. Bé Minh Hoàng nghe và hiểu tường tận những ý tưởng của bố mẹ sai bảo các chị làm việc. Các chị chưa làm đến, Minh Hoàng đã tự động làm xong phần việc. Phần việc ấy không phải là việc của Minh Hoàng, mà của các chị. Ấy thế, Minh Hoàng giành làm hết trơn! Chẳng hạn bà má trước khi ra tiệm, bà dặn dò chị áp út tên Lạc: “Lạc ơi! Má có phơi áo quần ở sân sau nhà, con nhớ đến xế chiều lo lấy vô khi thấy trời sắp mưa, để kẻo bị ướt.” Bé Minh Hoàng đứng ở đâu đó, lắng tai nghe hết lời bà má dặn người chị. Bé Minh Hoàng liền đứng canh trời, vừa thấy có vài đám mây xám đang lãng đãng bên góc trời tây, chưa có tiếng sấm mưa chiều, bé Minh Hoàng ra lấy hết đem vào, xếp từng thứ một thật thẳng thớm, rồi để nơi góc bộ ván gỗ.

Khi bà bác từ tiệm về, thấy áo quần được xếp ngăn nắp thẳng thớm nơi bộ ván gỗ đen, liền cất lời hỏi lớn:

- Đứa mô lấy áo quần vô, xếp thẳng thớm, trông đẹp quá vậy?

- Thưa má bé Minh Hoàng ra lấy vô và tự xếp. Lời xác định của người chị thứ ba.

Bà má nghe nói bé Minh Hoàng ra lấy quần áo vô và tự xếp, bà từ nhà trong ra nhà ngoài, vừa đi vừa gọi “Bé Minh Hoàng đâu, lại đây má cưng miếng coi nào!”

Nghe tiếng mẹ gọi, Minh Hoàng từ ngoài sân trước bươn buơn đi vào nơi mẹ đang ngồi ở ghế bàn ăn. Bà ôm Minh Hoàng vào lòng trong im lặng thật lâu, như để truyền tình thương nồng nàn của mình ăn sâu vào tâm minh mẫn trong cơ thể gầy ốm của Minh Hoàng, đoạn bà vừa đưa tay sửa cổ áo, xoa lên mái tóc hớt ngắn như con trai của bé Hoàng vừa nói: “Con của má ngoan lắm, khi nào biết nói rành rẽ má dẫn qua chùa tụng kinh.”

Minh Hoàng nghe má nói, ngước mặt nhìn má và gật đầu hai ba cái. Người chị thứ năm đang ngồi lặt rau từ trong bếp, nghe má nói và thấy Minh Hoàng gật đầu đồng ý đi chùa tụng kinh, chị ấy nói đùa:

- Má, mai mốt cho bé Minh Hoàng qua chùa ở làm chú điệu, đi tu luôn bển.

Bé Minh Hoàng nghe chị nói cho mình qua chùa ở làm điệu, bé gật đầu lia lịa.

Bà má liền nói:

- Con trai, con gái được làm điệu, làm thầy là do có túc duyên thiện căn. Biết đâu mai này, em nó làm sư cô, thì sao! Nhưng mà không thể được, dù cho có căn tu, má cũng không cho, mà phải cho bé út học bác sĩ. Ba các con cũng đồng ý với má. Vì ba và má muốn ở với Minh Hoàng khi tuổi về già. Cho nên phải tạo cho bé út được có một sự nghiệp vững chắc, đó là bác sĩ giống như hai anh lớn vậy. Cha mẹ tuổi già,ai cũng thích sống bên đứa con út hơn.

Bé Minh Hoàng đang đứng trong lòng đôi tay của má từ nãy giờ nghe hết. Nghe mà không đồng ý nên lắc đầu.

Vừa chấm dứt hai chữ lắc đầu, Tuệ Đạo nhìn qua thấy Đăng Triệu lắc đầu, hỏi ngay:

- Bộ Đăng Triệu đồng tình với bé Minh Hoàng là không học bác sĩ, muốn đi tu, phải không?

- Không, tôi lắc đầu là ý bảo anh ngưng nói, mình đi kiếm gì ăn và nước uống, bây giờ đã quá giờ ngọ rồi, anh không nhớ câu Tăng Ni học Phật bất quá ngọ hồ!

Tuệ Đạo vừa nghe xong câu “Tăng Ni học Phật bất quá ngọ hồ” của Đăng Triệu, liền trố mắt hỏi:

- Hồi xưa, anh có đi tu làm thầy trong chùa hay sao, mà biết câu đó?

- Không, do đọc trong tập san Phật giáo ở đề tài “Giới luật Tăng Ni”, mới được biết Tăng Ni không được ăn quá giờ ngọ đấy chứ!

- Thật sự, Tăng Ni phải ăn đúng giờ ngọ, nhưng thời xưa cơ! Ngày nay Tăng Ni làm nhiều Phật sự đa đoan trong xã hội có nền văn minh tuyệt đỉnh về khoa học, nên có lúc ăn không đúng ngọ. Điều đó có thể du di được. Chứ Phật pháp thì nhất định bất biến cốt lõi, tức là tu tập thì đúng chánh pháp, chánh đạo, còn hướng dẫn con người tu tập, có thể dùng phương tiện thiện xảo, gọi là “tùy duyên bất biến”

Thôi việc ấy của chư tôn đức, miễn bàn đến, bây giờ chúng ta đi lo việc bao tử. Có thực mới vực được đạo.

Hai chàng Đăng Triệu và Tuệ Đạo lững thững trên lề đi bộ hơi cong cong, thoai thoải xuống rồi lên, lên rồi xuống gần nửa mile, đến tận bãi cỏ xanh khá rộng ở hướng tây bắc. Nơi có nhiều bụi thông thật già gốc bự, thấp lè tè, đầu xoè tròn như những cây lọng xanh, nên lúc nào bốn mùa, cũng có hằng trăm gia đình nằm, ngồi la liệt dưới bóng râm, ca hát, ăn uống, đọc báo… Bên cạnh đó có nhiều quán bán các món giải khát và thức ăn, cũng như có nhiều restroom cho du khách chơi biển.

Hai chàng Đăng Triệu và Tuệ Đạo mua xong thức ăn và uống, đó là bánh mì hotdog và nước cam lon, lại lững thững quay về chỗ cũ. Ăn uống xong, Tuệ Đạo nói tiếp:

- Vấn đề bé Minh Hoàng chậm nói, thật sự cả hai bác và các anh chị tôi không quan tâm cho lắm. Ngay cả sau Tết và suốt cả mùa xuân khi bé Minh Hoàng tròn bốn tuổi, cả nhà không ai để ý bé Minh Hoàng nói chưa, chưa nói.

Đến đầu mùa hạ, tháng tư âm lịch, vào ngày rằm, cả nhà ăn chay vào giờ trưa. Giữa bữa ăn, bà bác tôi gắp một cục chao, rồi đưa trước mặt Minh Hoàng hỏi:

- Con thích ăn chao không?

Bé Minh Hoàng liền đáp gọn:

- Ăn

Để chắc ăn, bà má hỏi lần nữa:

- Ăn hay không, nói lớn coi!

Bé Minh Hoàng nói lớn hơn lần đầu:

- Ăn

Cả nhà vui mừng, cười rộ lên, bé Minh Hoàng cũng cười theo.

Ông bác, ngưng ăn một vài giây, nhìn mọi người nói khẽ:

- Để rồi thấy, ngày mai, mốt bé Minh Hoàng sẽ nói tiếng đôi, tiếng ba và hàng loạt cùng lúc cho mà coi!

Quả thật cùng ngày, khi chiều xuống của mùa hè, khí trời xứ Quảng càng thêm oi bức. Bà chị thứ sáu gọi bé Minh Hoàng đi tắm. Chị vào lấy ra một cái quần short xanh vải mềm và hai áo, một dài tay coton bông trắng li ti trên nền xanh nước biển, một ngắn tay vải xoa màu lam rồi đưa trước mặt bé Minh Hoàng hỏi:

- Hai áo, em thích cái nào?

Bé Minh Hoàng liền chỉ tay vào cái áo màu lam và nói:

- Thích cái này.

Mới lúc trưa bé Minh Hoàng nói tiếng đơn “Ăn”; đến chiều bé Minh Hoàng thông qua tiếng đôi, nói cùng lúc luôn ba tiếng “Thích cái này”.

Rồi mùa hạ qua, mùa thu đến, mùa khai trường của niên học mới cho tất cả học sinh các lớp trung, tiểu và đại học.

 

VẬN HÀNH HỌC VẤN CỦA BÉ MINH HOÀNG

Thế là bé Minh Hoàng được làm học sinh lớp một, không học lớp mẫu giáo vì đã nói thông thạo tiếng Việt hơn các trẻ lên sáu.

Lớp một là lớp của bé Lạc, chị áp út của Minh Hoàng. Tuy rằng học cùng lớp với chị, chị học gì, nói gì Minh Hoàng đều học theo, nói theo nấy. Nhưng mới hai tuần, Minh Hoàng làm toán cộng, trừ, nhân, chia, chép bài tập, viết tập xong trước chị cả nửa tiếng, rồi nộp lên bàn thầy giáo. Nhiều lần, nhiều ngày nộp bài tập lên bàn thầy trước chị và tất cả học sinh khác, làm cho ông thầy khen và thương lắm. Đến mỗi cuối tháng, ông thầy tặng bằng khen xuất sắc cho bé Minh Hoàng. Bé Minh Hoàng đem giấy khen về nói với bà má:

- Má ơi! Con được “xuất hắc” (nói chớt).

Mỗi tháng đem bản khen xuất sắc về đưa cho bố, cho má, đều được bà má thưởng cho cái hôn lên đầu, ôm vào lòng, sau đó cho hai xu tiền Đông Dương (Việt, Miên, Lào).

 

NHIỀU NĂNG KHIẾU BẮT ĐẦU XUẤT HIỆN TRONG HỌC VẤN

Thời gian ba tháng nghỉ hè lớp một, ngoài giờ học ôn bài vở như làm toán nhân, toán chia, tập đọc tại nhà với chị Lạc, bé Minh Hoàng tự phát minh một cách viết rông lên lá chuối khô bằng cây bút ngòi lá tre, kiểu viết của người lớn ưa viết. Lá chuối khô mà Minh Hoàng lấy được là đi theo các anh Minh Hoàng lúc các anh chưa học bác sĩ, chưa đi lính, vào làm rẫy ở nương dâu. Tại nương dâu, bé Minh Hoàng lượm lá chuối khô đem về nhà, rồi để dưới chồng vở của mình cho thẳng, sau đó đem ra viết. Viết những câu cách ngôn, ngạn ngữ lên lá chuối. Nét chữ vốn đã được đẹp sắc sảo, càng đẹp sắc sảo hơn do ngòi bút lá tre.

Viết xong, Minh Hoàng đem khoe với bố, với má và các anh chị. Lúc đầu không ai tin Minh Hoàng viết, nhưng sau đó Minh Hoàng viết trước mặt bố, chừng đó cả nhà mới tin.

Ba tháng hè trôi qua, niên học mới đến, bé Minh Hoàng cùng lên lớp hai với bé Lạc, chị áp út.

Vào lớp hai mới tuần đầu, đã được thầy lưu tâm và tuyên dương khen ngợi, vì giỏi các môn tập đọc, tập viết chữ rất thẳng hàng và rõ ràng, làm toán cộng, trừ, nhân thật lẹ, trước nhất toàn cả lớp. Cho nên cứ tam cá nguyệt (3 tháng) bé Minh Hoàng được ban giám hiệu ký cho một giấy ban khen. Cuối niên học lại được phần thưởng một cây bút chì và tập vở xích lô.

Lên lớp ba, Minh Hoàng cũng học chung với chị, nhưng giỏi hơn chị, mặc dù lớp ba là lớp có viết chánh tả, làm toán chia một con, hai con và toán nhân một con, hai con số và kể cả có bài học thuộc lòng, v.v… Minh Hoàng không thấy có gì là khó khăn cả! Môn nào cũng được điểm cao.

Vì thế, mới được ba tuần, ông thầy đã chỉ định bé Minh Hoàng làm trưởng lớp. Công việc trưởng lớp là đi sớm lau bàn thầy, lên văn phòng lấy phấn, lau bảng, có khi đi kiếm hoa cắm lên bàn thầy là đằng khác và giữ sổ, cộng sổ. Tất cả việc của trưởng lớp, Minh Hoàng làm rất chu đáo, gọn gàng, rõ ràng.

Trong giờ ra chơi, toàn cả các bạn học sinh ở tuổi đó, đứa nào cũng chạy nhảy đuổi nhau cút bắt, nô đùa chung quanh trường, đánh đáo, bắn bi, ném banh chụp thẻ, chơi cò cò một chân, v.v…; nhưng Minh Hoàng ngồi  yên trong lớp học bài, hay cộng sổ, gạch hàng ngang dọc cho sổ mới, viết tên học sinh qua trang sổ mới.

Không những chăm chỉ làm việc, mà còn học giỏi tất cả các môn, môn nào cũng được điểm cao. Nhất hạng là môn chánh tả và toán tại bàn và toán chạy. Về chánh tả, thầy mới đọc hết câu chừng nửa phút, bé Minh Hoàng đã viết xong. Viết quá nhanh, làm cho ông thầy tưởng Minh Hoàng chưa viết kịp, thầy bèn hỏi:

- Minh Hoàng viết đi, sao ngồi đó?

- Dạ, thưa thầy con viết xong rồi.

Còn toán chạy, ông thầy viết lên bảng mỗi lần 4 bài toán chia hai con. Ông thầy về ngồi ở bàn chưa đến hai phút, là Minh Hoàng đem lên bàn thầy rồi.

Những bài toán của Minh Hoàng, thầy không cần thử, cứ cho điểm vì thầy đã tin đúng trăm phần trăm không sai. Vì sau đó, Minh Hoàng lên bảng làm những bài toán đó, mà không đem theo giấy làm đã được thầy cho điểm rồi.

Minh Hoàng học giỏi và hạnh kiểm tốt toàn diện, từ lời nói đến cung cách đối xử với bạn bè, lễ phép với thầy và người lớn hơn mình.

Để làm gương cho toàn thể học sinh lớp ba, theo đó mà bắt chước cách học hành, hạnh kiểm của bé Minh Hoàng, ông thầy tuyên dương về học lực và hạnh kiểm của bé Minh Hoàng trước lớp, sau đó ông thầy đưa cái roi lên và nói:

- Em nào học dở, không thuộc bài, học lực cuối tháng dưới điểm trung bình và trốn học, sẽ ăn roi từ hai roi đến năm roi tùy theo tội trạng. Các em biết ai đánh các em?

- Thầy đánh. Cả lớp nói to.

- Không. Thầy không đánh. Trò Minh Hoàng đánh, thay vì thầy đánh, đánh thế cho thầy. Trò Minh Hoàng không đánh, thầy đánh Minh Hoàng. Các em có chịu vậy không?

Cả lớp la ó lên:

- Không, không! Thầy đừng có đánh trò Minh Hoàng.

Đã mang lấy nghiệp vào thân, nghiệp thiện hay ác vốn đã tạo ra, thì nhất định phải sống chết theo nghiệp. Nghiệp của bé Minh Hoàng là học giỏi.

Học giỏi là một hạnh phúc tinh thần, tuyên dương khen ngợi cũng là hạnh phúc. Nhưng bên cạnh hạnh phúc bao giờ cũng có phiền não, oán hờn. Đời là thế đó, c’est la vie, đúng như lời Phật nói “Thế giới loài người là thế giới vừa có hạnh phúc, lại vừa có khổ đau”.

Đúng thật, mới hai lần thi hành mệnh lệnh thầy, cho phép cầm roi đánh hai đứa học sinh lười học không thuộc bài, một nam, một nữ; thế là trên đường từ trường về sau giờ bãi học, bé Minh Hoàng bị hai đứa đó thoi lén thật mạnh sau lưng để trả thù, rồi đâm đầu chạy chí cốt về nhà để phi tang. Ấy thế vậy mà, qua ngày hôm sau vào lớp học, Minh Hoàng nín khe, không đem chuyện ấy kể với thầy. Nín khe và không kể cho thầy biết, không phải Minh Hoàng sợ mấy đứa đó trả thù nữa, mà là sợ mấy đứa đó bị thầy đánh nặng hơn hay đuổi học, thì tội nghiệp cho tụi nó.

Một ngày nọ, thầy gọi Minh Hoàng đến hỏi:

- Hôm kia trên đường về nhà, đứa nào đánh lén sau lưng trò?

- Dạ thưa thầy không có đứa nào đánh con. Lời Minh Hoàng xác định không.

 

BÉ MINH HOÀNG HỌC BĂNG LỚP

Đang học ngon lành ở lớp ba được đúng ba tháng, Minh Hoàng được thầy viết thư gởi cho ông hiệu trưởng, đề nghị lên học lớp bốn, vì xét thấy trò Minh Hoàng dư sức học lớp bốn.

Được ông hiệu trưởng chấp thuận và tự vào lớp ba, dẫn Minh Hoàng sang lớp bốn vào buổi sáng thứ hai đầu tuần.

Tuân lệnh ông hiệu trưởng, trò Minh Hoàng ôm cặp bước ra khỏi bàn học, không quên quay lui, đưa tay vẫy chào các bạn và chị Lạc, theo ông hiệu trưởng vào lớp bốn, ngồi ở bàn gần cuối.

Đến giờ ra chơi, Minh Hoàng vẫn ra chơi do vì lớp mới, bạn lạ và xa chị Lạc, nên một mình cô đơn ở hành lang.

Sau ba tiếng trống báo hiệu vào lớp, hết giờ chơi.  Tất cả học sinh lần lượt vào lớp. Riêng bé Minh Hoàng không vào, đứng im lặng ngoài hè. Thầy nhìn xuống không thấy học trò mới của thầy đâu cả. Bèn đi kiếm, thầy ra ngoài trông thấy bé Minh Hoàng đứng ở vĩa hè, thầy cất lời hỏi to:

- Tại sao trò không vào mà cứ đứng đây?

- Dạ thưa thầy con không muốn học lớp bốn.

- Vì sao? Thầy hỏi gặn.

- Con chưa có giỏi!

- Không giỏi, sao ông hiệu trưởng cho vào lớp bốn! Bốp!

Thầy vừa nói vừa cho Minh Hoàng một bạt tai.

Thế là Minh Hoàng riu ríu vào lớp.

Tưởng rằng lên lớp bốn đã được thoát khỏi các việc trưởng lớp, cộng sổ, lau bàn, lấy phấn cho thầy và kể cả cầm roi đánh các bạn học dở, lười học. Té ra những cái nghiệp ấy vẫn cứ đeo đẳng nơi bản thân gầy ốm Minh Hoàng. Tất cả giai do cái nghiệp học giỏi và hạnh kiểm tốt toàn diện mà ra nên nỗi.

Đúng thật, mặt Minh Hoàng chưa phai hết nét ủ dột sau cái tát tai thương cho roi cho vọt của ông thầy, còn đọng trên đôi mắt bồ câu tròn xoe đen láy, Minh Hoàng được thầy gọi tên lên bàn nhận lệnh, thầy nói:

- Trò đem hết bút, vở ngồi vào chỗ cũ của trò Trúc Quỳnh nơi đầu bàn, bàn đầu, nghe chưa?

- Dạ thưa, con nghe!

- Từ nay trò làm trưởng lớp bốn lo các việc cộng sổ, xếp vị thứ, viết tên vào trang mới, lấy phấn, lau bảng trước giờ học, hô nghiêm khi thầy vào hay có quan khách vào thăm lớp và cầm roi đánh các bạn nào trốn học, học dở, lười học, nghe rõ chưa?

- Dạ thưa, con nghe!

Lớp bốn thời xưa, có nhiều môn học gần như lớp năm, trong đó toán số học, toán vận tốc, làm luận tả cảnh, tả người và địa lý hình thể sông ngòi núi non, nhân văn dân số Việt Nam, được xem là khó học, khó nhớ. Học sinh phải học chuyên cần mới khá được, bằng không sẽ mất căn bản lên lớp năm, là lớp cuối bậc tiểu học, có thi bằng tiểu học.

Với Minh Hoàng, coi như pha, không thấy Minh Hoàng học nhiều, mà môn nào cũng đứng đầu về số điểm tối ưu. Được ông thầy thương hết lòng như thương con thầy vậy. Nếu không nói là thương có lý do, đó là nhờ Minh Hoàng kèm dùm các môn chính về toán cho hai bé gái của thầy đang có mặt trong lớp, đúng “học thầy không tày học bạn”. Vì thế sau giờ học và các ngày nghỉ lễ, thầy nhờ Minh Hoàng đến nhà kèm dùm cho cùng lúc cả bốn đứa con gái của thầy, hai đứa học cùng lớp bốn với Minh Hoàng, hai đứa học lớp ba, một đứa gái áp út học lớp hai, còn trai út lớp một. Bầy con của thầy đứa này lớn hơn đứa kia một, hai tuổi.

Trước tấm lòng sẵn sàng vị tha giúp người của Minh Hoàng, cũng như lời khẩn khoản của thầy yêu cầu Minh Hoàng đến nhà kèm toán dùm cho các con thầy, làm cho bác gái hỏi ý kiến bác trai tôi về việc ấy. Cả hai ôn mệ đều hoan hỷ bằng lòng, cho Minh Hoàng đến sinh hoạt thường trực với các con của thầy.

Trong những ngày tháng Minh Hoàng đang ở nhà thầy như vậy, cứ vài ba hôm, bà má mang thức ăn đến, nào là thịt heo kho tàu với trứng vịt, bánh in, bánh tráng, đường phèn, đường táng, v.v… thay cho đóng tiền bằng thức ăn, vì thầy có nhiều con, thấy mà thương.

Bản chất Minh Hoàng không hề ăn nhiều, nên cơ thể ốm như cây sậy, nhưng lại rất khoẻ, cả năm không đau bịnh, cùi cụi trong sương gió, nắng mưa hai buổi sớm chiều đến trường về nhà, mà đôi chân vẫn cứng, đá vẫn mềm, mắt vẫn đen tròn, nhìn về phía trước trong bước đi, vững chãi không hấp tấp  như các bậc chân nhân. Đúng là bậc chân nhân, bé Minh Hoàng không những kèm toán cho các con thầy, mà còn làm các việc tại nhà thầy rất năng nổ.

Có lẽ thấy con khổ, bà má đến nhà thầy, xin phép thầy dẫn bé Hoàng về nhân ngày chủ nhật.

Thật là tội nghiệp cho ông thầy! Ông ấy nhìn bé Minh Hoàng lúc chia tay, trong nỗi niềm quyến luyến cực độ ra mặt, qua trạng thái nắm tay bé Minh Hoàng và nói một cách tha thiết:

- Trò Minh Hoàng, thời gian trò ở nhà thầy, trò đã cho thầy và cô, các con thầy nhiều niềm vui. Trò đi về, hết ở nhà thầy, thầy nhớ trò lắm. Với trò, là học sinh giỏi toàn diện, có tư cách kẻ lớn, nên chi thầy chỉ chúc trò luôn an bình, mạnh khoẻ là đủ rồi. Thôi trò đi hị!

Trước khi chia tay, bà má cũng có vài lời:

- Trong thời gian bé Minh Hoàng ở nhà thầy, cháu có sai phạm việc chi, điều gì, xin thầy và cô tha thứ cho cháu.

- Dạ thưa chị, trò Minh Hoàng con chị, rất là ngoan lắm chị à! Từ bước đi, lời nói, đến cách ăn uống và làm việc, nhất nhất đều tốt cả, không có chê được chỗ nào. Nhất là cách chỉ toán cho các con tôi, nếu so với người đã đậu sư phạm như tôi, cũng không bằng đâu chị ạ! Tôi có tánh nóng nảy, thành ra không có đức kiên nhẫn trong lúc chỉ toán cho các con tôi. Trò Minh Hoàng còn có một tính đặc biệt khác nữa, đó là đứng chắp tay bái Phật ba bái trước khi đến trường và sau khi học về. Các con tôi chưa làm điều đó được! Như vậy, ngược lại vợ chồng chúng tôi xin chị tha thứ cho chúng tôi và các con tôi, có làm gì sai trái đối với trò Minh Hoàng trong lúc ở với chúng tôi thời gian vừa qua.

- Thầy nói là quyền thầy, chứ tôi không dám nhận lời thầy xin tha thứ. Thôi xin chào thầy, cô về, kính chúc thầy, cô và toàn gia quyến luôn khoẻ mạnh, vạn sự như ý. Minh Hoàng vòng tay chào thầy cô, về đi con.

Bé Minh Hoàng vòng tay, cúi đầu nói:

- Con chào thầy, cô. Thưa thầy, cô con về.

- Rồi, trò về. Nhớ thỉnh thoảng đến thăm thầy và các em hị!

Minh Hoàng và bà má đi cả khoảng xa, mà thầy vẫn còn đứng đưa mắt trông theo một cách lưu luyến, thật thân thương!

 

LỐI GIÁO DỤC HỌC SINH THỜI XƯA

Tuệ Đạo vừa ngưng chưa được một giây để xả hơi một tý, Đăng Triệu vội chen lời hỏi:

- Này anh Tuệ Đạo, xin hỏi anh tại sao dân tộc ta thời xưa và nay, vẫn còn sử dụng roi và cả bằng tay để đánh đòn con cháu trong gia đình, tại học đường và pháp đình trong việc giáo dục?

- Trong thời đại xa xưa, chứ hiện nay tại học đường và pháp đình đã chấm dứt đánh đòn bằng roi; duy chỉ còn trong gia đình, nhưng cũng ít dần rồi. Sở dĩ ông bà ta thời xưa dùng roi đánh đòn con cháu, học sinh và người phạm tội tại pháp đình (tòa án), là vì theo chế độ phong kiến từ phương bắc rất lâu đời, kém văn minh, không có dân chủ. Mặc dù dân tộc ta vốn có ba nền đạo lý Nho Lão Phật, thật là dân chủ tình người hơn các nước Âu Mỹ, mà không biết đem ra ứng dụng để giáo dục con cháu trong gia đình, tại học đường và pháp đình bằng cách đối diện và lắng nghe nhau qua lời nói dịu dàng, tình cảm thân thương có tính cách phân tích giữa cái lợi, cái hại, tốt xấu… sẽ làm cho tâm người phạm lỗi thấy được, mà ăn năn sửa đổi tánh xấu thành tốt, lười học sẽ siêng học, hoang nghịch thành ngoan ngoãn vâng lời. Bên cạnh đó còn có lời khuyến cáo, khuyên nhủ… từ một lần đến nhiều lần theo căn tính khác nhau của con người, mới gọi là giáo dục. Đằng này toàn là dùng roi để đánh đòn và kể cả bắt quỳ lên xơ mít. Đó là hình thức trừng phạt, không phải giáo dục. Nếu trừng phạt, dùng pháp luật để trừng phạt, nhưng không va chạm làm chảy máu thân người thì pháp luật, đúng là đạo lý giáo dục con người. Trên đời này có một thứ đạo lý rất cao siêu để giáo dục con người, đó là nền đạo lý Phật giáo trong ba tạng kinh, luật, luận, là đạo lý giáo dục con người trên nhiều mặt trong đời sống xã hội luôn được hạnh phúc, bớt khổ đau chứ không phải chỉ riêng ở lãnh vực hết vô minh, hết ác trược có trí tuệ vô ngã giải thoát sinh tử.

Vấn đề trong gia đình người Việt thời xưa và nay bên quê nhà, dùng roi đánh đòn con cháu; thật ra không phải gia đình nào, cũng đều dùng roi đánh con cháu trong việc giáo dục cả. Có nhiều gia đình, các bậc làm cha mẹ, anh chị thường dùng đạo lý thánh hiền, Phật pháp trong việc giáo dục con cháu qua lời nói nhã nhặn, dịu ngọt rất văn hóa để răn dạy, khuyên bảo, khuyến cáo sau khi con cháu có lỗi lầm, biếng nhác học hành, v.v… trong đó có gia đình bác tôi, từ ông bố, bà mẹ, anh chị, chú bác, cô dì nội ngoại cho đến quyến thuộc xa gần, không bao giờ sử dụng đòn roi trong việc giáo dục con cháu. Do đó bác gái tôi mới đem bé Minh Hoàng về, không cho ở trọ nhà thầy nữa, lý do bà không muốn con mình cầm roi đánh người, chắc là như vậy. Sau đó bác gái đem bé Minh Hoàng ra ở nhà bà con tại Nam Ô, mặc dù năm học lớp bốn của bé chưa hết, còn những năm tháng nữa lận, vẫn đem về; vì bác nghĩ rằng các thầy dạy học ở trường Nam Ô không bắt học sinh giỏi đánh học sinh dở, có lẽ như vậy.

Với một đất nước đang bị hai thế lực, một phong kiến cổ hủ cực đoan đang đè nặng lên bản thân người dân rất phổ biến trên nhiều mặt; hai là dưới sự đô hộ của thực dân Pháp phương tây, thì vấn đề dùng đòn roi trừng phạt học sinh dở tại học đường, không chỗ nào mà không có. Đúng thật, ông thầy Nam Ô gần lục tuần trong lúc đọc tờ giấy giới thiệu của thầy cũ về bé Minh Hoàng, ông nở nụ cười thoải mái thật rõ nét, được thấy qua bộ ria muối tiêu ở môi trên ông, vễnh ngược che kín hai lỗ mũi, để lộ ra hai hàm răng màu ngà mốc meo, lởm chởm vô trật tự, hai cặp chân mày như trăng khuyết về khuya, dưới vầng trán rộng của ông cũng đồng tình với bộ ria, nên nằm sõng soài gác đầu lên hai gọng kính trắng bạc, dòm xuống sóng mũi tàn ong của ông. Đoạn ông quay qua bà thím, người dẫn bé Minh Hoàng nhập học, ngẩng đầu lên, xếp gọn tờ giấy vào lòng bàn tay, ông nói:

- Chào bà! Trò Minh Hoàng đây hả, sao mà ốm vậy? Ốm mà học giỏi, tôi thích lắm. Tôi đã được nghe một thầy tại Nam Ô này vào dạy trong thành phố, ông ấy có nói về trò Minh Hoàng học rất giỏi toàn môn và hạnh kiểm cũng toàn diện công dung ngôn hạnh. Nghe là nghe vậy, hôm nay mới gặp trò và sẽ biết khả năng học giỏi của trò như thế nào trong thời gian tới.

Bà thím buột miệng:

- Thưa thầy, cháu ốm yếu lắm, xin thầy làm ơn, miễn cho cháu cầm roi đánh các trò học dở, nha thầy!

- Tục lệ xưa nay là vậy rồi, chị à! Không đánh không được, vì bậc tiểu học và trung học, bậc nào cũng có văn bằng cả. Được có văn bằng là ra làm việc, có lương nuôi sống cá nhân và gia đình. Vì thế, bậc làm thầy, ai cũng phải chăm sóc học lực của học sinh ngay từ lớp thấp cho giỏi, để thi đậu ở lớp cuối của bậc tiểu hay trung. Nếu lớp ba, nhì mà học lực kém, khi lên lớp nhất (lớp 5) làm sao thi đậu văn bằng tiểu học! Do vậy trò nào lười học, học dở sẽ bị thầy đánh đòn. Đánh không nhiều, chỉ ba roi để báo ân tổ quốc, cha mẹ và thầy dạy học. Thầy đánh đòn, các trò không sợ, ít tiến lên việc học hơn là trò học giỏi đánh trò học lười, học dở vì cảm thấy hổ thẹn thua kém, mà ra sức siêng năng chăm chỉ học hành. Nhất là sau khi thi rớt lại càng hổ thẹn hơn.

Theo lời yêu cầu của chị, tôi xin ghi nhận và sắp xếp, có thể có và có thể không, vì trong lớp nhì (bốn) này hiện đang có trò Quang Vinh, một nam sinh học giỏi đang phụ trách cái việc đòn roi ấy, cho cả nam và nữ học sinh.

Sau lời ông thầy chấm dứt, bà thím vừa xoa xoa hai bàn tay trước ngực vừa nói:

- Thôi thì mọi việc nên hay hư thế nào đối với cháu Minh Hoàng chúng tôi, đều do thầy hết. Xin cảm ơn thầy, chào thầy, tôi về. Chúc thầy khoẻ.

- Vâng, chào chị, chị về! Lời chào chia tay của thầy.

Sau giây phút trò Minh Hoàng được thầy chỉ định ngồi ở đầu bàn của dãy bàn cuối phía nữ, không khí lớp học từ chỗ miên man thầm lặng bởi nét mặt lạnh lùng có bộ ria Châu Xương, đôi kính trắng xề xệ dưới làn mi của ông thầy, bây giờ được trở nên sinh động hẳn lên, nào là những trạng thái chồm qua nhau, quay ra sau nói cười thì thầm của các trò nữ sinh, nào là những cái nhún mình, xoay qua xoay lại nói chuyện rì rào với nhau của các trò nam sinh, nào là những đôi mắt nhìn đăm đăm vào bé Minh Hoàng của các trò nam sinh nơi mấy bàn cuối gần Minh Hoàng… trong lúc thầy đang cặm cụi viết lách nơi bàn thầy.

Không khí cực lạc bỏ túi ấy, đã trôi qua hết lý do tồn tại khi ông thầy đứng lên, ra khỏi bàn, gọi tên trò Quang Vinh nam sinh, trò Minh Hoàng nữ sinh mới, cả hai lên đứng trước lớp, thầy dõng dạc nói:

- Các trò nghe đây, từ nay về sau, trò Lý Quang Vinh lo phụ trách lau bảng trước khi vào lớp, hô nghiêm và thay quyền thầy đánh ba roi vào mông các trò nam nào học lười, học dở. Trò Quang Vinh nghe rõ chưa?

- Dạ, con nghe rõ.

Thầy im lặng mấy giây nhìn xuống lớp, thầy nói tiếp:

- Còn trò nữ Phạm Minh Hoàng lo phụ trách cộng sổ cuối tháng, xếp vị thứ, viết tên vào trang sổ mới và thay quyền thầy đánh ba roi vào mông các trò nữ nào lười học, học dở. Trò Minh Hoàng nghe rõ chưa?

- Dạ, thưa thầy con đã nghe rõ.

 

BÉ MINH HOÀNG ĐƯỢC CẢ LỚP THƯƠNG MẾN

Khi lời tuyên bố phân nhiệm công việc trong lớp cho hai trò Hoàng và Vinh vừa dứt, riêng phía các trò nữ, đều hân hoan mừng vui rõ nét qua nụ cười chúm chím nhìn nhau, nhìn ra sau nơi bé Hoàng đang ngồi nín thinh. Niềm vui ấy đối với các trò nữ học dở sẽ được thoát khỏi cái roi của trò Vinh, chấp nhận cái roi của trò Minh Hoàng đỡ mắc cỡ hơn và cũng là niềm vui chung cho tất cả các trò nữ được thêm một người bạn học giỏi. Niềm vui ấy được hiện thực ngay sau ba tiếng trống ra chơi. Các trò nữ hôm ấy, không ra lớp chơi cò cò như thường lệ, đứng bao quanh trò Minh Hoàng, thay nhau nói chuyện bắt quàng làm quen.

Các trò nữ bao quanh trò Minh Hoàng, giống như những đứa em trong nhà bao quanh người chị đi xa mới về không bằng. Vì các trò hỏi Minh Hoàng nhiều chuyện ở trường cũ là có đánh các trò học dở không? Minh Hoàng nói có, nhưng có lúc không chịu đánh, đứng yên ngập ngừng, liền bị thầy bắt nằm xuống đánh một roi làm mẫu, đau điếng cả người. Lần sau đánh thật, lại bị các trò nam lén thoi mạnh vào lưng trên đường học về.

Kể từ sau giây phút thầy phân quyền công việc của lớp cho hai trò Quang Vinh và Minh Hoàng, lớp học tự nhiên biến thể thành hai khối nam và nữ rõ rệt. Khối nam do trò Vinh làm trưởng, khối nữ do trò Hoàng làm trưởng. Khối nam trông có vẻ hời hợt, rời rạc không thân thương nhau. Khối nữ rất đoàn kết gắn bó thân thương nhau liên tục thật rõ nét, qua những hình ảnh không ra chơi, ngồi tại lớp để cho trò Minh Hoàng chỉ toán cho các bạn kém toán, hoặc có ra chơi đều ngồi với nhau dưới bóng cây điệp, nơi cuối hành lang để ăn trái cóc và nghe trò Minh Hoàng kể truyện cổ Phật giáo, như các câu truyện: Con nai chín sắc lông, Sư tử trọng pháp, Con voi đầu đàn tôn trọng chiếc áo cà sa, v.v… không còn chơi đánh ruộng, cò cò, chụp thẻ… như xưa nữa. Nhờ đó mà các trò nữ siêng học, làm toán đúng, học thuộc bài, không còn cãi nhau… do bắt chước đức tính của Minh Hoàng.

Thế là trò Minh Hoàng bị mất cái job cầm roi đánh các bạn nữ, vì điểm học lực của các trò nữ từ trung bình trở lên, không có trò nào bị dưới trung bình. Công việc của Minh Hoàng chỉ còn lại là cộng sổ, lập danh sách vị thứ mà thôi. Trong khi đó mỗi đầu tháng bên khối nam đều có hai hoặc ba trò bị ăn roi của trò Quang Vinh.

Vấn đề trò Minh Hoàng bị mất job (việc làm) cầm roi đánh học sinh học dở, không những ở lớp bốn suốt mấy tháng còn lại của năm học, mà sau khi lên lớp năm, cũng bị mất luôn cả năm. Bởi vì tất cả học sinh của lớp bốn cũ, đa số được lên lớp năm, bị ở lại lớp bốn chỉ có ba trò nam sinh. Ông thầy cũ có bộ ria Châu Xương và cặp kính trắng xề xệ ở đầu sóng mũi tàn ong, cũng được ty học vụ sở tại đề nghị cho lên dạy lớp năm. Cho nên các việc của hai trò Vinh và Hoàng mà ông thầy đã giao cho không có gì thay đổi, vẫn như cũ.

Tất cả môn học của lớp năm, môn dễ bị đội sổ và cái roi vào mông, đó là môn toán số học và vận tốc về đường dài, thời gian.

Trò Minh Hoàng biết trước môn bị đội sổ và roi vào mông là toán, nên ra sức chỉ cho các bạn nữ cùng lớp với mình, nhất là có bài làm về nhà (home work). Sở dĩ trò Minh Hoàng ra sức chỉ cho các bạn mình về môn toán như vậy, là để cho mình khỏi cầm roi đánh bạn mình, đúng như tâm tư bà má không muốn điều đó tiếp tục xảy ra.

Tuệ Đạo ngưng, quay qua hỏi Đăng Triệu:

- Mấy giờ rồi?

- Mới có 2 giờ pm. Còn sớm chán. Mùa hè Cali 8 giờ pm, mặt trời vẫn còn thức lấp ló ở chân trời.

- Vậy ta tiếp tục nói về vị Bồ Tát tý hon. Là Phật tử tại gia mà không nghe các truyện Bồ Tát, nhất là Bồ Tát tý hon, là mất phần trí tuệ đấy nhé!

Có nghe, có đọc những câu truyện Bồ Tát và học Phật pháp về Bồ Tát, ta mới được biết con người vốn có tính Bồ Tát đích thực, thì nhất định hiển lộ ra hành động Bồ Tát ngay từ thuở bé ở các việc từ thiện nhỏ, rồi dần dần các việc thiện lớn theo tuổi lớn. Vì thế bé Minh Hoàng khi lên lớp năm lúc 8 tuổi, thì các việc từ thiện hơi lớn một chút của Minh Hoàng, cũng theo đó mà hiển lộ, như sẵn sàng hết lòng bày vẽ cho các bạn gái và một vài bạn nam cùng lớp biết cách làm toán, cũng như cho coi (copy) bài làm của mình. Đến khi các bạn mình bị thầy gọi lên bảng làm bài, các bạn làm không được, thầy hỏi chép (copy) bài bạn nào, các bạn khai thật là chép bài của trò Minh Hoàng. Thế là bé Minh Hoàng bị thầy đánh cho hai roi đau điếng. Từ thiện lớn là như thế đó. Lớn ở đây được thấy nơi bé Minh Hoàng là cả tâm và thân. Nếu không nói là hai đức tính từ bi và trí tuệ đã phát triển, là động lực của tâm thường khởi lên những ý niệm lợi tha, là sẵn sàng cho bạn coi bài, chỉ dẫn cách làm bài một cách tự tại an nhiên, không cần biết đến hậu quả sẽ bị thầy đánh đòn. Cũng như không thèm ôm lấy thời gian của ngày chủ nhật, nghỉ lễ để vui chơi riêng cho mình, bé Hoàng đem tâm tinh tấn đi ra các nẻo đường một cách nhẫn nhục dưới ánh nắng mùa hè, giá lạnh mùa đông, mưa rơi rơi trơn trợt trong mùa thu, mà đôi chân vững chãi bước đi trong thầm lặng để tìm kiếm các ông, các bà già ăn xin mà cho vài xu tiền, cái bánh ngọt, ổ bánh mì… trong khi đang ở tại nhà bà thím đi học hay trong các ngày nghỉ lễ, nghỉ hè tại gia đình với bố mẹ, anh, chị. Từ bi và trí tuệ của các hàng Bồ Tát là chỗ đó, là ở nơi những con người có tâm thấy được, cảm niệm được nỗi niềm ray rứt khổ lụy vì đói nghèo, bịnh tật, túng thiếu, v.v… của con người trong mọi giai cấp, chứ không riêng gì kẻ ăn xin, mà dấn thân tri hành ra tay cứu giúp một cách vô tư bất vụ lợi cho mình.

 

TÂM HIỂU BIẾT ĐA DẠNG VỀ VĂN HÓA

Xuyên qua bé Minh Hoàng, ta thấy chỉ là một cô bé ốm tong teo bằng xương bằng thịt đủ năm uẩn như những đứa bé con hàng xóm không hơn, không kém. Với người không học Phật thì không thấy gì ở Minh Hoàng, nhưng với người học Phật sẽ thấy ngay sáu phép qua bờ (Lục độ ba la mật) có nơi thân tâm của bé Minh Hoàng, không đâu xa.

- Chính huynh đã thấy nơi bé Minh Hoàng? Lời hỏi của Đăng Triệu.

- Vâng, chính tôi biết rõ và được thấy một vài lần, vì tôi là bà con quyến thuộc mà! Bé Minh Hoàng ốm yếu vậy đó, nhưng thích hoạt động tay chân và cả tâm thức, nên chi ngày nào không đi bố thí cho người ăn xin, ở nhà là đem truyện cổ Phật giáo, thần tiên, anh hùng dân tộc như hai bà Trưng, bà Triệu, Quang Trung , v.v… ra đọc.

Lớp năm là lớp thi tiểu học, nên có nhiều môn khó, khó nhất là toán, khó nhì làm luận tả cảnh, tả người. Bé Minh Hoàng thích làm luận tả người, cho nên Minh Hoàng tự làm bài luận văn tả người ăn xin. Làm xong cất đó, chờ ngày nghỉ, bé đem khoe với bố, với má. Được bố khen hay lắm, bà má cũng đồng tình khen luôn và thưởng cho hai đồng Đông Dương. Hai đồng bạc Đông Dương lúc đó ăn quà cả tuần mới hết, nhưng bé Minh Hoàng đổi ra xu, ra cắc. Thứ nhất chỉ tiêu chút chút, còn lại cất dành cho ăn xin và cho bạn nghèo.

Tâm tư của bé Minh Hoàng ưa thương người ăn xin, nên làm bài luận tả người ăn xin. Đến khi đi thi tiểu học, được trúng tủ bài luận tả ông già ăn xin, cái đề ấy do bộ quốc gia giáo dục đề ra.

Này huynh Đăng Triệu, huynh thấy thế nào, bé Minh Hoàng thương người ăn xin, khi đi thi lại được trúng tủ cái đề thi tả người ăn xin?

- Thật sự, với trí thông minh của bé Minh Hoàng, thì dù đề thi nào đi nữa, Minh Hoàng vẫn đủ khả năng để viết ra đúng giờ hay trước giờ nộp bài. Còn vấn đề bé Minh Hoàng đi thi được trúng tủ đề thi tả ông già ăn xin, có thể do tâm Minh Hoàng ưa thương người ăn xin, mà được gặp đề đúng theo định luật nhân quả. Biết đâu nhờ bài luận đó mà bé Minh Hoàng được đậu trên hạng tối ưu thì sao! Có phải không?

- Ồ! Sao Đăng Triệu biết, hay quá vậy, tiên tri không bằng! Đúng thật đó. Đăng Triệu biết không, bé Minh Hoàng được đậu với số điểm tối ưu. Trong thời đó, cái thời đại nước ta bị Pháp đô hộ, làm gì có chuyện được bộ quốc gia giáo dục Việt Nam công bố lên báo chí và kể cả sở học chánh địa phương cũng không thông tin cho mọi người trong thị xã được biết. Họ chỉ âm thầm gởi giấy khen và số điểm đậu về cho gia đình được biết. Đến tháng sau, gia đình được nhận giấy của sở học chánh Quảng Nam mời lên để nhận văn bằng tiểu học của bé Minh Hoàng. Sau đó, chỉ có bà con quyến thuộc được biết, lần lượt đến thăm, ngỏ lời  khen bé Minh Hoàng học giỏi, có cơ hội học lên bác sĩ. Mà thật, hai bác và các anh chị tôi, ai cũng nói sẽ cho bé Hoàng học lên bác sĩ dù mới tới cấp tiểu học thôi. Với bậc làm cha mẹ, ai cũng đặt sự nghiệp lớn trước cho con mình, khi nhìn thấy khả năng văn hóa của con cái. Còn khi lớn lên, con cái có đứa là sĩ quan quân đội, thương gia, kỹ sư, nhạc sĩ, ca sĩ và kể cả tu sĩ, v.v… là do quả báo nghiệp của đời trước đang hiện hữu ở bản thân thực tại. Ai vô đó, chính đức vua Tịnh Phạn đã sắp đặt ngôi vua cho thái tử Tất Đạt Đa từ lúc thái tử đang học văn võ với các giáo sư tài nghệ, nhưng khi lớn lên, thái tử Tất Đạt Đa đã đi xuất gia, tu hành thành Phật.

- Anh Tuệ Đạo, theo tôi thấy, người được có đức tính Bồ Tát, thường lấy chữ hiếu làm đầu đối với cha mẹ ở hành động báo ân cỏn con, ngay từ lúc nhỏ lên bốn, lên năm… đã có. Rồi sau đó khi lớn lên thành người thanh niên, làm nhiều việc thiện lớn hơn để báo ân cha me, trong đó có khi đi xuất gia nữa đấy. Bên cạnh đó có báo ân chúng sanh, quốc vương (các đời tổng thống…) và Tam Bảo. Không biết bé Minh Hoàng lúc nhỏ đã có hành động hiếu thảo với cha mẹ, hay chưa?

- Phải nói một cách khẳng định rằng, bất cứ con người trong mọi giai cấp từ giàu đến nghèo, một khi tâm được có đức tính Bồ Tát, là có ngay hành động hiếu thảo báo ân cha mẹ trước tiên, sau mới đến anh chị em, quyến thuộc và ra ngoài xã hội nói chung là chúng sanh (sư trưởng, bằng hữu, loài vật, cỏ cây), cuối cùng mới đến Tam Bảo.

 

LÒNG HIẾU THẢO CỦA BÉ HOÀNG ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI

Hành động hiếu thảo với cha mẹ, nhất là mẹ, trong đó có báo ân được ẩn tàng, được thấy ngay từ lúc nhỏ ở các lứa tuổi lên năm, sáu, bảy, tám của những đứa trẻ vốn có đức tính Bồ Tát, chứ không đợi đến lớn tuổi thanh niên mới có. Đó là một quy luật bởi hai đức tính từ bi và trí tuệ còn non nớt trong tâm thức. Chẳng hạn, đứa bé có đức tính Bồ Tát được ai cho cái bánh, đồng bạc, tức thì bé đem về nói thỏ thẻ bên mẹ rồi cho mẹ, sau đó được mẹ cho lại.

Bé Minh Hoàng được có đức tính hiếu thảo với cha mẹ lúc tám tuổi học lớp năm tại trường tiểu học Nam Ô, lúc ở trọ nhà bà thím. Suốt thời gian ở trọ như vậy, bà má gởi tiền cho bà thím, trong đó có tiền cơm, tiền quà, cho nên sáng nào bà thím cũng đưa cho bé hai đồng để bé tự mua quà ăn sáng. Tiền lúc bấy giờ, một đồng mua được một ổ bánh mì thịt cỡ lớn và một chai nước xá xị, nhưng bé Hoàng chỉ xài một đồng cho bánh mì, không mua nước xá xị, bé cất dành được một đồng rưởi. Cứ như thế hoài hoài, ngày qua ngày, tháng qua tháng, bé thấy tiền hơi kha khá. Bé Hoàng lấy một lon hết sữa, rồi khoét thêm cái lỗ có sẵn cho thật rộng ra, rửa sạch, phơi khô, bỏ hết tiền vào đó. Hết lon này đến lon khác, gần bốn lon trong những ngày cuối sắp thi tiểu học. Sau ngày thi tiểu học, hết ở trọ, về lại gia đình, bé Hoàng đem mấy lon tiền ra để trước mặt bà má đang ngồi lặt rau nơi nhà bếp, bé Hoàng ngồi xổm bên má, thỏ thẻ nói:

- Má, con cho tiền má nè!

- Tiền đâu mà con có vậy?

- Tiền của con!

- Má biết đó là tiền của con, nhưng con lấy đâu ra mà được có?

- Tiền bà thím cho ăn sáng, con không ăn hết, cất dành cho má.

Sau lời của bé Hoàng, bà má ngồi im lặng, hai tay cứ tiếp tục lặt rau. Sự im lặng ấy, chính là tâm tư bà đang khởi lên niềm xúc cảm nóng bỏng bởi lời nói hiếu thảo của bé Hoàng, đang lưu chuyển khắp thân tâm bà, làm cho đôi mi bà rướm lệ, miệng không nói nên lời. Đoạn bà dừng tay, quay mặt qua, ôm bé Hoàng vào lòng, bà nói khe khẽ:

- Con út của má có hiếu lắm không ai bằng! Thôi, má không lấy đâu, má cho lại tiền này cho con, để con mua gì đó mua.

Bé Hoàng nũng nịu:

- Má cất tiền dùm con đi! Hay là má mua cho con hai con gà mái trắng về nuôi. Chúng sẽ đẻ ra một bầy gà con trắng xinh đẹp.

Bà má cũng chìu theo ý muốn của bé Hoàng, đi mua về hai con gà mái trắng. Đến mấy tháng sau, chúng đẻ ra cho một bầy gà con trắng, thật là xinh đẹp, dễ thương.

Thấy gà nhiều quá, bà má mới hỏi bé Hoàng:

- Gà nhiều như vậy, con tính làm gì đây?

- Má bán hết, mua con heo về nuôi.

Bà má lại đi mua con heo. Mua đem về, không thể nuôi ở nhà, giao heo cho người bà con nuôi. Kể từ đó bé Hoàng không quan tâm đến con heo, quên lãng luôn.

Đăng Triệu đang nghe Tuệ Đạo nói, bỗng dưng đưa ngón tay trỏ phải lên không cao, hơi chênh chếch về phía trước mặt Tuệ Đạo. Thấy vậy, Tuệ Đạo ngưng nói, liền hỏi:

- Anh muốn nói gì, phải không?

- Vâng, tôi thấy bé Hoàng tuổi mới lên tám, mà đã có một tâm hồn rất cao thượng trên ba lãnh vực; tình thương người đồng loại, thương loài vật, kế hoạch kinh tế và bố thí. Tất cả đều do hai đức tính từ bi và trí tuệ, ba hành động thể hiện ra cùng lúc một cách liên hoàn, đó là có kế hoạch làm kinh tế bằng cách nhờ bà má mua gà, rồi đến mua heo nuôi lớn, bán ra sẽ được có số tiền để mà bố thí cho người đói khổ neo đơn, nhưng cảm thấy thương cho con heo, khi lớn lên sẽ bị người ta giết chết ăn thịt, nên bé Hoàng không nghĩ đến con heo nữa, chôn vùi nó trong lãng quên. Theo chỗ thấy của tôi về bé Hoàng có tâm hồn rộng lớn như vậy, có đúng không anh Tuệ Đạo?

- Đăng Triệu có óc nhận xét về tâm hồn rộng lớn của bé Hoàng ở tuổi lên tám như vậy, quá đúng! Ông bà ta thường nói “khôn từ thuở lên ba”. Con người khôn được thấy có hai hạng người, thánh phàm, hay còn gọi là trí .

Người có tâm Thánh trí, biết hành động đạo ân hiếu, lễ độ trong gia đình quyến thuộc và hành động đạo nhân nghĩa đối con người trong mọi giai cấp ngoài xã hội, đó mới đích thực là Bồ Tát vì khôn cả hai nơi. Điển hình rõ nét là bé Minh Hoàng.

Người có tâm Phàm mê thì chỉ có hành động ân hiếu đối với gia đình quyến thuộc của họ thôi, bất biết người ngoài xã hội ai đói, ai khổ, ai chết, ai bị khổ nạn… mặc ai… do không có đạo nhân nghĩa trong lòng, người đó không phải là Bồ Tát.

Một hạng người không phải là Bồ Tát nữa, đó là người luôn có đạo nhân nghĩa chỉ đối với người ngoài xã hội thôi, còn trong gia đình và quyến thuộc thì bất hiếu vô ân, hỗn xược.

Người có tâm Bồ Tát luôn có tâm ân hiếu lễ nghĩa trong gia đình và nhân nghĩa giúp người ngoài xã hội ngay từ lúc còn nhỏ đã có rồi, như bé Minh Hoàng. Để chứng minh điều đó. Một hôm tại bàn ăn tối, bé Minh Hoàng hỏi ông bố:

- Mấy người ăn xin họ ngủ ở đâu, hả bố?

- Họ ngủ ở góc phố, các sạp gỗ trong chợ hoặc ở nơi gốc cây.

- Tội nghiệp họ ghê đi! Con thấy thương quá! Mình cho họ về  ngủ nhà mình được không bố?

- Không được đâu!

- Vì sao không được?

- Vì kiếp họ sinh ra là phải làm kẻ ăn xin và ngủ ở các nơi đó, do kiếp trước họ được giàu có, nhiều tiền mà keo kiệt không cho tiền, cho bánh mì, bánh ngọt cho người bị đói, bị nghèo khổ…

-Con có cho tiền ông ăn xin. Mỗi lần cho, con bảo ổng “bác đứng xa xa đừng lại gần cháu nha.” Con để tiền xuống đất, con bảo ổng đến lấy.

- Vì sao con không đưa tận tay ổng, mà phải để xuống đất rồi bảo ổng đến lấy? Lời ông bố hỏi.

- Vì con sợ mấy ông ăn xin lắm! Con có cho tiền các ông ăn xin; con có được ngủ trong nhà không bố?

- Đúng rồi, con đang ngủ trong nhà với bố, với má và các anh chị con, là do con cho tiền ông già ăn xin.

- Mai mốt con lớn lên, con sẽ cho tiền, bánh mì cho nhiều người ăn xin. Lời hứa bố thí của bé Hoàng.

- Qua lời hứa sẽ bố thí nhiều nữa của bé Hoàng cho người ăn xin, tôi thấy con người vốn có tâm Bồ Tát đích thực, chắc chắn vận hành Bồ Tát Đạo của họ, càng lúc càng nảy sinh nhiều công việc cứu khổ cho đời trước tuổi. Không ai vô đó, chính Đức Thích Ca của ta, khi còn là thái tử, ở tuổi mười bốn, mười lăm, tâm  tư của ngài đã ưu tư muốn tìm phương cách cứu đời thoát khổ, cứ liên tục hiện hữu trong tâm tư ngài, càng lúc càng lớn, là động lực đưa ngài vượt thành xuất gia tu khổ hạnh thành Phật. Lời nhận thức của  Đăng Triệu.

Nghe lời nhận thức của Đăng Triệu về tâm con người có tính chất Bồ Tát, luôn luôn nảy sinh nhiều việc cứu đời, Tuệ Đạo nở nụ cười hàm tiếu trên môi, làm cái bắt tay với Đăng Triệu và nói:

- Lời nhận thức của anh về con người có tâm Bồ Tát đích thực, qua các việc làm cứu đời của họ quá ư đúng, làm cho tôi thấy rõ tâm Bồ Tát của bé Minh Hoàng, càng  lúc càng phát triển không đợi đúng tuổi, thật là đa khoa trên nhiều lãnh vực bố thí, hội họa, thi ca, văn nghệ, thể thao, từ thiện, xã hội, v.v… khi mới vừa lên trung học ở lớp sáu, bé Hoàng đã sinh hoạt rất năng nổ những công việc ấy rồi. Vì quá năng nổ cho đến nỗi, bà má ra lệnh bé Minh Hoàng phải hớt tóc ngắn như con trai (demi cour garcon), mặc sơ mi ngắn tay, quần short và đi giày bata cao cổ để dễ dàng đi đứng, bởi vì ở trường Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ được mặc tự do, chưa có đồng phục.

Đến những năm học ở lớp cao, tuổi bé Hoàng là tuổi thanh niên, tâm Bồ Tát của bé Hoàng được phát triển nhiều việc lợi ích, cứu giúp con người qua những hành động rất là sinh động và linh hoạt.

Nói đến hai cụm từ sinh động và linh hoạt, Tuệ Đạo ngưng nói, ngồi im cả mấy phút, đưa mắt nhìn ra mặt biển đang lấp lánh muôn ngàn hạt kim cương vĩ đại dưới ánh nắng xế mùa hạ.

Đăng Triệu như nóng lòng muốn nghe tiếp hành động linh hoạt của bé Hoàng, liền yêu cầu:

- Hành động linh hoạt và sinh động cứu đời của bé Hoàng như thế nào, anh Tuệ Đạo kể nốt trong chiều nay đi!

Tuệ Đạo nghiêng đầu, nheo đôi mắt như tư duy đắn đo nên hay không, đoạn Tuệ Đạo nhìn đồng hồ trên tay, vừa cười vừa nói:

- Tôi là gió biển khơi. Chiều lên tôi vào bờ. Mang cho anh khí lạnh. Dù nơi đây mùa hè. Anh sẽ cảm lạnh ngay. Khi mặt trời xuống thấp. Xin mời anh đi về. Đang bốn giờ pm.

Đọc xong mấy câu thơ, lời của gió do Tuệ Đạo sáng tác, nóng hổi, Tuệ Đạo nhìn Đăng Triệu nói khẽ:

- Đăng Triệu ơi! Tấm thân người Việt cao niên của chúng mình, không chịu nỗi làn gió cảnh giới của chiều San Diego này đâu. Chúng ta phải về đi thôi!

Vừa nói xong lời phải về đi thôi, Tuệ Đạo đứng lên rời chỗ ngồi, Đăng Triệu cũng đứng lên bước theo sau Tuệ Đạo, miệng lẩm bẩm mấy câu thơ: Anh em ta hãy lên đường, hẹn nhau nói tiếp bé Hoàng chuyện xưa, ngày nào buổi sớm hay trưa, không gian câu chuyện chọn chùa hay mô?

Tuệ Đạo đi chậm lại, rồi quay lui nói nho nhỏ “chùa chùa!”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG HAI

 

TƯ TƯỞNG LỚN HƠN BẢN THÂN

 

Đăng Triệu đang thu mình ngon giấc trong chiếc chăn len mỏng dính, vì trời mùa hè San Diego mát lạnh lúc gần sáng, bỗng cái cell phone reo vang lên tiếng nhạc “quê hương tôi miền Trung, sớm hôm chuông chùa nhẹ rung…”, làm chàng tỉnh giấc, thò tay ra, bốc cell phone hiệu Sam Sung nhỏ bé, mở nắp đưa vào tai:

- A lô! A lô! Chuông chùa nào gọi tôi đây!

Bên kia đầu dây có tiếng đáp lời:

- Chuông chùa Tuệ Đạo đây, dậy đi chứ, bảy giờ rồi, lên tôi ăn sáng tại nhà hàng Saigon trước khi đến tu viện Pháp Vương. Anh đã biết rõ lộ trình và địa chỉ đến tôi hay chưa?

- Vâng, tôi đã xem kỹ rồi.

- Nếu anh bị lạc đường, gọi tôi. Chúng ta sẽ gặp nhau sau, OK bye!

Sau khi đậu xe nơi parking nhỏ hẹp trên mỏm đồi cheo leo của tu viện, Đăng Triệu và Tuệ Đạo rảo bước chầm chậm xuống đường dốc ngắn, mà hai bên nó có những cây mi mô da xanh biếc đang trổ hoa vàng óng ánh dưới ánh nắng ban mai rực rỡ, nhưng vẫn nghe không khí se lạnh trong bóng dâm của những cây trúc, bưởi, ổi, điệp hoa tím… ở chung quanh tu viện được hòa điệu với những tiếng chim choác choác, choè choè, tiếng sột soạt của các chú sóc chạy trên lá vàng khô, rồi đứng nhìn như để quan sát cây ổi nào đang có trái chín.

Hai chàng dừng chân trước tượng Phật A Di Đà, đại hồng chung sau cái mệt nho nhỏ do đi trên con đường dốc trải nhựa. Đang nói với nhau về gốc tích tu viện, thầy trụ trì xuất hiện. Không ai bảo ai, hai chàng cùng chấp tay:

- A Di Đà Phật, chúng con kính chào Thượng Tọa.

- Hai đạo hữu từ đâu đến? Lời hỏi của thầy trụ trì.

- Dạ thưa chúng con ở xa đến.

- Mời hai đạo hữu vào lễ Phật rồi uống trà.

Tuệ Đạo nhanh miệng:

- Xin cảm ơn Thượng Tọa, để chúng con được tự nhiên dạo cảnh.

Thầy trụ trì vừa qua khỏi cây ngọc lan ở góc nhà, Đăng Triệu và Tuệ Đạo làm một vòng từ sau ra trước như thể để trình diện với mười tám vị La Hán và tổ Đạt Ma đều mặc cà sa trắng, đang ngồi im nhìn xuống thế gian, nếu không nói là quý ngài đang tư duy về Đạo pháp Việt Nam tại xứ Mỹ giàu nhất thế giới này.

Xong một vòng ngoạn cảnh Tịnh Độ, Tuệ Đạo và Đăng Triệu trở lại chỗ có đại hồng chung và tượng Phật A Di Đà. Gần nơi này có Tứ Động Tâm trên một khoảng đất cao bằng phẳng, hình chữ nhật có xây tường. Tứ Động Tâm được vẽ trên tường thật là sống động và hoành tráng ra phết, không thua gì tượng cốt được đặt để nơi gốc cây có hoa cỏ, đường đi… bởi những nét chấm phá sắc sảo của họa sĩ tài nghệ.

Sau một vài phút nhìn xem Tứ Động Tâm trên vách, Tuệ Đạo hướng dẫn Đăng Triệu đến ngồi chỗ quen thuộc, đó là những bậc cấp lên xuống bên góc Tứ Động Tâm, nơi mà Tuệ Đạo đã quen đi lại, ngồi đó lắm lần, vì nơi đó luôn luôn có bóng mát đậm màu xam xám trong bốn mùa, do từ những cây có lá móng ngựa nở hoa tím, lá xanh tươi quanh năm, người ta gọi hoa ấy là hoa Hoàng Hậu.

Tiếp theo câu chuyện về bé Minh Hoàng, Tuệ Đạo mở đầu, nói:

- Con người vốn có bản chất văn hóa, là có ngay mọi thứ nghệ thuật sống trong tôn giáo và ngoài thế gian, vì nghệ thuật là sản phẩm của văn hoá, được nhìn thấy ngay từ lúc ấu niên, thanh niên và suốt cả cuộc đời đến tuổi già, vẫn còn văn hóa và nghệ thuật. Ngược lại không có văn hóa là không có nghệ thuật sống. Không có văn hóa và nghệ thuật, thì mọi việc trong cuộc đời phải bị đổ vỡ.

Hai đức tính văn hóa và nghệ thuật, cũng được gọi là tính chất Bồ Tát. Ai có tính chất Bồ Tát thì nhất định có ngay tấm lòng Bồ Tát nguyện (volunteer) xông pha làm bất cứ việc gì đem ích lợi vật chất hay tinh thần cho kẻ xa, người gần một cách tinh tấn, nhẫn nhục, không sanh tâm so đo tính toán, lợi hại nhiều ít, sướng khổ, nề hà khó nhọc về mình, luôn luôn hy sinh thời gian, vật chất và bản thân mình mà lê gót dấn thân đi trong sương gió ở khắp mọi nẻo đường, để làm các việc từ thiện giúp người đói khổ được no, bớt khổ (Bồ Tát đạo) vân vân… Đó là cái tài văn hóa được đi theo cái tài nghệ thuật giúp người của các bậc thánh trí, đúng với câu “nhân bất phong sương vị lão tài” của một nhà văn xưa khi bàn đến cái tài của con người, dù nam hay nữ. Câu ấy có nghĩa là con người có tài, bất cứ tài gì, không thể không phong sương, tức là ưa dấn thân trong gian khổ để làm các việc… mà không sợ gió sương, mưa hay nắng.

Người có tài dù là tài gì, văn hoá thế gian, Phật giáo, khoa học, kỹ thuật, vân vân, đều dấn thân trong phong sương, gian khổ.

Với người rặc phàm phu, tài của họ là thế gian tài. Tài thường có đức theo sau. Tài của người phàm phu, có người có đức, có người không đức do bởi chất thế gian, sự phong sương của họ chỉ là mưu cầu lợi ích vật chất riêng tư, nên ích kỷ không lợi tha cho người.

Còn người Bồ Tát thánh trí, tài của họ là xuất thế gian, luôn luôn có đức theo sau từ lúc sanh ra, lớn lên đã bước vào phong sương trên vận hành lợi tha cho mọi người nhiều thứ vật chất và tinh thần, rất là nghệ thuật qua ngôn ngữ và hành động dịu dàng trìu mến với mọi người do ba thứ tài, đức và nghệ thuật, đó là sự dấn thân đến với mọi người thường xuyên và được mọi người đến, nếu không nói là do năng lực tài, đức, nghệ thuật quyến rũ mọi người. Trong khi đó người có tài và nghệ thuật thế gian ít ai đến, mà chỉ đến với mọi người vì mưu cầu lợi lộc.

Đăng Triệu à! Những đạo lý mà nãy giờ tôi nói, đều là những chân lý nằm trong định lý, định luật, quy luật của thế gian và Phật giáo thử hữu cố bỉ hữu (cái này có cái kia có). Ta tìm thấy những đạo lý ấy có mặt trong mọi việc, mọi vật có tướng và không tướng, ta gọi chúng là đạo.

Chỉ có hàng thánh trí nói đúng và hành động đúng những đạo lý ấy bởi có tâm Phật đạo, Bồ Tát đạo, tức là tâm nào thì đạo đó, tâm sanh ra đạo.

Đăng Triệu à! Thật lòng mà nói, tôi không dám khẳng định bé Minh Hoàng là thánh trí, là Bồ Tát. Minh Hoàng chỉ là một cô bé bằng xương bằng thịt như các cô bé cùng tuổi, cùng trường. Nhưng khác hơn mọi người, đó là hành động dấn thân vào các nơi văn hóa, hoàn cảnh cực khổ của mọi người một cách xông pha trong phong sương, gọi là tự nguyện (volunteer), để làm nhiều thứ việc ích lợi vật chất và tinh thần cho mọi người một cách năng nổ, sinh động và linh hoạt qua ngôn ngữ và hành động dịu dàng, trìu mến, tình cảm thật thà với mọi người… Được tất cả như vậy, là do tâm bé Hoàng vốn có Phật đạo, gọi là tâm nào đạo đó, tâm sanh ra đạo. Chữ đạo trong Đạo Phật là Chân Như, Vô Ngã, nếu không nói đó là đạo đức của Phật giáo. Vì thế các việc làm, lời nói, hành động đối đãi với mọi người từ trong gia đình ra ngoài xã hội rất có văn hóa và nghệ thuật một cách tự nhiên theo quy luật, định luật, định lý mà có, chứ không thể giả tạo được.

 

BÉ MINH HOÀNG CÓ NHIỀU TÀI

Mọi vật thể và con người được có nét văn hóa và nghệ thuật tự nhiên theo định luật luôn quyến rũ mọi người đến. Với vật thể, người ta đến ngắm vẻ đẹp của nó. Với người, người ta đến để nhờ cậy, xin cứu giúp, kể cả lợi dụng lòng tốt.

Bé Minh Hoàng được mọi người đến. Đến để thương Minh Hoàng, đến để nhờ Minh Hoàng cứu giúp việc gì đó, đến để xem Minh Hoàng đánh banh bông, múa hát có nghệ thuật, vân vân.

Rõ thực, bé Hoàng mới học lớp sáu (đệ thất cũ) đã được các giáo sư và vị hiệu trưởng Linh mục Lê Văn Ấn ở trường trung học Sao Mai thương mến và quan tâm. Quan tâm nhiều việc lắm, trong đó các giáo sư công dân, sử địa, vạn vật, ai cũng  nhờ bé Hoàng lên viết các bài học trên bảng. Thậm chí các giáo sư chấm xong bài mẫu, sau đó nhờ bé Hoàng đem tất cả tập vở làm bài của học sinh về nhà, rồi theo đó chấm dùm. Do vậy cứ mỗi chiều tan học, bà chị bé Hoàng đến đứng trước cổng trường, chờ bé Hoàng ra mà ôm dùm một chồng vở nặng, vì bé nhỏ con, còn chồng vở to, nặng hơn bé.

Do có tài văn hóa, đạo đức và nghệ thuật nói năng, ca hát, vũ khúc được đúng điệu, đúng cách khi đối đãi, lúc diễn xuất thật thanh nhã, linh hoạt và sinh động… cho nên bé Hoàng được Linh mục Lê Văn Ấn hiệu trưởng chọn bé Hoàng vào ban văn nghệ và các môn chơi của trường, để hy vọng sẽ được lãnh cúp khi đi thi trình diễn và đấu với các trường bạn trong tỉnh.

Với cái vốn sẵn có về tài văn hóa, nghệ thuật và đạo đức, bé Hoàng xông pha ngay vào việc một cách tinh tấn, tích cực có nghệ thuật, như các vũ khúc được xen vào lời ca và điệu nhạc khi múa, bé Hoàng phải nghe nhiều lần về điệu nhạc và lời ca trong máy cassette. Do vậy, bé Hoàng và các nữ vũ công đến trường sớm trước 30 phút, vào văn phòng, rồi đến phòng văn hóa lắng nghe bài hát có nhạc, sau đó vừa nghe, hát theo vừa múa. Cứ như thế suốt thời gian 6 tháng, cho đến lúc đi thi trình diễn văn nghệ. Trong lúc luyện tập, các nữ vũ công ai cũng mệt nhừ, còn bé Hoàng tỉnh bơ, chả có mệt gì cả.

Ngoài tài múa hát ra, bé Hoàng còn có tài đánh banh bông, vũ cầu, chạy đua, nhảy cao, nhảy xa và phóng kiếm vào mục tiêu. Vì thế nhà trường bày ra môn thi phóng kiếm. Môn phóng kiếm rất khó, nên chỉ chọn được 4 học sinh trong các lớp. Bé Hoàng đầu tiên mà lại nhỏ con so ba học sinh khác. Cả bốn học sinh đều mặc quần áo theo kiểu cao bồi, nhưng cái quần có nai nịt như lính ngự lâm quân của nhà vua lúc xưa.

Bé Hoàng luyện tập cho 3 học sinh trong toán, phóng theo cách của bé Hoàng với thời gian hai tháng. Đến ngày đi thi trình diễn văn nghệ, thể thao, các môn chơi, bốn học sinh của toán phóng kiếm đã được xếp hàng ngang, đeo kiếm bên hông, đi từ ngoài vào đường giữa hội trường một cách nhịp nhàng theo tiếng nhạc. Rồi dừng lại theo tiếng nghiêm, đứng lại, đứng thật lớn từ cái loa trên sân khấu phát ra. Bỗng chốc, cả 4 lính ngự lâm quân, đưa cánh tay phải lên chào một cái, phất xuống, liền rút kiếm ra, đồng bước tới, phóng mạnh lưỡi kiếm lên tới tấm gỗ trên vách phía sau sân khấu, các lưỡi kiếm đều ghim vào ở giữa vòng tròn trắng. Cả hội trường đều vỗ tay vang dội thật lâu cả phút.

Tuệ Đạo ngưng kể, xoay qua Đăng Triệu, hỏi:

- Đăng Triệu biết vì sao bé Hoàng tập luyện nhiều lần như vậy mà tỉnh bơ, không bị mệt?

- Vì bé Hoàng nhỏ con, cao nhòng. Người có cơ thể ốm ưa sinh hoạt thể thao, vì thế mà bà má Hoàng bắt Hoàng phải mặc áo bun cụt tay, khi thì màu hồng phấn, khi thì màu xanh da trời, mặc quần short trắng hay xanh đen, hớt tóc con trai, đi giày ba ta cao cổ. Đó là một lợi thế không bị bận rộn vén tóc như các nữ sinh khác, hay có lau chùi mồ hôi trán, cũng mau qua cái quẹt nhanh bằng cánh tay là xong. Trong các môn chơi, cũng có lợi thế chạy nhảy, đở banh nhanh nhẹn. Đúng là bà già biết hết tính con mình, nên bà bắt bé Hoàng đóng vai con trai thật là đúng lúc, đúng cách. Trong khi các cô bé kia tóc tai lòng thòng, yếu tố làm cho mau mệt. Tôi nói vậy, biết đúng không?

- Quá đúng, Đăng Triệu có óc nhận xét rất tinh anh!

Tuệ Đạo nói tiếp:

- Nhờ đó mà bé Hoàng lãnh cúp vàng cho trường Sao Mai sau khi đi trình diễn văn nghệ với các trường tại thị xã Đà Nẵng. Chẳng những một cúp vàng, được có thêm nhiều lần cúp bạc, rồi cúp vàng sau mỗi lần thi trình diễn văn nghệ.

Được cúp vàng là do ca múa có nghệ thuật rất sinh động ở bản thân của các vũ công, làm cho khán giả vỗ tay nồng nhiệt lâu nhất hơn các vũ khúc của các trường khác. Tất cả do bé Hoàng đạo diễn điều khiển các bạn ca múa đúng nghệ thuật, vừa đẹp mắt vừa sinh động.

Không những bé Hoàng lãnh cúp văn nghệ cho trường hai lần, mà còn lãnh cúp thi đấu đánh bóng bàn ba lần cho trường khi vào chung kết đánh cặp đôi, rồi đơn cuối cùng, bé Hoàng đã hạ đối phương ba lần, lần nào cũng ba trên hai, có khi bốn trên ba. Bé Hoàng đã thắng một cách vẻ vang cho trường.

Tuệ Đạo lại hỏi đố Đăng Triệu lần nữa:

- Đố Đăng Triệu, nhân tố nào làm cho bé Hoàng thắng bóng bàn một cách vinh quang như vậy?

- Do bé Hoàng có nghệ thuật điêu luyện, trong đó có một chút tỉnh thức và thứ nữa do nhỏ con là lợi thế sàn qua, sàn lại đỡ banh và đập banh mạnh thật chính xác vào bàn đối thủ.

- Quá đúng, Đăng Triệu nhận xét quá đúng!

 

TÀI HỌA SĨ

Tuệ Đạo im lặng trong vài giây như thể để nhớ lại bản môn, tích môn văn hóa nghệ thuật của bé Hoàng xưa kia, sau đó tằng hắng nói tiếp:

- Bé Hoàng, ngoài tài văn hoá, nghệ thuật ca múa, đánh bóng bàn, bé còn có tài họa sĩ nữa. Lúc bé lên 11 tuổi đang học lớp 8, bé đã vẽ một con gấu màu đen vùng bắc cực rất sống động rõ nét như chụp hình vậy. Thân con gấu đứng trên tảng băng trắng xóa như bông gòn. Bốn chân nó, hai chân sau hơi lui ở góc 15 độ, hai chân trước so le, một bước tới rất ngắn, một đứng thẳng, đầu nó hướng về phía trước hơi nghển lên, đôi mắt mở hờ, nhìn ra xa xăm như đang nhìn lại thân phận cô đơn của nó nơi vùng bắc cực đầy băng giá lạnh lùng!

Khi lên lớp 9 lúc 12 tuổi, học sinh nhỏ tuổi nhất lớp. Bé Hoàng đã vẽ hằng loạt cùng lúc nhiều đóa hoa hồng nằm ngang theo chiều dài liên kết nhau, trông rất sặc sỡ đậm nét màu hồng. Bức tranh hoa hồng tươi thắm màu hồng ấy, được ông chủ xưởng dệt hãng Vinatexco trong Saigon ra thương lượng với Linh mục hiệu trưởng, xin mua để đem về làm mẫu cho các thợ dệt khăn bàn, nhìn theo đó mà dệt cho đúng màu sắc, đúng cỡ.

Do được có tâm từ bi, nên có đức tính thương người nghèo, mà trước hết thương bạn cùng trường ăn mặc quần áo cũ xạc xài, không cầm lòng được trước hình ảnh ấy, bé Hoàng bớt lại tiền ăn sáng của bà má cho trong nhiều lần, để cho hai bạn mình mua sắm đồ mới, đó là hai bé Kiên và Mai, là hai bạn chí thân cùng sinh hoạt trong liên đoàn học sinh Phật tử. Mặc dù là trường đạo Thiên chúa, nhưng có nhiều Phật tử học trong đó, nên chi ông Linh mục Lê Văn Ấn lập ra liên đoàn học sinh Phật tử.

Vừa cho tiền, bé Hoàng còn cho tập vở, bút mực cho Kiên và Mai nữa. Những thứ này được có là do lúc đi với bà chị trong việc mua sắm vở tập, bút, mực thì bé Hoàng nài nỉ bà chị mua thêm. Thay vì trước đây bà chị mua 3 tập vở, 3 bút chì, thì nay bé Hoàng xin bà chị mua 5 tập vở, 5 bút chì. Trong khi đó bé Hoàng chỉ dùng ba mỗi thứ, còn hai để cho hai bé Kiên và Mai.

Một ngày nọ, trường tổ chức cho tất cả học sinh các lớp sáu, bảy, tám, chín đi du ngoạn ba ngày ở động Ngũ Hành Sơn. Bà chị cho bé Hoàng 50 đồng và dặn kỹ, là mua thức ăn cho 3 ngày, đừng cho đứa bạn nào hết.

Nói đến động, ai cũng thấy trong đó; nào là đường lên trời ngoằn ngoèo, dựng đứng cao vút, đường xuống trần gian quanh co nhiều cấp thấp, cao, đầy đá cục, đá hòn, chỗ lồi, chỗ lõm, nhiều hình thù bà tiên, Phật, thánh, thần, con cọp, con nai, con voi, con sấu, v.v… khắp đó đây, bên trên, bên dưới, nơi vách đá, sàn động, nhất là những hang sâu, trong đó nghe tiếng hú ren rét của gió thật ghê rợn.

Vì thế nên, tất cả học sinh các lớp được thầy tổng giám thị thông báo rằng; các em đừng leo cao, đừng vào hang sâu, đừng gõ lên vách thạch nhũ, chỉ xem bằng mắt, đừng rờ tay vào… Sau vài giờ đi xem tự do, sẽ có điểm danh bằng tiếng còi tu huýt thổi lên ba hồi, các em về tập trung tại địa điểm trung ương này. Các toán trưởng của mỗi lớp phải điểm danh số người của lớp mình.

Hơn hai giờ đi chơi tự do, thầy tổng giám thị thổi ba hồi còi tu huýt tập trung tất cả học sinh cho hai mục đích, kiểm lại số lượng học sinh vì sợ có chuyện chi không, thứ nữa để cho các em ăn trưa vì đã 12 giờ rồi.

Tất cả toán trưởng các lớp sáu, bảy, chín báo cáo đủ số người, duy chỉ có lớp tám, toán trưởng báo cáo mất ba trò, đó là Kiên, Mai Minh Hoàng. Tức tốc thầy tổng giám thị cử một vài em nam, nữ lớp tám đi tìm. Tìm  khắp nơi không thấy đâu cả. Chạy vào chùa, thấy cả ba trò Mai, Kiên, Hoàng đang đứng nói chuyện với ông thầy trụ trì trong chánh điện.

Nguyên nhân ba trò Mai, Kiên, Hoàng được vào chùa, được gặp thầy trụ trì là như thế này: cả ba đứa đang chơi từ trên đỉnh cao, tự nhiên rủ nhau, trò Mai nói trước “ê, tụi mình đi xuống động không đi bằng các bậc thang, đi bằng ngồi tuột chơi”. Thế là cả ba đứa ngồi, rồi tuột xuống, làm cho áo quần bị lấm lem đất cát đầy cả mình. Khi đứng dậy phủi bụi, mới biết nơi mình xuống tới đất là ngôi chùa. Từ đó Mai và Kiên rủ  Hoàng vào chùa. Vào chánh điện, Kiên và Mai bảo Hoàng lạy Phật. Bé không biết lạy, được Kiên hướng dẫn cách lạy. Trước khi lạy, Kiên nói với Hoàng là phải lạy, sẽ được Phật phù hộ cho khoẻ mạnh, cầu chi được nấy.

Lạy Phật xong, cả ba đứa đứng xem các tượng Phật, Bồ Tát trên bàn, các hình tượng Tứ Động Tââm được vẽ trên vách. Bỗng có tiếng của thầy trụ trì, từ dưới nhà tổ đi tới, ngỏ lời thăm hỏi thật chân tình. Sau lời thăm hỏi, thầy đi xuống thiền đường.

Thầy trụ trì vừa mất dạng qua cửa, Kiên nói ra rằng: “tụi mình phải cho tiền thầy để thầy làm việc Phật, thì mình sẽ được nhiều phước lắm, cầu chi cũng được đó.” Cả ba đứa Mai Kiên và Minh Hoàng liền đi xuống thiền đường, là nơi các thầy thường ngồi ăn cơm hay bàn luận Phật sự.

 

LÒNG THƯƠNG TĂNG BẢO

Ba đứa Kiên Mai Hoàng xuống thiền đường, thấy các thầy đang ngồi ăn cơm. Hai đứa Kiên Mai đứng  ra xa khỏi bàn ăn, vòng tay nhìn các thầy, riêng bé Hoàng mon men đến gần sau lưng thầy cả ngồi đầu bàn, liền hỏi:

- Sao các thầy ăn cơm với rau luộc và xì dầu, mà không có cá thịt gì cả, hả thầy?

Nghe bé Hoàng nói, ba thầy đều cười. Vị thầy cả trụ trì nhìn nghiêng ra sau, nói:

- Các thầy ăn chay con à!

- Ăn chay toàn rau không, tội nghiệp các thầy quá à!

Nói xong bé Hoàng thò tay vào túi quần short, lấy tiền ra, bỏ lại vào túi ba đồng, cúng cho thầy trụ trì 47 đồng. Bé Hoàng nói:

- Con cho mấy thầy tiền để mua thức ăn ngon, đừng ăn rau hoài khổ lắm!

Hai bé Kiên và Mai thấy vậy cũng bước tới, nắm trong tay mỗi đứa ba đồng, đứng kề bên bé Hoàng. Bé Hoàng nói nhỏ với hai đứa là “mình để tiền nơi đầu bàn cho thầy”.

Bé Hoàng để tiền nơi đầu bàn trước mặt thầy cả, hai đứa kia cũng để tiền vào đó luôn.

Thầy cả từ chối:

- Thôi các thầy có thức ăn ngon rồi, hôm nay chưa mua, mai thầy đi mua. Các con cất vào túi đi để mà tiêu cho ba ngày du ngoạn ở đây. Ba ngày ở đây, các con cần mua nhiều thứ để dùng lắm đó.

Ba đứa bất chấp lời thầy nói, cả ba đứa Kiên Mai và Hoàng, mạnh đứa nào đứa nấy để tiền trước mặt thầy trụ trì, rồi nói lia lịa “Con cho các thầy, con cho các thầy”. Xong, liền quay lưng chạy thật mau về đội.

Về đến đội, cả ba đứa Kiên, Mai và Hoàng, đang còn trong cái mệt hổn hển. Hai đứa Kiên Mai đến tạ lỗi trước thầy tổng giám thị. Kế tiếp là bé Hoàng đến, định nói gì, nhưng chưa kịp, đã nghe thầy nói:

- Với trò, thầy tha cho, chứ các trò khác thầy bắt quỳ. Bởi vì thầy biết mấy trò vào chùa lễ Phật và thăm các thầy, nên thầy yên chí, không sợ có chuyện chi khác. Các trò là con  nhà Phật được Phật độ. Nhớ lần sau, muốn đi đâu ra khỏi đất trại, ra khỏi đoàn, các trò phải báo cáo cho trưởng đoàn được biết đi chỗ nào để khỏi lo, nghe rõ chưa?

- Dạ, thưa thầy con nghe rõ! Lời hứa của bé Hoàng.

Bé Hoàng biết trong túi mình chỉ còn 3 đồng cho ba ngày ăn uống, liền lập kế hoạch bằng cách đưa hết 3 đồng cho bà già bán bánh bèo chén dưới núi Non Nước, để ăn mỗi ngày 4 chén, sáng, trưa, xế và chiều tối, mỗi lần ăn một chén cho một bữa. Vì một đồng bạc hồi xưa mua được 4 chén bánh bèo cỡ bự. Bà già bánh bèo chấp nhận, cất dành một ngày 4 chén cho bé Hoàng.

Hết ba ngày du ngoạn, chiều về đến nhà, bé Hoàng thỏ thẻ khoe với bà chị:

- Tiền chị cho em 50 đồng, em tiêu chỉ 3 đồng thôi.

Bà chị liền quát lớn:

- Hả! Tiêu gì mà chỉ 3 đồng, bộ em không ăn hay sao?

- Em có ăn mà!

- Ăn gì mà chỉ có 3 đồng?

- Em ăn bánh bèo chén, một ngày 4 chén, ba ngày 12 chén, đủ no rồi, vì một đồng em mua được 4 chén cho một ngày.

Bà chị hỏi tiếp:

- Còn 47 đồng, cất hay cho ai rồi?

- Em cho mấy ông thầy ở chùa Ngũ Hành Sơn, vì em thấy mấy thầy ăn chay không có gì ăn, em thấy thương mấy ổng quá, không cầm lòng được, em cho 47 đồng, em chừa lại 3 đồng đủ ăn no 3 ngày bánh bèo thôi.

- Được rồi, tiền chị cho em là để em ăn uống trong 3 ngày du ngoạn. Còn muốn cho các thầy, chị bằng lòng, nhưng cho ít thôi, phải chừa lại cho em tiêu chứ, cớ sao lại cho hết! Bữa sau đừng có hòng được chị cho nữa!

Sau một loạt kể về bé Hoàng, Tuệ Đạo im lặng trong trạng thái tư duy trong chốc lát, rồi tự nói ra một mình “đúng là con nhà Phật chính tông có khác hơn không chính tông”.

Đăng Triệu nghe cụm từ “con nhà Phật chính tông” liền lên tiếng:

- Con nhà Phật chính tông như thế nào, mới gọi là chính tông, anh Tuệ Đạo?

- Dễ ợt! Được thấy chính tông ngay nơi bé Hoàng không đâu xa, tôi đã kể từ sớm đến giờ mà huynh chưa thấy, người Huế gọi là chưa chộ. Chính tông nghĩa là vốn có được, sẵn có rồi. Có gì? Có phước và trí vô lậu, không bị pha trộn hữu lậu, nói như Nguyễn Du “thiện căn bởi tại lòng ta”. Người vốn có cội căn phước đức, trí đức vô lậu rồi, khi trở lại làm người nam, nữ liền có ngay hành động sống vì người bằng nhiều lợi ích vật chất, tinh thần cho mọi người, ngay khi còn bé một cách tự động (automatic), chứ không phải chờ cho lớn lên mới thực tập giới luật các việc hữu ích cho mọi người (nhiêu ích hữu tình giới) sau khi quy y Tam Bảo.

Do được có phước đức, trí đức vô lậu nên sống vì mọi người và cũng do từ phước trí vô lậu ấy được mọi người dâng hiến lại vật chất, tình thương, thăm viếng, lân mẫn học hỏi với mình. Điển hình rõ nét qua lối sống vì người, được người đáp lại, đó là bé Hoàng. Cho nên suốt bốn năm học tại trường Sao Mai, bé Hoàng được Linh mục Lê Văn Ấn, hiệu trưởng cho bé Hoàng đóng tiền bán phần học phí.

Tuệ Đạo ngưng mấy giây, quay qua hỏi Đăng Triệu:

- Đăng Triệu còn nhớ hành động đem tiền cho người nghèo, cởi áo cho ông ăn xin… của ngài Tu Bồ Đề lúc còn bé lên bảy?

- Các ngài khác có thể quên, chứ ngài Tu Bồ Đề làm sao có thể quên được, vì mình thường tụng kinh Kim Cang hằng tuần cơ mà!

- Rồi, đố Đăng Triệu sau hành động cởi áo, đem tiền cho ăn xin, kẻ nghèo, ngài Tu Bồ Đề làm việc gì tiếp theo?

- Quá dễ! Ngài Tu Bồ Đề lúc chưa xuất gia, còn tại gia lúc nhỏ, được cha mẹ đặt cho cái tên “KHÔNG SINH”. Một hôm Phật và Tăng đoàn vào làng, gần nhà bé Không Sinh. Không Sinh và cha mẹ của bé ra nghe Phật thuyết pháp. Bé Không Sinh liền xin cha mẹ cho bé được theo Phật. Cha mẹ đồng ý và Phật cũng hoan hỷ chấp nhận. Từ đó Không Sinh quy y xuất gia theo Phật, được Phật đặt cho pháp hiệu Tu Bồ Đề.

Sở dĩ bé Không Sinh phát nguyện theo Phật là do đã ngộ được lý Tánh Không khi nghe Phật thuyết pháp. Thiện duyên là chỗ đó và cội căn phước trí, Phật tử chính tông là chỗ đó, anh Tuệ Đạo ạ!

- Hay lắm, quá đúng!

Với bé Minh Hoàng, Phật tử chính tông hay còn gọi là cội căn phước trí vô lậu của bé được tương tợ như bé Không Sinh. Tức là sẽ được gặp duyên Phật pháp ở tương lai, đúng theo định luật “thử hữu cổ bỉ hữu” không thể tránh khỏi (bất khả tỵ).

Do vì không thể tránh khỏi Phật pháp, Phật pháp tuần tự đến kết duyên với bé Hoàng, bé Hoàng gặp Phật pháp với nhiều duyên khác nhau. Ở bước đầu tiên như thế này: khi lên lớp đệ tứ, tức lớp 9, là lớp thi lấy bằng thành chung, học sinh phải học và thực tập làm toán, làm văn cho kỹ, thuộc nằm lòng, mới có thể được trúng tuyển khoa thi. Vì thế bà má gởi bé lên ở tại nhà ông anh, bà chị của bé là nơi yên tịnh để học bài.

Nhà ông anh, bà chị ở gần nhà bác cách nhau 5 phút đi bộ. Nhà bác gần chùa cách nhau một hàng rào tường gạch.

Một hôm nhân dịp ngày chủ nhật, qua nhà bác, được ông bác bảo ở lại chơi. Bé Hoàng vâng lời ở lại. Tình cờ hôm ấy, hai thầy bên chùa dẫn một sư cô qua nhà bác. Theo lễ nghi tiếp đón, cả nhà ai cũng chào hỏi, mời ngồi, pha trà mời uống trà và nhiều câu chuyện đạo pháp được nói đến trong không khí thân mật đạo tình. Cũng như mọi người, bé Hoàng chấp tay chào hai thầy, chào sư cô, rồi tìm chỗ ngồi trong im lặng, an phận ở giai cấp con cháu.

Sau những giây phút hàn huyên, hai thầy xin kiếu về. Trước khi về, thầy trụ trì nhã ý với ông bác:

- Hôm nay có sư cô ngoài Huế vô thăm chúng tôi, ngày mai sư cô mới trở về bổn tự. Vì chùa là chùa Tăng, chúng tôi xin gởi sư cô ngủ lại qua đêm nơi nhà bác, xin bác hoan hỷ.

- Dạ thưa thầy không có gì trở ngại cả, để con lo cho.

Hai thầy chào mọi người, ra về với nụ cười an tâm. Bác trai đi theo tiễn chân hai thầy ra khỏi cửa, quay vào, bác gọi lớn:

- Con Hường và thằng Anh đâu ra đây ba bảo.

Ông anh và bà chị lần lượt ra trình diện, ông bác ra lệnh:

- Tối nay, con Hường qua ngủ với má mày, thằng Anh qua ngủ với ba, giường còn lại để sư cô ngủ và bé Hoàng được ngủ với sư cô.

Đêm hôm ấy Đà Nẵng đang giữa mùa xuân có khí trời mát rượi, làm cho mọi người trong gia đình ông bác ai cũng đi vào giấc ngủ ngon lành, an bình. Riêng bé Hoàng không ngủ, nằm im nghe tâm hồn tỉnh thức. Trong từng giây phút tỉnh ngủ ấy đến gần sáng, bé Hoàng lại thấy mình có ngủ, gọi là giấc ngủ về sáng. Giấc ngủ này, tâm tư con người thường đi vào mộng đẹp. Bởi vì thời điểm từ 4 giờ am đến 6 giờ am là của Chư Thiên thức dậy sinh hoạt, trong đó có ăn uống, đúng như trong luật Sa Di, Phật có nói giờ ăn của chư thiên là buổi sáng sớm “chư thiên tảo thực”. Vì thế mà những người tu thiền hay luyện tập cơ thể được khoẻ mạnh, trường sinh luôn thức dậy ngồi thiền, luyện tập hít thở khí trời sáng sớm, là không khí trong lành, tinh khiết.

 

Ý CHÍ XUẤT GIA THỂ HIỆN

Bé Hoàng ngủ và mộng đẹp trong giờ của Chư Thiên sinh hoạt, ngao du sơn thủy trong mộng. Bé Hoàng tỉnh giấc bởi sự động tịnh của sư cô.

Thấy bé Hoàng thức dậy, sư cô khởi lòng thương mến bé Hoàng bằng lời niệm:

- A Di Đà Phật, em có ngủ được không?

Bé Hoàng trịnh trọng trả lời:

- Dạ thưa sư cô, đêm qua con không dám ngủ mà bị ngủ!

- Vì sao thế, hở em?

- Tại vì con sợ con ngủ, con ngáy làm cho sư cô không ngủ được, nên con thức mãi, thức mãi, thức miết, rồi tự nhiên con thấy con ngủ. Trong giấc ngủ nho nhỏ ấy, con nằm thấy một điềm chiêm bao rất là lạ. Con thấy con đi với một sư cô, đi đến một nơi xa lắm, ở đó có những con đường đầy hoa lá, cỏ cây xanh biếc, đồi núi cũng có hoa cỏ đủ thứ, hoa xanh, vàng, đỏ, tím. Trong lúc đi như vậy, sư cô và con đều đi một cách vững chãi, nhưng riêng con thấy mệt, mệt lắm. Bỗng sư cô đó dừng lại nơi một công viên thật đẹp, con cũng dừng luôn. Rồi sư cô nằm nghỉ, con cũng nằm nghỉ gần sư cô. Lúc đó con thấy con mặc quần áo khác, không giống quần áo mà con đang mặc đây.

Sư cô không bình luận gì cái mộng đẹp của bé Hoàng cả, sư cô chỉ hỏi:

- Rứa, em muốn đi tu không?

- Dạ muốn! Lời đáp của bé Hoàng.

Lời đáp muốn đi tu liền của bé Hoàng, nghe qua tưởng như bé đã rành rẽ lắm về Đạo Phật, biết về Đức Phật, thấy Đạo Phật là con đường giải thoát, v.v… Làm sao có thể biết được Đạo Phật là gì, đi tu ra sao… đối với một cô bé như bé Hoàng. Nhưng lời đáp gọn “dạ muốn” ấy, nếu không nói là lời đáp của hạt giống phước trí vô lậu, từ trong nội thức a-lại-da phát ra, cũng được gọi là lời nhắc nhở của Bồ Tát Văn Thù, nhắc bé Hoàng phải theo nghiệp Phật đạo của Sư cô, là đem dòng suối pháp của Phật vào thế gian, để cho người đời tỉnh thức bỏ ác, hành thiện mà hết khổ, được vui và giải thoát sinh tử.

Rõ thực sau lời đáp gọn “dạ muốn” của bé Hoàng, sư cô hỏi lại lần nữa:

- Em thích đi tu, thật hả?

- Dạ, con muốn đi ngay liền bây giờ nè!

Sư cô mỉm cười hoan hỷ, như thể thọ ký cho sở nguyện của bé, nhưng đâu phải dễ mà đi liền được! Việc gì trên đời này đều phải được hội đủ các thiện duyên mới thành, đúng theo quy luật tương duyên, cho nên Sư cô nói khẽ:

- Em ơi! Chưa đi được liền bây giờ. Cô sẽ cho em địa chỉ của cô, để sau này hội đủ nhân duyên tốt, chừng đó em gặp cô hoặc là gặp các chư tôn đức Tăng già, Sư bà, Ni sư, Sư cô nào đó ở bất cứ nơi đâu, đều có thể hướng dẫn cho em thực hiện Bồ Đề Tâm của em được thành tựu.

Cuộc hàn huyên tâm sự bỏ túi chớp nhoáng đó giữa Sư cô và bé Hoàng biết với nhau thôi, ông bác, bà bác, các chị trong nhà không ai hay biết gì đến sư cô viết địa chỉ của cô cho bé Hoàng.

Điểm tâm xong, Sư cô nói lời cảm ơn, rồi chào tạm biệt mọi người ra về.

Tiễn chân sư cô ra về lúc đó, không phải là ông bác, bà bác, mà là bé Hoàng vì nhân tiện trên đường về lại nhà ông anh, bà chị để đi học.

Bé Hoàng chào tạm biệt và chia tay Sư cô nơi góc phố, trở về nhà với tâm trạng khác thường, nếu không nói là niềm hân hoan có chủ đề, đang hằng chuyển trên dòng tâm thức của bé, kể từ sau giờ phút chia tay đó và mãi mãi về sau, hình ảnh Sư cô lúc nào cũng hiện hữu trong tâm tư của bé và những nỗi nhớ nhung miên viễn tràn ngập cả tâm hồn, cùng với năng lực thôi thúc khó mà diễn tả được, cứ trùng trùng khởi lên một cách lạ lùng.

Tuệ Đạo tạm nghỉ nói, nhưng lại nói “excuse me!”, rồi bước xuống tầng cấp, nhanh chân tới nhặt mảnh bánh mì lên, quăng mạnh tới đàng xa cho con sóc, đoạn quay lui, trong bước chân trở lại chỗ cũ, vừa đi vừa nói:

- Con sóc nó nhìn đầu hói của Đăng Triệu, nó sợ quá cho đến nỗi làm rơi mảnh bánh mì, mà không dám trở lui, chạy luôn.

- Xem lại, nó sợ anh hay sợ tui? Lời Đăng Triệu hỏi lại.

- Nó sợ anh vì anh là tuổi cọp, thất thập cổ lai, và cũng là kính lão đắc thọ.

Thôi chuyện đó cho qua đi. Bây giờ tôi đố Đăng Triệu cái này. Bé Hoàng đang từng bước tư duy thầm lặng vì nhớ sư cô quá chừng, bé Hoàng sẽ có thêm hành động gì tiếp theo nữa?

- Lại đố nữa! Cũng dễ ợt! Bé Hoàng tư duy trong thầm lặng và nhớ sư cô da diết như vậy, dám bắt chước Thái tử Tất Đạt Đa cỡi ngựa kiền trắc ra đi, vượt sông Anoma ở tương lai đấy! Vì phát Bồ Đề Tâm ở mức độ tối thắng, là năng lực xuất thế theo quy luật không thể ngăn cản được. Qua lời anh kể, tôi tiên đoán như vậy.

 

TỪNG BƯỚC TỚI GẦN PHẬT

- Ồ! đúng rồi. Xuất thế theo sư cô thì chưa thấy gì, nhưng thấy được bé Hoàng đi từng bước để được gần chùa trước đã. Hèn chi, sau gần hai tuần gặp sư cô, bé Hoàng đã thưa với ba má: “Thưa má, nhà anh chị con đông đúc xe cộ quá à! Còn hàng xóm thì la lối om sòm cả ngày. Ở đó con không học được đâu. Má cho con đến ở nhà ông bác, được không? Vì nhà ông bác gần chùa rất là yên lặng, ở đó con mới học được”. Bà bác tôi rất là thương bé Hoàng, vì là con gái út, giàu út ăn khó út chịu. Thế là, bà già tức tốc đến nhà ông anh bà chị, dẫn bé Hoàng qua nhà ông bác, thưa gởi vài lời:

- Thưa anh chị, năm học này của cháu Hoàng là lớp 9, lớp học thi bằng thành chung, cháu cần có chỗ yên tịnh để học bài. Cháu nói với tôi là chỉ có nhà anh chị mới được yên tịnh thôi. Nên hôm nay tôi thay mặt ông nhà tôi, đến xin anh chị cho cháu được tá túc để học bài.

- Dạ được! Tưởng việc gì quan trọng, chứ việc bé Hoàng ở với chúng tôi, chúng tôi rất vui mừng, muốn cháu ở đây luôn là đằng khác. Bởi vì có cháu ở đây, không khí sinh hoạt gia đình được vui nhộn thêm do cháu ca hát, vẽ tranh, vẽ cảnh và có thể đi tụng kinh với tôi nữa đó.

Lời ông bác nói thế mà thiêng, bé Hoàng ở mới hơn tháng, trời mưa và bão kéo dài cả tuần, gây ra ngập lụt, nước lũ làm hư hại nhà cửa, hoa màu, người chết khắp nơi. Sau nước rút, người dân lại bị chết bởi bệnh dịch.

Trước hoàn cảnh người dân chết chóc, bịnh dịch ấy, ông bác mặc dù người Tàu, giáo sư trường Tàu, nhưng tụng kinh bằng tiếng Việt thật hay, thật thiền vị, nên bác tự nguyện đến các nhà tụng kinh cầu siêu, cầu an suốt cả tháng chưa hết. Bé Hoàng tình nguyện đi theo bác tụng kinh, dù chưa rành rẽ, nhưng rất hăng say tích cực không bỏ bữa nào.

Thấy bé Hoàng theo tụng kinh hăng say, bác hỏi:

- Tại sao cháu thích đi theo bác tụng kinh hoài hoài, không bỏ bữa nào vậy?

- Bởi vì con nghe bác nói cầu an cho người bịnh, người ấy hết bịnh, cầu siêu cho người chết, hương linh người ấy được siêu sanh cực lạc, vì thế mà con thích đi theo bác để tụng kinh cho họ.

Nghe cháu mình nói với tấm lòng lợi tha cho người, ông bác liền thốt lên lời:

- Bác thấy tấm lòng Phật của con, mà tức cho hai con của bác, chừng đó tuổi mà không bước chân đến chùa một lần! Chúng không biết chùa, Phật là gì! Bác chỉ cần hai đứa nó giống con một phần về Phật thôi, là bác vui mừng rồi.

- Nãy giờ Đăng Triệu có thấy bé Hoàng đang đi tới bước nào rồi, vào chánh điện chưa?

- Chưa! Lời xác định của Đăng Triệu.

- Sau đây là những bước vào chánh điện của bé Hoàng:

Bé Hoàng theo bác cả tháng chỉ là đi tụng kinh thôi, vì bác đâu có cơ hội nào đến chùa. Một hôm bên chùa có lễ Phật đản. Bé Hoàng theo hai bác qua chùa đúng vào giờ thầy trụ trì thuyết pháp về Đức Phật. Bé Hoàng nghe thầy lập lại lời Phật nói “Tất cả chúng sinh ai cũng có Phật tánh. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”. Thầy nói thêm “Đức Phật là Phật đã thành. Chúng ta là Phật sẽ thành”.

Bé Hoàng nghe xong lời Phật khẳng định ai cũng sẽ được thành Phật, tâm bé Hoàng liền thấy ngay con người theo đạo Thiên chúa Jesus, ai cũng chỉ được thành con cừu không thể thành chúa được. Đệ tử của chúa toàn là cừu được các Linh mục chăn, gọi là người chăn chiên. Chiên là con cừu. Bé Hoàng thấy người ta theo Đạo Chúa Jesus, không có ai được thành chúa, chỉ thành chiên, là lúc bé Hoàng học tại trường Sao Mai, trường Thiên Chúa Giáo. Học tại trường Đạo Chúa, tất cả học sinh chỉ cần có mặt trong giờ giáo lý, đều được số điểm maximum là 16, được cộng với 16 điểm môn công dân.

Còn người theo đạo Phật ai cũng được thành Phật, được ngang hàng với Phật. Bé Hoàng cảm thấy thích lắm. Thích hơn nữa, là bé nhìn lên các tượng Phật, Bồ Tát, bé thấy Phật, Bồ Tát sao mà đẹp quá, y áo vàng óng ánh, tai to, môi lúc nào cũng mỉm cười, ngồi trên tòa sen thật trang nghiêm, có cả hào quang sáng rực. Trong  khi đó, bé Hoàng nhìn Đức Chúa Jesus sao mà tội quá, không biết ngài bị tội gì, mà bị người ta đóng đinh tay, chân ngài trên thập tự giá, làm cho ngài bị ngoẻo đầu xuống, thật là tội nghiệp cho ngài quá chừng! Tội gì mà dễ sợ vậy!

Quyến rũ của Đạo Phật đối với trẻ con, là ở hình ảnh văn hoá Phật giáo, đó là tượng Phật, ngôi chùa, chư Tăng Ni. Đối với người lớn là lời giáo lý Phật. Nhưng với bé Hoàng, Đạo Phật quyến rũ bé cả hai, hình ảnh văn hoá (chùa chiền, tượng Phật, chư Tăng Ni) và lời giáo lý Phật. Bé mới chỉ nghe câu “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”, do vì chúng sanh ai cũng có Phật tánh, mà bé đã khởi lòng quay về Đạo Phật được thấy qua nhiều bước và sẽ còn nhiều bước kế tiếp có giá trị ngàn vàng, đúng là bé vốn có phước trí vô lậu, nên chi bé tiếp nhận Đạo pháp rất nhanh một cách liên tục theo từng bước không dừng lại.

Rõ ràng mới hôm nào theo bác qua chùa ngày Phật đản, hôm sau bé đã muốn qua nữa, bé liền có lời rủ bà chị:

- Chị Hường, chị đi với em qua chùa chơi?

- Thôi đi, đừng qua đó. Bên đó có gì vui đâu mà qua, buồn tênh, chỉ có tượng Phật ngồi im trên bàn, còn các ông thầy lúc nào cũng nghiêm nghị. Ở nhà mở nhạc ra, nghe còn vui hơn!

- Nhưng mà em muốn đi!

- Rồi, em muốn đi, một mình em đi, chị không đi đâu!

Bé Hoàng tự mình qua chùa. Gặp các thầy, bé cúi đầu chào, đi vào chánh điện lạy Phật, đến từng tượng Phật, Bồ Tát đưa mắt nhìn lên một hồi, ra nhàTăng, bé nhìn lên dãy bàn, trên đó có một vài món ăn và cơm được dọn sẵn, chỉ chờ các thầy ngồi vào ăn nữa thôi, vì giờ độ ngọ đang đến lúc 12 giờ trưa.

Sau cái nhìn tổng thể các món trên bàn, bé Hoàng nói trong lòng các thức ăn sao chỉ toàn là rau, bí, nước tương không thôi, không có thịt cá gì cả! Vì bé Hoàng chưa biết chay là gì, chưa hề ăn thường xuyên. Bé liền khởi lên tâm cúng dường, đi lẹ về nhà lấy tiền, qua liền, đến chị công quả đang làm việc trong nhà trù, bé đưa tiền cho chị và nói:

- Cô ơi! Cháu đưa tiền cho cô nè, cô mua nhiều thức ăn ngon để cho các thầy ăn nha!

Chị công quả cầm tiền vào tay, nhìn bé Hoàng, chị hỏi:

- Cháu là con ai, ở đâu mà dễ thương quá vậy? Cháu còn nhỏ mà cháu đã biết cúng dường chư Tăng rồi! Thật dễ thương ghê đi!

- Cháu là cháu ông bác ở gần bên chùa.

Năm học lớp tám đã qua, mùa hoa phượng đến, hoa nở đỏ rợp phố phường, tiếng ve sầu rên rỉ như tiếng cười rúc rích, mà trong lòng man mác buồn của các nữ sinh ở trọ lúc chia tay nhau về lại mái ấm gia đình, nhưng riêng bé Hoàng không chịu về lại nhà ba má, trở lại ở luôn bên nhà ông bác đi học hè. Mặc dù tâm tư ba má, anh chị của bé mong bé về để cho tình thương từ lâu bị khô héo, nay có dịp nhờ hoa phượng nở, được nở như hoa phượng khi đôi tay vuốt lên tóc bé, nghe tiếng bé ca, ngồi bên bé, chăm sóc vật chất cho bé, vân vân…, nhưng bé Hoàng cứ nằng nặc muốn lên ở luôn bên nhà bác suốt mùa hè.

Thật sự bé muốn ở luôn trên bác, là nhằm mục đích được gần chùa để qua chùa tụng kinh, vì bé Hoàng thích chùa, thương Phật, thương Tăng, thích tụng kinh lắm. Âu cũng là một định nghiệp! Định nghiệp Đạo pháp là kim cương trí tuệ, không có gì lay chuyển được, thế nào rồi cũng đến ngôi vị Phật Đà. Không ai ngăn cản nỗi, phải ra đi đến Phật Đà, như Thái tử Santideva đã ra đi đến tu viện Nalanda trước ngày giờ lên nhậm chức vương quyền vào sáng mai theo lệnh vua cha.

Trường hợp của bé Hoàng không chịu ở lại nhà, muốn lên ở nhà bác để qua chùa tụng kinh, được tương tợ như sự ra đi của Thái tử Santideva, không chịu làm vua chỉ muốn vào tu viện tu. Mặc dù nơi gặp Phật của bé Hoàng là ngôi chùa nho nhỏ thôi, nhưng giá trị xuất thế gian rất tối thượng, được xuất phát từ nơi tâm vốn có phước trí vô lậu.

Đúng ngay định nghiệp không chạy đâu khỏi, bé Hoàng mới lên ở lại nhà bác được vài hôm, bé đã qua chùa sau ngày giờ học hè. Khi đi một mình, có khi rủ các chị, các bà ở gần thường qua chùa làm công quả. Rủ hai ba người cùng qua chùa vì bé Hoàng muốn tụng kinh. Do vậy có lần, bé Hoàng rủ một lần cả hai chị làm công quả vào chánh điện, bé Hoàng nói:

- Em muốn tụng kinh lắm, mà không biết làm sao tụng! Vậy hai chị vô tụng với em đi!

Hai chị bằng lòng, đi lấy áo tràng, còn bé không có áo tràng. Thế là sau khi đốt đèn, thắp hương xong, hai chị đánh mõ, đánh chuông, tấn bé Hoàng đứng giữa làm chủ lễ.

 

BÉ HOÀNG TỤNG KINH

Bé Hoàng bắt chước ông bác, lấy cuốn nghi thức ra, lật qua lật lại. Chị bên chuông nói nhỏ “hãy lật trang cầu an”. Từ đó bé Hoàng đọc và đọc, chị đánh mõ cứ đánh, chị bên chuông đánh chuông lâu lâu một tiếng. Lúc đầu đọc đúng theo mõ, lần lần mõ đi đường mõ, bé đọc theo đường bé, làm cho chị bên chuông phải nhịp nhịp tiếng chuông, ra hiệu cho mõ đánh lại chầm chậm.

Đọc đến cuối nghi cầu an rồi, bé Hoàng định tụng tiếp. Chị bên chuông nhắc nhỏ “đọc tự quy y, tự quy y và đọc hồi hướng”.

Xong buổi lễ cầu an, hai chị chuông mõ tỏ lời khen:

- Chao ôi! Em nhỏ mà em làm chủ lễ thật là hay, còn hai chị đánh mõ, chuông mỏi cả tay vậy đó.

Cả hai chị đến nắm tay bé, vò vò trên đầu bé rồi nói: “Con gái mà như con trai, hèn chi thích tụng kinh là phải!”

Nghe hai chị khen, bé Hoàng nhanh miệng:

- Ngày mai hai chị đến đây tụng kinh với em nữa nha!

Tâm con người dù ở tuổi ấu niên, thiếu niên, thanh niên hay cao niên, một khi được chất chứa điều gì gọi là ý nghiệp, điều ấy được tâm nuôi dưỡng phát triển, càng lúc càng lớn lên liên tục không ngừng nghỉ, gọi là tâm hằng chuyển, nếu không nói là luôn tư duy, thao thức về sự việc nào đó.

Sự việc mà bé Hoàng thao thức, không gì khác hơn, đó là chùa, Phật, thầy, tụng kinh và kể cả mong ước thành Tăng, Tăng nam hay nữ đều cùng một nghĩa là Tăng. Từ Tăng mong thành Phật.

Những điều bé Hoàng thao thức được gọi chung là Đạo pháp. Như vậy theo Đăng Triệu thấy điều nào bé Hoàng thao thức quan tâm nhất trong thực tại?

- Thầy và tụng kinh là hai thứ được có trong tầm tay của bé, đúng khả năng của bé.

- Đúng vậy! Sau lần tụng kinh với hai chị công quả, bé qua chùa xin phép thầy trụ trì vào lạy Phật, sau đó bé lấy kinh Nhật Tụng, mõ nhỏ, chuông nhỏ, rồi ngồi trước bàn kinh, bé tự tụng nghi thức sám hối. Tụng và tụng không lạy các danh hiệu Phật, vì bé đâu biết là nghi Sám hối! Tụng cho đến khi mỏi miệng, hết kinh rồi nghỉ, lạy Phật, đi ra.

Ra khỏi chánh điện, bé chưa về nhà đâu, bé đi quan sát bà dì vãi làm bếp ở nhà trù (bếp), sau đó nhìn các món ăn chay trên bàn nhà tăng, bé hỏi dì vãi sao chỉ có món gốc cải kho với võ chuối sứ và tương cục đen thui, còn cơm thì hẩm có trộn với khoai lang khô. Dì vãi nói “chùa nghèo lắm không làm gì ra tiền, bổn đạo nhiều người nghèo, đa số đi làm thuê.”

Bé Hoàng nghe vậy, lòng thầm quyết định không ăn món bánh bé thích nhất, đó là bánh cuốn, dành tiền cúng dường cho các thầy để mua thức ăn chay ngon hơn.

Từ đó bé Hoàng vắng bóng bà bánh cuốn gần cả năm, do đó tình cờ một hôm bé Hoàng đi ngang qua, bà liền réo gọi ơi ới:

- Bé Hoàng ơi, lại đây bác nói này nghe.

Bé biết thế nào bà cũng hỏi lý do sao không ăn bánh cuốn nữa, vừa tới bé Hoàng nói ngay:

- Cháu không còn tiền nữa để ăn bánh của bác, bác ơi!

- Cháu không còn tiền, ai còn tiền đây!

- Cháu không còn tiền, là tại vì cháu dành để cho các thầy mua thức ăn, chứ các thầy không có chi ăn cả! Lời bé điều trần trước bà bánh cuốn.

- Nếu quả thật như vậy, đó là phước đức lớn đó cháu.

 

BÉ HOÀNG QUYẾT CHÍ XUẤT GIA

Mặc dù tấm thân ngũ uẩn của bé Hoàng, ngày hai buổi đến trường học tập các môn lớp 9 rất xuất sắc, sinh hoạt thanh niên, văn hóa rất sinh động, nhưng những hình ảnh ngôi chùa, Đức Phật, Tăng bảo và kinh tạng. Những hình ảnh Đạo pháp ấy không mất, cứ luôn hằng chuyển trong tâm thức bé, chính là năng lực xuất trần quá mạnh phát ra thành lời, nên một hôm nọ, bé Hoàng lân la bên bà má thỏ thẻ nói:

- Má! Con muốn đi tu quá, má cho con đi nha má?

- Không được, không được, con phải đi học. Năm nay là năm con thi bằng thành chung (trung học cấp một). Sau trung học cấp một, con phải học lên cấp hai, rồi thi cả hai bằng tú tài một và hai. Kế tiếp con phải học bác sĩ đúng theo lòng của ba má, anh chị con mong muốn.

Bé Hoàng im lặng không nói gì, trở về lại nhà bác và đi học như thường lệ vào ngày thứ hai. Bé Hoàng về lại gia đình vào ngày chủ nhật đến. Rồi cũng lại lân la bên cạnh bà má ngỏ lời khe khẽ:

- Má! Con muốn đi tu quá mà à! Má cho con đi nha má?

Lần này bà má hơi giận, nói lớn:

- Má nói dứt khoát rồi đó, không đi đâu hết, ở nhà học, còn con nít không đi tu được đâu!

Mấy bà chị đứng đâu đó nghe bà má nói chuyện bé Hoàng đòi đi tu, xúm nhau lại, bà này nói “tu hú”, bà kia nói “đi tu buồn lắm, ở nhà đi học, sau làm bác sĩ được có nhà cửa, xe cộ, giàu sang phú quý, vui hơn, em ơi!”.

Bé Hoàng nhất quyết giữ vững lập trường đi tu, không bị lay động trước lời nói về tiền tài, giàu sang, chức tước, danh vọng cuộc đời từ lời nói của các bà chị. Năng lực quyết tâm xuất trần ấy lại tiếp tục xảy ra tại gia đình vào chủ nhật tới. Lần này các bà chị đổi chiến thuật, là tấn công bé Hoàng tới tấp bằng lời nói, đi đôi với hành động. Chị năm vừa nói “tu hú, tu hú” với âm thanh nghiến răng cùng với hai ngón tay cái, tay trỏ véo má bé Hoàng. Chị sáu vừa nói to “tu hả, tu hả” cùng với nắm tay chọi lia lịa trên đầu bé Hoàng. Chị bảy thì đến xỉa xỉa hai ba cái lên trán bé Hoàng với lời nói “tu hú, tu hú…”, làm cho bé Hoàng phải cúi đầu, nép mình vào vách chịu trận. Còn bà má thì ngồi nơi ghế chân trên, chân dưới, gác hai tay chéo nhau trên đầu gối trong im lặng, đưa mắt nhìn vời vợi ra xa.

Bé Hoàng tiếp tục đi học một cách tinh tấn, chuyên cần như thường lệ, không có nét âu sầu, ưu tư trên đôi mắt; nhưng những hình ảnh Sư cô, địa chỉ Sư cô, lực nao nức muốn đi tu, đi bằng cách nào, làm sao đi, thưa má đi, trốn đi…, được xen kẽ lúc học bài, làm bài, viết bài học dùm thầy trên bảng và trên đường đi học về, vân vân…

Nỗi lòng bâng khuâng nhất của bé Hoàng lúc bấy giờ là đường đi, nước bước, đi bằng gì, cách nào. Mà đối tượng đến là sư cô ở Huế, nơi bé Hoàng chưa một lần đặt chân đến Huế, do vậy trong giờ học ở lớp, thỉnh thoảng bé mở cặp ra he hé dưới hộc bàn, rồi nhìn vào tờ giấy có viết địa chỉ của sư cô đến những ba bốn lần giữa giờ học và kể cả giờ ra chơi, bé Hoàng ngồi lại để đọc địa chỉ ấy.

Trước trạng thái của bé Hoàng nhìn vào tờ giấy địa chỉ của sư cô một cách len lén như vậy, làm cho các bạn gái của bé ngồi bên và phía sau nhìn thấy, sanh lòng nghi bé Hoàng đọc thư tình của anh chàng nào đó. Vì thế, thừa lúc bé Hoàng lên viết bảng bài học dùm thầy, cô bé tên Duyên ngồi bên, lục cặp của bé để xem có phải bé Hoàng đọc thư tình hay đọc gì. Chẳng may bị bé Hoàng phát hiện khi viết bảng xong, trở về chỗ ngồi, cô bé Duyên không kịp đóng cặp lại. Bé Hoàng liền hỏi:

- Ê! Sao bạn lục cặp táp tôi, chi vậy?

- Tại vì tôi và các bạn phía sau nghi bạn đọc thư tình của anh chàng nào đó gởi, nên tôi lục để xem có đúng không! Té ra không phải là thư, đó là tờ giấy có viết địa chỉ chùa sư cô ở Huế. Xin lỗi bồ nhé!

Không những bé Hoàng viết địa chỉ Sư cô một tờ giấy cất trong cặp táp, mà viết nhiều tờ như vậy, rồi bỏ ở các nơi trong nhà bác, tại nhà mình, dự trù bị mất chỗ này được còn chỗ khác. Vì địa chỉ của Sư cô là nơi phải đến để được tu, được thành Phật ở tương lai, chúng sanh là Phật sẽ thành. Bé đã thuộc nằm lòng câu ấy, thì nhất định phải ra đi thôi.

Khi lòng quyết chí đi như vậy, đôi lúc bé có tự nói thầm: tại sao mình muốn đi như thế này! Đi xa má thương nhớ má lắm! Mình đi mình bỏ má ở lại nhà, má mình sẽ nhớ mình sao!

Sau ý nghĩ thương mẹ đó, bé Hoàng muốn xé địa chỉ Sư cô, nhưng khi lòng muốn xé địa chỉ, thì tay muốn viết thêm nhiều tờ giấy địa chỉ để bỏ chỗ này, chỗ kia để khỏi bị thất lạc.

Giây phút muốn xé địa chỉ, rồi tay lại muốn viết địa chỉ, chính là năng lực quyết định đi tu. Đúng thật như vậy, bé Hoàng đã nói với hai bạn chí thân Kiên và Mai một cách dứt khóat, là phải đi tu. Tại sao không nói với các bạn khác, mà lại nói với Kiên và Mai? Tại vì Kiên, Mai là Phật giáo, dễ bàn chuyện đi tu và được lợi thế, là hai bạn đó lớn tuổi hơn Hoàng. Mai lớn hơn Hoàng 3 tuổi, Kiên lớn hơn Hoàng 4 tuổi. Sở dĩ ba đứa học cùng lớp, là vì Hoàng học trước, còn hai bạn Kiên Mai học sau. Do vì lớn tuổi hơn Hoàng, hai bạn ấy lanh trí, biết nhiều việc ở trường, nên Hoàng đưa tiền Kiên, nhờ mua sắm dùm áo quần, giày dép riêng cho người nữ tu Phật giáo.

Đáp ứng theo lời yêu cầu của Hoàng, Kiên ra tiệm may Hà Nội đóng một bộ vét tông con gái và một đôi giày cure màu nâu. Còn Mai lo việc mua vé xe đò đi Huế, nước uống, bánh mì, vân vân…

Nghe Tuệ Đạo kể đến bé Kiên đi đóng cho bé Hoàng một bộ vét tông và giày cure để đi tu làm sư cô trong chùa, Đăng Triệu bật cười ha ha ha, vỗ tay lên đầu gối, ngả nghiêng đầu qua lại, rồi nói:

- Trời thần đất lở ơi! Con bé Kiên nó đi đóng vét tông và giày cure cho bé Hoàng đi thăm tổng thống Bush ở tòa Bạch Ốc, chứ không phải để vô chùa tu làm sư cô!

Tiếng cười, lời nói Đăng Triệu vừa dứt, Tuệ Đạo cũng cười ngất lên rung rinh cả người, đoạn nói:

- Ba cô non choẹt, hỷ mũi chưa sạch, làm sao biết sư cô mặc áo gì, nên may vét tông thôi! Vì tưởng rằng các sư cô thuộc giai cấp như quan quyền.

 

BÉ HOÀNG TRỐN GIA ĐÌNH ĐI TU BỊ CHƯỚNG DUYÊN

Đăng Triệu biết không, hai đứa Mai Kiên đã sắp xếp cho bé Hoàng lên xe đò Huế vào sáng thứ hai, nhưng bị chướng duyên đến tới tấp hai ba việc, đâu có đi được!

Sáng thứ hai hôm ấy, tất cả xe ở các bến không chạy vì đình công bãi thị. Hai đứa Kiên Mai dẫn bé Hoàng đi tạm trú vào khách sạn. Với tình bạn sắt son, Kiên và Mai phân công nhau đứa ở, đứa về mua thêm thức ăn, nước uống, rồi cùng ở bên Hoàng suốt thời gian ở khách sạn.

Tại nhà ông bác, mọi người trong nhà không thấy bé Hoàng đi về buổi trưa. Chiều đến cũng không thấy về. Cả nhà dọn cơm chiều lúc 7 giờ, ai cũng ngồi đợi, đợi mãi chẳng thấy bé Hoàng về. Ông bác tức tốc cỡi xe đến ba má Hoàng, bước vô nhà không đợi gặp ai cả, bác hỏi lớn ra giữa lúc mọi người đang dùng cơm tối, bác hỏi:

- Từ sáng đến giờ, cháu Hoàng nó có về đây không?

Ba Hoàng trả lời:

- Dạ không, thưa anh, có chuyện gì không anh?

- Chuyện gì chưa thấy chuyện chi! Chỉ thấy cháu đi học mà không về nhà cả hai buổi sáng chiều nay. Không biết lý do nào không về, tôi đến cho chú thím biết như vậy để đi tìm cháu. Tôi cũng sẽ đi tìm cháu tối nay. Thôi vậy hả, chào chú thím và các cháu tôi về.

Từ lúc ông bác ra khỏi cửa, mọi người nơi bàn ăn, ăn trong trạng thái im lặng đáng sợ và thẩn thờ, như không nuốt nỗi miếng cơm vào bụng. Bữa ăn được rút ngắn thời gian lại, bà má ăn xong trước nhất, tiếp đến là ông ba, rồi các chị lần lượt hết ăn.

Ba má bỏ đũa xuống, đến bàn uống vội ngụm nước trà, bà ra lệnh:

- Con năm, con sáu, hai đứa đi ngay đến nhà con Kiên, Mai để xem có em nó chơi đó không. Chén bát để đó cho má dọn dẹp. Nếu gặp được em, dẫn nó về đây cho ba má hỏi tội nó.

Hai chị năm, sáu lấy xe gắn máy chở nhau đến nhà bé Mai, không gặp bé Mai, được anh bé Mai cho biết Mai đi chơi với bé Kiên. Hai chị lại đến nhà bé Kiên, không gặp được bé Kiên, nhưng được má Kiên điềm chỉ cho, là Kiên và Mai mới ra khỏi nhà cách đây mười phút, nghe hai đứa nói đến khách sạn Bạch Đằng gặp ai đó.

Thế là hai chị chạy đến khách sạn Bạch Đằng, vào hỏi người thư ký. Được ông thư ký cho biết có ba cô bé đến đây thuê phòng vào buổi sáng, hiện đang có mặt ở phòng 10. Đúng là số bù. Bù thật, bị hai chị vào phòng, bắt được tại trận ba cô bé đang ngồi ăn bánh mì với chuối sứ.

Thấy hai chị xuất hiện, ba cô bé, mặt đứa nào đứa nấy tái xanh, thấy đất lăn quay, thấy hai ba ông trời trước mặt, ngậm miệng nhìn nhau. Thấy vậy, chị năm bảo ba đứa ăn cho hết bánh đi, ăn xong chị tính chuyện, nhưng không bé nào có thể ăn tiếp được, nuốt nhẹ miếng bánh dở dang trong miệng, đưa tay gói số bánh còn lại vào giấy báo trong trạng thái riu ríu.

Chị năm nói:

- Hai đứa Kiên Mai nên về nhà ngay bây giờ. Còn em Hoàng theo chị sáu đi xích lô về nhà. Tất cả quần áo, các thứ đưa đây chị cho vào bọt ba ga xe gắn máy.

Khi cầm đến quần áo, chị năm nói lớn:

- Trời đất quỷ thần, đi tu Sư cô sao lại đem theo bộ vét tông và giày cure! Tu kiểu này là tu theo bà sơ ở nhà thờ. Vậy thì chị sáu mày, cầm luôn đôi giày và bộ vét tông, chứ không bỏ vào bọt ba ga xe gắn máy được.

Tâm trạng bé Hoàng ngồi xích lô với chị sáu trên đường về nhà, hoàn toàn chỉ nghĩ về thân phận mình, thấy mình là kẻ có tội rất lớn, tội trốn gia đình đi tu. Rồi thấy những hình thái sẽ đến với mình, nào là ba ngồi im không nói, mắt nhìn ra ngoài trời đang tối trong tư lự, má ngồi khoanh tay nhìn mình rơi lệ, các chị xúm nhau nguyền rủa không ngớt lời và có thể bị roi quất vào thân từ các bàn tay thương em của các bà chị.

Sau những ý nghĩ tự kiểm mình là kẻ có tội lớn, bé Hoàng khởi lên ý niệm đánh liều mặc kệ, thôi thì ráng mà chịu, tới đâu tới, biết nói sao bây giờ!

Đang miên man ý nghĩ ấy, tâm tư bé Hoàng trở về thực tại bởi tiếng thắng cót kẹt dừng lại của xích lô, bé Hoàng thấy ngôi nhà thân yêu của mình hiện ra trước mặt. Liền một thoáng tư tưởng trách móc con đường và thời gian sao không dài thêm cho chút nữa, sau đó im bặt, thay vào đó nỗi hồi hộp đang lan rộng khắp cơ thể, làm cho bước đi không vững chãi, cảm thấy gập ghềnh trên lối đi quen thuộc của thuở nào. Bé Hoàng vào nhà, ngồi im trên ghế, tâm tư sẵn sàng đợi chờ đón nhận tất cả những gì mà bé đã nghĩ. Những gì bé đã nghĩ, lại không đến với bé, không gian vẫn tiếp tục im lặng qua từng phút giây. Nếu không nói là mọi người trong nhà cố tình tạo ra không gian im lặng ấy để trừng phạt bé Hoàng, nhưng bé Hoàng nghĩ rằng đòn roi và lời nguyền rủa sẽ đến, chứ không phải là không đến. Đang trong ý nghĩ ấy, bỗng có tiếng người nói:

- Minh Hoàng, ba đây! Con hãy đi rửa mặt, thay quần áo, ăn cơm, đi ngủ, sáng mai lên nhà bác đi học, việc gì còn có đó. Việc con trốn ba má đi tu đâu phải là tội. Chỉ vì con còn nhỏ, ba má muốn con học hành đỗ đạt bác sĩ trước đã, nên ngăn cản không cho con đi tu là vậy.

Bé Hoàng vẫn tiếp tục ngồi im, nhìn xuống.

Thấy bé Hoàng không nghe lời ba nói, bà má từ ghế bên cạnh, bước tới, nói khẽ:

- Con Hoàng, nghe má nói nè; con đi rửa mặt, ăn cơm, đi ngủ. Nhịn đói và thức khuya sẽ bị đau bệnh, vì con còn tiếp tục đi học vào ngày mai. Con hãy nghe lời má nói.

Bé Hoàng đứng lên, vào nhà tắm độ vài phút, bé đi ra, đi vào phòng, rồi nằm im trong đó suốt qua đêm, có ngủ nhưng giấc ngủ chập chờn, bao nhiêu hình ảnh cũ nào là Sư cô, chùa, Phật, thầy và địa chỉ của Sư cô cứ luôn hiện hữu trong tâm tư của bé.

Sáng ra, bà má bảo chị sáu đi mời ông bác đến nhà. Bà chị mới cỡi xe gắn máy Honda ra đi chừng ba phút, bà má nghe có tiếng xe vespa nổ bình bịch trước nhà, bước ra cửa, gặp ông bác vừa bước vô. Ông bác liền hỏi:

- Nghe cháu Minh Hoàng đi đâu đó, cháu về chưa chị? Tôi lo quá chị ơi! Đêm qua tôi không ngủ được, nằm thao thức mãi về chuyện cháu trốn đi đâu đó.

Bà má hứ một tiếng, kéo ghế mời ông bác:

- Anh ngồi đây, ngồi đây!

Ông bác ngồi xuống ghế im lặng, trong trạng thái mân mê chùm chìa khóa xe trong lòng bàn tay, đưa mắt nhìn bao quanh từng đồ vật trong nhà.

Bà má đem hai tách nước trà sen nóng, bốc mùi hương sen thơm ngát, đặt trên bàn trước mặt ông bác và ông ba cũng vừa mới ngồi vào. Bà nói:

- Trước khi tôi và ba nó nói với anh về chuyện con Hoàng trốn đi tu, chúng tôi mời anh uống trà nóng cho ấm bụng.

Qua vài ngụm nước trà vào miệng, ông bác để tách nước xuống, nhìn bà má với nụ cười như sẵn sàng để nghe.

Bà má nói:

- Chúng tôi tin tưởng anh, đem cháu lên ở với anh, để nhờ anh dạy thêm cho cháu học hành vì anh là thầy giáo dạy trường Tàu và cũng có dạy tiếng Việt, các môn khoa học kỹ thuật khác. Nhưng tại sao anh không chăm sóc cháu cho kỹ dùm chúng tôi, để cho mấy ông thầy chùa, bà thầy chùa dụ dỗ cháu đi tu!

Ông bác nở nụ cười hoan hỷ trong giây lát, rồi nói khe khẽ:

- Anh chị trách tôi cũng đúng thôi, xin nhận lỗi đó, nhưng cái việc bé Hoàng trốn đi tu theo Tăng, Ni là việc ngoài ý muốn của tôi và kể cả chú thím nữa, làm sao biết được ý tưởng của cháu mà ngăn cản, vì nó thuộc về hệ tư tưởng, tinh thần. Sanh con ai dễ sanh lòng, làm sao biết được trong lòng ruột dưa! Thật tình mà nói, tôi hoàn toàn không hay biết gì đến lời hàn huyên tâm sự giữa bé Hoàng và Sư cô vào buổi sáng hôm ấy, trước khi Sư cô ra về.

Theo chỗ hiểu biết nông cạn của tôi, tôi thấy cháu Hoàng vốn sẵn có Bồ Đề tâm rộng lớn rồi, nên vừa mới bắt gặp duyên Phật pháp là sư cô, cháu liền muốn đi tu ngay một cách mau lẹ, y như tim đèn đã có dầu, gặp lửa liền cháy sáng lên. Như vậy làm sao ngăn cản được, thổi tắt được, vì là lửa tam muội sáng ngời muôn đời.

Cháu sẵn có Bồ Đề tâm, nên muốn đi tu, chú thím cho cháu đi tu, đó là một thứ phước đức vô lậu rất lớn, không ai dễ mà có được, điều đó đang có ở cháu, mà không cho cháu đi tu là uổng lắm. Tu là cõi phúc tình là dây oan!

Một ngày đã qua, đêm lại về, bé Hoàng vẫn nằm im trong phòng, bà má, ông ba và các chị vào năn nỉ, cũng chẳng chịu ra ăn uống.

Nói đến đây, Tuệ Đạo ngưng, nhìn qua Đăng Triệu nói lời đố:

- Đố Đăng Triệu bé Hoàng có ra khỏi phòng hay không?

- Bé Hoàng không ra, vì yêu sách bắt bà má phải cho bé đi tu.

- Bé Hoàng có ra, ra một cách mau lẹ.

- Bằng cách nào làm cho bé ra?

- Chết!

- Ai chết?

- Bà má chết, nhưng chết giả do tức quá lên máu ở tim làm khó thở, tay chân bị lạnh, miệng ngậm cứng.

Nghe cả nhà tri hô lên, kêu mọi người cấp cứu, bé Hoàng từ trong phòng chạy ra ngay, đứng bên các chị và ông hàng xóm đang xoa bóp dầu nóng, nhỏ nước sả gừng vào miệng, lể máu ở mấy đầu ngón tay. Bà má được tỉnh lại, các chị đỡ bà má lên, đem nằm trên bộ ván. Bé Hoàng đến đứng kề bên khóc thút thít.

- Khóc thì khóc, chứ tâm bé Hoàng cứ hằng chuyển các hình ảnh chùa, Phật, địa chỉ của Sư cô. Lời nhận định ngắn của Đăng Triệu.

Tuệ Đạo liền tiếp lời:

- Đó là nghề của nàng bé con nhà ta. Do cái nghề đó mà làm cho bà già chết giả một trận, cả nhà thất kinh.

Tuệ Đạo kể tiếp:

- Đăng Triệu biết không, đêm qua ngày đến, ngày qua đêm về, mọi sinh hoạt trong gia đình được trở lại bình thường sau khi bắt bé Hoàng về nhà. Riêng bé Hoàng không bình thường, trong đó không đi học do bà chị thứ năm viết đơn xin phép nhà trường, nên được ở nhà một vài hôm thôi, nhưng bé cứ cô đơn một mình trong phòng, không chịu ra ăn cơm, chỉ có uống nước, giống như Tăng Ni tuyệt thực, để đòi hỏi chính quyền Ngô Đình Diệm cho Phật Giáo Việt Nam được tự do hành đạo như Đạo Thiên Chúa vào năm 1963. Bé Hoàng tuyệt thực ở đây là đòi hỏi cha mẹ cho bé được đi tu.

Do nghe nhiều lần lời năn nỉ của mọi người trong gia đình bảo ăn cơm, bé Hoàng đáp lời, ra bàn ăn, nhưng ngồi đó không chịu ăn từ bữa một, bữa hai, bữa ba, làm cho các chị tức quá phải nói lẩy “nó không ăn mặc kệ nó”, còn bà má nói không ăn thì bà sẽ chết. Nghe má đòi chết, bé Hoàng lựa một món ăn cứng, gắp bỏ vào chén, cho vào miệng nhai, nhai hoài rồi uống nước.

Thời gian bé Hoàng không ăn qua nhiều ngày, chỉ uống nước. Điều đó làm cho cơ thể bị gầy ốm đi thôi. Cơ thể con người bị gầy ốm xanh xao dù cho có ăn uống, là do cơ thể bị bệnh hoạn hay do tâm linh bị bịnh sầu khổ, lo âu, cuồng trí…

Tâm linh được có một trí lực sáng suốt, dũng mãnh, tinh tấn hướng về mục tiêu nào đó như hăng say thiền định, Phật sự đa đoan, say mê công việc văn hóa, đấu tranh quyền lợi cho con người, vân vân, dù cho không ăn chỉ uống cả tuần lễ, làm cho cơ thể bị gầy ốm là điều tất yếu, nhưng cơ thể trở nên cứng cáp và khỏe ra.

 

TÂM TƯ BÉ HOÀNG VẪN AN BÌNH TRƯỚC MỌI SỰ CỐ VÀ VẬT CHẤT

Cũng như vậy, trường hợp bé Hoàng không ăn, chỉ uống qua nhiều ngày làm cho cơ thể bé bị gầy đi, nhưng vẫn khỏe, là do tâm linh của bé Hoàng có trí lực Bồ Đề nguyện đi vào mục tiêu xuất thế gian, tức là muốn xuất gia tu hành thành Phật. Qua đây cho ta nhớ lại cơ thể của thái tử Tất Đạt Đa bị ốm gầy, da bọc lấy xương khi tu khổ hạnh dưới cây Bồ Đề do ăn ít, có bữa không ăn, nhưng tâm linh được có một trí lực sáng suốt, dũng mãnh trong thiền định.

Trường hợp cơ thể bé Hoàng cũng tương tợ như cơ thể của thái tử lúc tu khổ hạnh. Chứ cơ thể của bé Hoàng trước đó chưa có trí lực quyết chí đi tu, một khi đói bụng, chưa kịp ăn vào, chân tay bị run rẩy lên, phải lo ăn vào thì hết run.

Trước tình trạng cơ thể bé Hoàng bị gầy ốm, được thấy rõ trên đôi mắt bị vơi đi nét đen tròn, nếu không nói là bớt đi nét xinh đẹp ngây thơ của bé, là nhờ đôi mắt bồ câu tròn xoe đen láy, làm cho mấy bà chị đang có sự nghiệp giàu có do buôn bán các loại xe, khởi tâm lo lắng về sự nghiệp sống của bé Hoàng, nếu đi tu chỉ là giai cấp vô sản, nghèo khổ, không được giàu có như mình, cho nên các chị xúm nhau khuyên bé Hoàng đừng đi tu, dỗ bé Hoàng nên ở nhà học lên bác sĩ, trong lúc đi học như vậy, các chị sẽ mua xe chở khách. Bà chị lớn nói rằng sẽ mua cho hai chiếc xe do giàu hơn trong các bà chị, chị kế sẽ mua nửa chiếc, chị thứ nữa sẽ mua nửa chiếc, vị chi tất cả ba chiếc. Sau lời hứa mua xe, có lời xác định rằng: “xe là xe của bé, các chị chỉ  lo việc điều hành dùm về chuyện xe chạy rước khách, đóng tiền bến, sửa chữa, thu tiền… do các chị đảm trách lo hết. Tiền được lời, sẽ được các chị deposit vào bank, để sau này khi bé ra trường bác sĩ hay ngành nghề nào khác, bé sẽ được có một số vốn lớn, làm nền tảng tiến tới tạo dựng một sản nghiệp lớn, được giàu sang phú quý.”

Lời các chị nói mặc kệ các chị, bé Hoàng mặc nhiên, không quan tâm, coi như pha, tâm vẫn an trú trong chánh niệm, an bình thị đạo qua từng giờ, từng ngày, không có chút thay đổi nào cả, tiếp tục ăn ít, đi đứng nằm ngồi trong trạng thái tịnh lặng và trang nghiêm hướng đến mục đích đi tu cho bằng được.

Trong cái tâm kiên định của bé Hoàng, không còn tâm nào khác hơn, được chứng thực qua các trạng thái không nói, cô đơn thầm lặng, ăn rất ít, cơ thể càng ngày càng ốm. Tất cả hình thái của bé Hoàng như vậy, làm cho bà má đổi chiến thuật chinh phục bé Hoàng theo cách mới, đó là ôm quần áo ra khỏi nhà giữa đêm  khuya, xuống bờ sông Bạch Đằng…

Đăng Triệu nghe đến đó liền tự nói lớn:

- Anh Tuệ Đạo, anh Tuệ Đạo! Bà già ra khỏi nhà đêm khuya, xuống bến Bạch Đằng chi vậy, bộ bà đi tự tử, hả?

- Có thể là vậy! Vì bà bác rất thương con gái út lắm, muốn sau này sống bên cạnh bé Hoàng. Sợ bé đi tu, đi tu là bị cắt đứt tình thương mẹ con, gọi là cắt ái ly thân. Trong khi bà bác chưa rõ người đi tu Phật giáo là người có tình thương cha mẹ hơn ai hết, có tấm lòng đền đáp báo ân sinh thành của song thân hơn ai hết, bằng lời khuyên bảo cha mẹ tu tập Phật pháp, bỏ ác làm thiện là con đường giải thoát sinh tử luân hồi, sau khi xả bỏ báo thân trần thế.

Sau khi các chị phát hiện thấy mất bà má, đi lùng khắp trong nhà không thấy đâu cả, tức tốc vừa báo cho các ông anh ở xa, vừa cỡi xe ra phố chia nhau đi các ngả tìm kiếm không thấy, đến khi tờ mờ sáng bắt gặp bà ngồi nhắm mắt bên bờ sông Bạch Đằng trong trạng thái mệt nhừ. Các chị và ông anh thứ ba xúm nhau lắt tay, rờ ngực, rờ mũi thấy còn thở, gọi lớn tiếng “má ơi, má hỡi”, liền gọi xe xích lô, dìu bà má lên xe về nhà.

Về đến nhà, các anh chị dìu bà già nằm trên bộ ván gỗ gụ, ông ba đi tới đi lui, vừa đi vừa ra lệnh cho các anh chị lấy quạt quạt, hấp khăn nóng lau mặt, bóp chân cho bà má đang nằm nhắm mắt thở thoi thóp trên bộ ván. Các chị vừa làm các động tác theo lời ba dạy bảo, vừa khóc om sòm và nhìn bé Hoàng nói nhiều lời, nào là “em đã giết má”, “má sẽ chết vì em”, ‘em ác quá em thấy chưa”, “em đòi đi tu làm chi để cho má muốn chết”, “má chết đi, chị em mình sống với ai”, “em ơi, em đừng đi tu nữa, em đến nói lớn vào tai má là em đổi ý, em không muốn đi tu nữa, để cho má vui mừng mà sống dậy”, vân vân…, nhưng bé Hoàng vẫn đứng im bên bà má với đôi mắt bồ câu đen láy nhìn xuống rướm lệ ngây thơ, trông xinh đẹp hơn lúc không khóc.

Đăng Triệu cố xen lời:

- Anh Tuệ Đạo ơi! Sau đó bà má được sống không?

- Làm sao chết được, bà mẹ của một con người có phát Bồ Đề tâm muốn xuất gia đi tu, là được chư Bồ Tát, Long Thiên Hộ Pháp đến cứu giúp và tìm cách ngăn cản chớ! Cũng như tạo ra nhân duyên Phật pháp để cho bé Hoàng được toại nguyện xuất gia.

- Như vậy, bé Hoàng sau đó có được xuất gia tu hành không anh?

- Việc đó từ từ, Đăng Triệu sẽ được biết sau, bây giờ hãy nghe tôi kể tiếp. Đăng Triệu biết không, tiếng khóc om sòm của các bà chị và những âm thanh rì rào, hình ảnh lao xao, ra vào của bà con tộc họ đến thăm, giống như nhà có đám ma không bằng! Tất cả hình ảnh, âm thanh ấy đã lan ra, làm cho người hàng xóm bên cạnh, trước và sau lần lượt đến nhà ngỏ lời thăm hỏi. Người này hỏi nhà có ai đau nặng mới đi bệnh viện về hả, người kia hỏi nhà có ai mệnh hệ gì mà nghe tiếng khóc, người nọ hỏi nhà có ai bị bắt lính hả, vân vân…

Tất cả lời thăm hỏi chân tình của mọi người hàng xóm được ông anh trả lời rằng: “cảm ơn bác, chú, cô, dì, anh, chị đã có lời hỏi thăm. Nhà không ai bị chi cả. Chỉ là cái chuyện cỏn con, nhưng xét ra cũng trọng đại, vì quan hệ đến đời sống tâm linh con người. Đó là chuyện của đứa em gái út phát tâm xuất gia tu hành, sống theo đời sống phạm hạnh của Phật, mà bà má không bằng lòng, vì sẽ cảm thấy bị mất đi sức sống hạnh phúc do con gái út ban cho, mặc dù đang có nhiều đứa con lớn bên cạnh, nhưng không bằng hạnh phúc của con út, dù cho đời sống con út bị nghèo khó đi chăng nữa, vẫn hơn hết. Do so sánh qua nhận thức như vậy, bà má tìm đủ mọi cách ngăn cản, nhưng không có hiệu lực trước sức mạnh quyết tâm xuất gia của đứa con gái út, làm cho bà má khởi lòng đi lang thang, là biện pháp cuối cùng, hy vọng có thể khiến cho con mình hồi tâm, hủy bỏ con đường xuất gia. Khi chúng tôi tìm thấy được bà má ngồi trên bờ sông Bạch Đằng, vội vàng đem bà về nhà để chăm lo phục hồi sức khỏe cho bà. Xin chân thành cảm ơn lòng tốt quý vị đã đến thăm má chúng tôi.”

 

CÁC HÀNG TRÍ THỨC ĐẾN ỦNG HỘ BÉ HOÀNG ĐI TU

Không gian trong nhà đang chuyển động rì rào, lao xao, bỗng nhiên trở nên yếu dần, rồi lặng lẽ bởi cái tỉnh giấc, ngồi dậy bưng ly nước uống của bà má. Mọi người tuần tự đến ngỏ lời thăm hỏi, chúc bà má được mau khỏe mạnh. Chẳng bao lâu họ lần lượt nói lời chào ra về. Duy chỉ còn lại bốn người bà con. Một ông lớn hơn ông ba ở nhà ba tuổi, hai bà nhỏ thua bà má hai tuổi, một bà lớn hơn bà má hai tuổi. Mấy người bà con thay nhau đến bên bà má, sau lời thăm hỏi sức khỏe, người nào cũng chụp cơ hội ngỏ lời bênh vực cho bé Hoàng qua một vài tư tưởng Phật học.

Bà thứ nhất ngỏ lời:

- Chị à! Con người nam hay nữ còn nhỏ tuổi mà phát tâm xuất gia đi tu làm Tăng Ni, không phải ai cũng được đâu, người có cội căn Bồ Tát nguyện mới được lận. Trước sau gì người có Bồ Tát nguyện cũng phải trở thành Tăng Ni thôi, gọi là đồng chơn nhập Phật đạo, tu tập Phật pháp và hành Phật đạo vào đời đúng chánh pháp, chánh đạo.

Em xin góp ý với chị, nên để cho cháu Hoàng được đi xuất gia tu hành, vì cháu có Bồ Tát nguyện rồi. Nói về ruột thịt, cháu là con chị; nhưng nói về Bồ Tát, là mượn thân cha mẹ để ra đời hành Bồ Tát đạo cứu khổ chúng sinh. Em được nghe các cao Tăng, Ni giảng luận như vậy đấy.

Bà thứ hai ngỏ lời:

- Thưa chị, theo chỗ em hiểu nông cạn, người con trong gia đình nam hay nữ lúc tuổi còn nhỏ mà phát tâm đi tu làm Tăng Ni; những đứa con đòi đi tu đó, chính là Bồ Tát được chư Phật đưa vào làm con trong gia đình mình. Sau khi quan sát thấy gia đình mình được có đạo đức hiền hòa, đôn hậu, cho nên sinh ra và lớn lên, nhất định phải đi tu làm Tăng Ni thôi. Đi tu, đều phải vào tu viện được học hành đỗ đạt khoa bảng, có chức vị lãnh đạo hoằng hóa độ sinh trong các giáo hội Phật giáo. Em thô thiển mấy lời, xin chị thứ cho!

Bà thứ ba ngỏ lời:

- Em à! Chị nói cho em nghe, em có đến tám người con, mấy đứa lớn ai cũng ăn nên làm ra đỗ đạt khoa bảng, gia thất đề huề, đâu còn sự gì nữa về chuyện không có ai nối dõi dòng giống tông đường! Mà lại không cho cháu đi tu! Em nên để cho cháu làm tròn lòng phát nguyện xuất gia tu hành. Gia đình được có một đứa con đi tu Phật đạo là phước lớn! Theo chỗ chị biết, có một gia đình chỉ có hai đứa con trai, cả hai đều đi xuất gia làm Tăng hết. Cả tộc họ nội ngoại đều vui sướng vô cùng, chả có ai nói lời phàn nàn về chuyện nối dòng nối giống đâu! Chị nói tận lòng như vậy đó, còn em để cho cháu út được đi tu hay không, tùy em.

Người thứ tư, là một ông xin ngỏ lời:

- Anh chị à! Chúng tôi có đến mười một đứa con. Sáu trai gọi là lục tặc phá dữ lắm! Năm gái gọi là ngũ long, nên đứa nào cũng long đong. Tôi chỉ mong một đứa trai hay gái đi chùa lạy Phật, tụng kinh với tôi thôi, tôi cảm thấy vui sướng lắm rồi, mà không có đứa nào chịu đi, huống hồ đi tu, khó lắm! Trong khi anh chị được có một cháu út còn nhỏ tuổi, lại phát tâm xuất gia tu hành như vậy, thật là đại phước. Anh chị nên cho cháu được thỏa nguyện đi tu. Tôi góp ý như vậy, còn việc anh chị cho hay không, tùy anh chị.

Qua lời phát biểu của bốn bà con, bà má có hơi xiêu lòng đôi chút, bà nói:

- Trước hết tôi đại diện ba các cháu và các cháu xin cảm ơn những lời quý báu của ông anh và mấy chị. Thứ nữa, thật lòng mà nói, không phải không cho cháu đi tu. Tôi biết gia đình có người đi xuất gia tu hành là đại phước chớ! Đường tu là cội phúc, đường đời là dây oan, nhưng sở dĩ tôi đem lòng ngăn cản, là nhằm vào mấy mục đích: cháu còn bé quá sẽ làm cho mẹ nhớ thương quay quắt hằng đêm khó ngủ, phải ở nhà để mọi người trong gia đình lo chăm sóc đời sống vật chất và tâm linh thương yêu, cho đến khi khôn lớn, học hành đỗ đạt khoa bảng đâu vào đấy, chừng đó mới để cho cháu được toại nguyện ra đi xuất gia tu hành Phật đạo.

Tuệ Đạo vừa ngưng nói, Đăng Triệu liền hỏi:

- Anh Tuệ Đạo, như lời bà bác phát biểu vừa rồi, theo anh nên để bé Hoàng ở nhà hay cho đi xuất gia lúc còn bé?

- Đăng Triệu muốn biết bé Hoàng nên đi tu lúc nhỏ hay phải ở nhà, qua lời phát biểu của người đàn ông trong nhóm bà con sau đây. Ông ấy nói:

- Dạ thưa chị, đi tu lúc tuổi nhỏ tốt hơn hết, gọi là đồng chơn xuất gia, tức là đang ở tuổi chơn chất, tâm hồn còn trong trắng, nóng bỏng dễ tiếp nhận giáo pháp Phật và sự giáo dục của Tăng Ni trong các tu viện. Rõ ràng, ai đâu xa, ngay nơi bé Hoàng vừa mới gặp sư cô không lâu, tâm ý bé liền phát nguyện đi tu rồi, chị thấy chưa? Đúng câu “dạy con từ thuở lên ba”. Chị nên cho cháu đi tu lúc nhỏ, đừng chờ cháu lớn lên ở tuổi thanh xuân, là tuổi dậy thì đầy nhựa sống tình cảm, chừng ấy e rằng Bồ Đề tâm phát nguyện xuất gia của bé, có thể bị phai nhạt dần bởi những sắc thái lục trần trường đời thế gian.

Chị đừng sợ rằng bé đi tu không được ai chăm sóc vật chất và tình thương yêu. Vì tu viện là một đại gia đình, trong đó được các Tăng, Ni trưởng thượng và các sư huynh chăm sóc rất chu đáo về ăn ở, học hành Phật pháp và văn hóa đời, được đến ngôi vị cao có khoa bảng. Chỉ sợ rằng không có sức để học, chứ đừng sợ rằng không đỗ đạt khoa bảng văn hóa Phật giáo và quốc gia dân tộc. Với bé Hoàng, tôi tin chắc bé dư khả năng đỗ đạt các khoa bảng, kể cả bác sĩ, nhất là khoa bảng Phật giáo, đó là sở học Phật pháp uyên thâm. Từ chỗ này bé sẽ trở nên một bậc đạo sư hiền hòa, đôn hậu, đức độ ở ngôi vị lãnh đạo Phật tử trên vận hành tu học ở mai sau, tại bất cứ nơi đâu.

Lời trình bày của tôi vừa rồi về người đi xuất gia tu hành Phật đạo, phải là người trẻ tuổi, ý tưởng chị thế nào xin cho biết.

- Qua lời ông anh nói nãy giờ, làm cho tôi thấy được người đi tu trong đạo Phật ở tuổi trẻ trong thời đại này không có ép xác như xưa, vẫn được chăm sóc kỹ từ vật chất đến tinh thần, có học hành đỗ đạt khoa bảng, có địa vị lãnh đạo giáo hội sau này. Thôi thì tôi xin tuyên bố ra cho cả nhà và quyến thuộc được biết, từ giờ phút này, tôi bằng lòng để cho bé Hoàng, con gái út chúng tôi, được toại nguyện đi xuất gia tu hành Phật đạo.

- Anh Tuệ Đạo, bà bác bằng lòng cho bé Hoàng đi xuất gia rồi. Như vậy bé Hoàng đi tu ở tu viện nào?

- Tu ở đâu, học hành đỗ đạt thế nào… sẽ được kể tiếp kỳ tới.

- Mình gặp nhau kỳ tới ở chợ hay ở chùa?

- Một khi tâm thức con người luôn an trú trong chánh niệm vô ngã tỉnh thức, thì chùa hay chợ không thành vấn đề. Bây giờ chúng ta vào chào thầy trụ trì ra về.

Hai chàng Tuệ Đạo, Đăng Triệu ra về, mỗi người một chiếc xe nổi tiếng bền chắc cho đến nỗi có dáng điệu già nua ọp ẹp, do vậy phải bò từ từ xuống con dốc hẹp của tu viện có cái lỗ ngang trái, làm cho hai chàng bái lui một cái thật mạnh, rú lên lời than thở, rồi chạy boong boong trên con đường gia cư ngoằn ngoèo trông như hai con trâu con lông xám sau một ngày ăn no, rượt nhau trên đường về chuồng, để lại những làn khói xanh lãng đãng trong bóng nắng da beo trên những cành cây, mặt đất Escondido Cali trong nắng xế mùa hè ngưng gió.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG BA

 

TẦM SƯ HỌC ĐẠO

 

Tuệ Đạo đang xếp hàng trước quày cashier Home Town Buffet, nghe có tay người vỗ trên vai, quay qua thấy Đăng Triệu kế bên, liền nói khe khẽ:

-Hôm nay tôi mời anh ăn trưa.

Lấy xong biên nhận (receipt) hai chàng thanh niên râu đến chỗ các món uống, lấy cà phê, bưng lại ngồi nơi cái bàn trong góc tường.

Mở đầu cuộc hàn huyên có hẹn, hai chàng bàn luận người Việt hải ngoại vừa đọc qua một số báo địa phương.

Luận bàn xong chuyện người Việt, hai chàng tiếp tục đi lấy cà phê, chứ chưa lấy thức ăn, vì cà phê là món uống có năng lực làm tỉnh táo lòng người trong các việc viết lách, kể chuyện…

Ngày xưa,  miếng trầu là đầu câu chuyện, ngày nay, cà phê không những đầu, mà toàn cả câu chuyện dài, ngắn lúc nào cũng có tách cà phê bên cạnh.

Bưng cà phê trở lại bàn, Tuệ Đạo nói:

-Hôm nay câu chuyện bé Minh Hoàng được kể tiếp tục qua nhiều chặng đường khổ vui, chứ không khổ khổ suốt trên vận hành tìm sư học Phật. Với con người nam, nữ, già hay trẻ trong mọi giai cấp, một khi vừa khởi lên ý niệm xuất gia tu hành Phật đạo do có Bồ Đề tâm thật sự, chứ không do hoàn cảnh nào khác, như cao niên muống dấn thân cửa thiền, chán chê tình đời, nhiều lần bị đời bạc đãi…

 

BÉ HOÀNG ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA

Với giới trẻ, tâm tư chưa một lần bị nhúng chàm dục lạc thế gian, thì ngay giờ phút khởi tâm xuất gia học Phật ấy, đã tự trở thành tăng bảo. Tôi muốn nói đến bé Minh Hoàng đã trở thành Tiểu Sa Di Ni sau giờ phút phát tâm xuất gia qua lời hỏi “Em muốn đi tu không” của sư cô đang có mặt tại nhà ông bác trong buổi sớm mai hôm ấy trước khi ra về. Chứ đâu cần gì phải vào chùa làm chú tiểu qua ba cấp khu ô sa di, hình đồng sa di ứng pháp sa di (cấp có thọ giới), mới gọi là sa di, đâu cần mang nhãn hiệu Phật mới là Phật. Nói đến đây, tôi nhớ câu chuyện không cần gặp Phật, vẫn là đệ tử Phật, đó là một chàng thanh niên pukku sati trong thời Phật tại thế, tự cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa xuất gia tu hành ở nơi thanh vắng, do được nghe đến uy danh và đời sống phạm hạnh của Phật, chứ chưa bao giờ gặp Phật. Sau đó được gặp Phật trong sự tình cờ, là cùng ở chung trong căn phòng nhỏ hẹp của xưởng làm đồ gốm vào buổi chiều thu có gió mưa lớn.

Phật thấy chàng thanh niên pukku sati có thân tướng thầy Tỳ kheo của đạo Phật, Phật hỏi vì ai mà thầy xuất gia, chàng thanh niên trả lời rằng: do vì được nghe biết đến uy danh và đời sống phạm hạnh của Phật mà đi xuất gia, mặc dù chưa lần nào được gặp và nghe Phật thuyết pháp. Nhân cơ hội đó, Phật nói pháp cho thầy pukku sati nghe, thầy liền biết là Phật, quỳ lên chấp tay lễ Phật, được Phật dẫn về sinh hoạt với tăng đoàn.

Với bé Minh Hoàng đâu có khác gì với thầy pukku sati kia! Bé chưa lần nào học Phật pháp, chỉ mới được nghe thầy trụ trì bên chùa gần nhà ông bác lập lại lời Phật nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” và nhìn thấy tượng Phật trên bàn sao mà hiền hòa, từ bi quá, có tướng hảo quang minh, trang nghiêm quá… mà bé liền phát tâm đi tu sau đo,ù để được thành Phật. Do vậy, ngay sau giờ phút phát tâm đi tu đó, bé Hoàng đã tự trở thành Sa di trong đạo Phật ở ba cấp khu ô sa di, hình đồng sa di và ứng pháp sa di rồi, chứ không cần do vào chùa hành điệu mới được sa di!

Ba cấp sa di trong Phật giáo được gọi là thầy sa di, nam cũng gọi là thầy, nữ cũng gọi là thầy, mặc dù tuổi nhỏ mới sơ đẳng thôi. Sở dĩ Phật tử gọi là chú (chú tiểu) là cô (nữ) chỉ là tiếng gọi cho có vẻ thân thiện và hàm ý cho rằng; chưa đủ khả năng giảng pháp, nên không gọi thầy, mà gọi cô, chú. Thật sự mới vào tu cấp sa di được gọi là thầy, lên cấp Tỳ kheo cũng gọi là thầy Tỳ kheo, nam nữ gì cũng gọi là thầy hết. Sở dĩ Phật tử gọi thầy, Thượng Tọa, Hòa Thượng đối với chư Tăng, còn đối với Ni thì gọi Sư cô, Ni sư, Sư bà, chỉ là để phân biệt giữa nữ giới và nam giới. Thật sự Tăng hay Ni đều gọi là thầy hết. Do đó có một số Ni sư, Sư bà được Phật tử gọi bằng thầy, điều đó rất đúng. Sở dĩ một số Ni sư, Sư bà được Phật tử gọi bằng thầy với ý niệm trân quý, tôn vinh vì do thấy vị Ni sư, Sư bà đó được có một khả năng văn hóa Phật giáo và dân tộc rất lớn, cùng với đạo cao đức trọng, có uy danh và đời sống phạm hạnh, chứ không phải gọi thầy do đã hiểu được nguyên lý xuất gia ở ngôi vị sơ đẳng sa di và Tỳ kheo đều là thầy. Nói đến Phật tử gọi Ni sư, Sư bà bằng thầy, cũng có một vài bà cao niên về hưu vào chùa tu mới có mấy năm, đã nghe các Phật tử đến chùa gọi các bà ấy bằng thầy.

Trở lại ba cấp sa di, cấp thứ ba Ứng Pháp Sa Di, là cấp được chỉ định thọ giới (10 giới) sa di ở lứa tuổi 15-18. Sau khi thọ giới sa di, các thầy, cô ứng pháp sa di này bắt đầu học Phật pháp.

Với bé Minh Hoàng, được thông qua hai cấp, lên ngay cấp ứng pháp sa di, vì tư tưởng lớn hơn tuổi và bản thân, sau đó được học Phật pháp liền. Vấn đề học Phật pháp của bé Hoàng sẽ được nói tiếp ở phần sau.

Đăng Triệu nghe Tuệ Đạo nói bé Hoàng thông qua hai cấp sa di, không hành điệu ở chùa, liền nói:

- Bé Minh Hoàng học ở trường đời đã băng lớp, vào học trường đạo Phật cũng băng cấp luôn, đúng là thần đồng Bồ Tát!

Đúng theo nguyên lý xuất gia, nam nữ gì cũng được gọi là thầy, nhưng gọi thầy thuộc Tăng, gọi cô hay Sư cô thuộc Ni với tâm niệm thân thương, có phải vậy không, anh Tuệ Đạo?

- Quá đúng, còn gì nữa mà không đúng. Như vậy mình gọi bé Minh Hoàng bằng Sư cô cho có vẻ tôn kính ngay từ bây giờ trở về sau.

- Anh Tuệ Đạo, chúng ta nên đi lấy thức ăn, ăn xong ta sẽ bàn luận tiếp việc sư cô Minh Hoàng tầm sư học Phật. Lời đề nghị của Đăng Triệu.

Đăng Triệu và Tuệ Đạo ăn trưa gần một tiếng đồng hồ mới xong, vì là thanh niên râu. Câu chuyện tầm sư học Phật của sư cô Minh Hoàng được tiếp tục nói giữa ly trà nóng, Tuệ Đạo bắt đầu nói:

- Đăng Triệu biết không, vận hành tầm sư học Phật để tu hành của Sư cô Minh Hoàng rất là kỳ diệu (magic), kỳ diệu trong cái khổ mà vui. Theo nguyên tắc, một thầy sa di hay sư cô sa di ở ngôi vị ứng pháp, tức là bắt đầu vào tu viện để học Phật, là được ông thầy riêng tư, thầy đỡ đầu, thầy bổn sư dẫn vào trình diện với các vị giám viện, thủ chúng tu viện rồi làm đơn xin nhập học, v.v… Đằng này, Sư cô Minh Hoàng của ta không được ai dẫn đi cả, một mình ra đi với gói hành trang đơn sơ hai bộ áo quần vạt hò màu lam và một vài thứ thực dụng cá nhân hằng ngày mà thôi.

Trước ngày đi, được bà má mua cho một vé máy bay Đà Nẳng – Sài Gòn, mặc dù Sư cô Hoàng chưa biết Sài Gòn bao giờ, không có Tăng Ni, Phật tử nào được quen biết trước trong Sài Gòn, nhưng cứ đi. Đi trong niềm hy vọng sẽ được cô bạn gái người Thiên Chúa giáo hơn mình bốn tuổi cùng lớp cùng trường trước đây, nay lấy chồng trong Sài Gòn, sẽ về ở nhờ nhà cô bạn ấy và nhờ cô bạn ấy đi tìm dùm cho một chùa Ni, rồi vào đó ra sao thì ra. Cho nên sau giờ phút bà má đồng ý cho cô Hoàng đi tu, cô đã quyết chí vào Sài Gòn và lấy địa chỉ cô bạn, đâu vào đó sẵn sàng.

Ngày lên máy bay không được ai trong gia đình tiễn chân ra đi, chỉ được bà má thuê cho một chiếc xe lam ba bánh để đưa cô ra phi trường, người hành khách trên xe lam duy nhất chỉ một mình cô Hoàng mà thôi.

 

BÉ HOÀNG ĐƯỢC CÁC THIÊN THẦN HỘ GIÚP

Ra tới phi trường, vào trong, cô Hoàng không biết phòng đợi nào đi Sài Gòn, nhưng vẫn được mọi người đến chào hỏi và hướng dẫn cô từ A đến Z, nếu không nói là cô được các thiên thần đến hộ vệ. Đúng thật, lên ngồi trên máy bay, cái ghế kế bên cô có một bà trạc tuổi trên năm mươi. Bà ta ngỏ lời thăm hỏi cô Hoàng thật là kỹ và chân tình, nào là tu chùa nào, tu lâu hay mới, xuống máy bay đi về chùa nào, có chùa đến chưa, có ai ra rước đón về, v.v… Sư cô Hoàng trả lời:

- Thưa bà, con mới đi tu hôm nay, chưa có ở chùa lần nào, chưa có chùa đến, không ai ra đón, sẽ gọi taxi đi một mình về nhà cô bạn ở cư xá Võ Di Nguy, Phú Nhuận.

Ngoài lời thăm hỏi, bà tỏ ra thái độ chăm sóc về việc ăn uống cho cô Hoàng giống như là bà mẹ, bà cô đi theo, nào là sớt thức ăn của bà mang theo cho cô Hoàng, cùng với nước ngọt xá xị…

Bà biết Sư cô Hoàng không được ai đón, sẽ đi taxi một mình về nhà cô bạn, nên chi bà lập kế hoạch bảo vệ an ninh cho cô Hoàng khi cô Hoàng đi taxi, bằng cách đóng vai bà nội, bà  ngoại, bà cô… qua lời nói xưng bà, gọi con trước mặt ông tài xế taxi, để phủ đầu tài xế nên biết rằng; Sư cô này không tiền trong người, được người nhà đem tiền ra trả, trên đường xe chạy về nhà sẽ có người bám sát theo sau…

Đúng thật, khi xuống máy bay, bà bám sát theo Sư cô Hoàng ra khỏi nhà ga, tới bến taxi, bà tự động gọi taxi. Taxi đến, bà nói lớn nào là: cháu về trước, bà sẽ về liền ngay sau đó, ngồi trên xe nhớ nhìn đồng hồ tính giá tiền là bao nhiêu, xe về tới nhà, nhớ gọi cô tư trong nhà đem tiền ra trả cho chú tài xế nhé!

Thật sự, cô Hoàng không biết bà ấy là ai, nên nghe là cứ nghe lời bà nói, còn việc trả tiền cho ông tài xế taxi chính do Sư cô Hoàng lấy tiền ra trả, không gọi cô tư nào cả, vì nhà mà cô Hoàng sẽ đến để tạm trú trong thời gian đi tìm chùa của một Sư cô, đó là nhà ông bà bác sĩ, bà người Huế, ông người Nam, cả hai ông bà rất mộ đạo Phật. Ngày cô Hoàng đến nhà nhằm ngày chủ nhật, ông bác sĩ đi công tác Nha Trang, bà bác sĩ ở nhà chăm sóc đứa con trai đầu lòng mới sinh được vài tháng. Bà bác sĩ còn rất trẻ và đẹp gái, nên chi được có một tâm hồn vị tha đối với Sư cô Hoàng là đi tìm dùm ngôi chùa của một Sư cô, mà Minh Hoàng muốn đến đó. Sau khi nghe cô Minh Hoàng nói hết ý chí xuất gia của mình, bà bác sĩ đi tìm chùa, cô Hoàng ở nhà giữ baby. Bà bác sĩ ngày nào cũng di tìm chùa vào buổi sáng đến trưa về nhà, gần cả tuần đi tìm chùa nhỏ đến chùa lớn, không tìm ra được chùa.

Thấy bà bác sĩ tận tâm đi tìm chùa mà không được, cô Hoàng lo lắng, nhưng sau giờ phút niệm Phật mẫu Chuẩn Đề, cô Hoàng liền nhớ ra cô bạn theo đạo Thiên Chúa có người bồ là Phật giáo, cô Hoàng liền nói lời cảm ơn và chào tạm biệt bà bác sĩ, gọi taxi đến nhà cô bạn. Cô bạn ấy vốn học cùng lớp, cùng trường với cô Hoàng, mặc dù cô bạn lớn hơn cô Hoàng bốn tuổi nên chi rất là vui mừng khi cô Hoàng đến.

Sau giờ phút hàn huyên bỏ túi, cô bạn người bắc đó dẫn cô Hoàng vào ngay chốc chùa Sư cô mà cô Hoàng muốn vào tầm sư học Phật.

Trở lại hình ảnh bà đi theo Sư cô Hoàng.

Bà ngồi bên cạnh cô Hoàng suốt thời gian bay và lo chăm sóc cô Hoàng từ A đến Z, có thể là bà con quyến thuộc được bà má cắt cử đi theo để bảo vệ và chăm sóc cô Hoàng. Điều đó cho thấy rõ lúc bà má mua vé máy bay là mua hai vé, thì bà ngồi bên cạnh cô Hoàng không ai vô đó, chính là người bà con trong quyến thuộc. Bà con quyến thuộc trong tộc họ của cô Hoàng nhiều lắm, họ đều lớn tuổi, làm sao cô Hoàng được biết cho hết!

Nói khác hơn, người nam hay nữ, nhất là tuổi trẻ phát Bồ Đề tâm muốn xuất gia tu hành một cách quyết liệt tới đích, không hề thối chí bước lui, sẽ luôn luôn được chư vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền chăm sóc và gia hộ cho bằng nhiều cách, trong đó khiến cho người trần khởi tâm cung kính lân mẫn chăm sóc và hộ trì suốt hành trình học Phật và tu hành Phật đạo. Chỉ sợ rằng, con người không có ý chí quyết tiến xuất gia, chứ đừng sợ rằng không có Bồ Tát, quý nhân giúp đỡ!

Qua ý chí quyết tiến xuất gia của Sư cô Hoàng, cho ta thấy rõ Sư cô được mọi người lân mẫn đến cung kính xin giúp đỡ cô khi một mình ra đi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Những chặng đường tầm sư học đạo tu hành của Sư cô Minh Hoàng kế tiếp, sẽ được nhiều quý nhân trưởng thượng lân mẫn thương yêu giúp đỡ, nếu không nói là người tài ba hoa mỹ, luôn luôn thường bị các bạn đồng nghiệp, đồng tu, đồng sàn sanh lòng ganh tỵ, nhưng với ý nghĩa thử thách, thì những hình thái đọa đày gian khổ bản thân là đạo lý thử thách cô Minh Hoàng, có bị thối chí đường tu hay không.

Quả thật, Sư cô Minh Hoàng vừa gặp hanh thông, lại vừa gặp gian nan nho nhỏ ngay sau khi người bạn gái đóng vai chị dẫn em đến xin tu, nên đứng trong tư thế khiêm cung nói lời thưa gởi với Sư bà. Sư bà ngồi im, đưa mắt nhìn cô Hoàng từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, đến mấy dạo như vậy, Sư bà nói được cho ở đây tu, nhưng với điều kiện phải gặp cha hay mẹ mới đủ tư cách nói chuyện nhập chúng tu học. Thời gian gặp cha mẹ, Sư bà kỳ hẹn hai tuần, bằng không cô Hoàng không được ở. Thế là cô Hoàng viết thư về cầu cứu, van xin bà má. Qua hai ngày gởi thư, bà má có mặt tại chùa lúc chiều lên, được Sư bà cho nghỉ lại qua đêm, sáng mai bà má được Sư bà mời vào nói chuyện tại phòng khách.

Trong lúc bà má và Sư bà nói chuyện bên trong, Sư cô Minh Hoàng đi qua lại ngoài cửa, đứng im ghé tai vào khe cửa, khi nghe đến lời bà má nói các ông thầy, bà thầy dụ dỗ cô Hoàng đi tu, tim cô Hoàng như gần vỡ tung, đánh lô tô từng hồi. Đến khi nghe đến lời Sư bà nói một cách vui vẻ rằng, các thầy các cô ngỏ lời dụ dỗ con bà đi tu, là vì do thấy con bà đang có dòng suối Phật đạo tuôn trào lên cao trong tâm, được hiển lộ ra thân tướng, nên mới dụ dỗ đi tu. Tại sao các thầy, các Sư cô không dụ dỗ những đứa trẻ khác, lại dụ dỗ con bà? Không dụ là uổng lắm, sẽ bị mất đi một Tăng bảo nhân tài. Chính tôi đã quan sát thân tâm cô Hoàng, con bà rất lâu ngay buổi sáng hôm nọ, hai chị em đến đây xin đi tu với tôi, tôi đã thấy Phật đạo trong tâm cô được hiển lộ ra thân tướng, tôi đồng ý ngay, cho ở đây.

Qua lời Sư bà, bà má liền chấp tay, miệng niệm A Di Đà Phật, trước đây bé Hoàng là con của con, bây giờ con của con đi tu là con, là đệ tử của Sư bà, con xin cúng dường cho Tam Bảo. Từ đó cô Hoàng thấy Đức Phật trong lòng mình  đang ngồi im mỉm cười trên tòa sen.

Thời gian nói chuyện giữa Sư bà và bà má kéo dài từ 8 giờ đến hơn 12 giờ trưa, Sư bà mời bà má ăn trưa, nên mâm cơm được chia hai. Sư bà mời bà má ở lại chùa để thăm chơi Sài Gòn, chứ vội chi mà về. Bà má xin Sư bà ở lại hai tuần. Sư bà hoan hỷ và cử người dẫn bà má và cô Hoàng đi thăm sở thú, viện bảo tàng, phố xá Sài Gòn, Chợ Lớn, bến tàu, v.v… Nhân cơ hội này, bà má mua sắm các thứ cần dùng cho cô Hoàng và mua nhiều thức ăn chay về cúng dường Sư bà và tăng chúng ni tại chùa. Trong những ngày đi thăm chơi ngoài, bà má ăn gì, cô Hoàng ăn nấy, vì chưa mặc áo Sư cô, chỉ mặc bộ quần áo vạt hò, sắc phục dự bị nhập chúng.

 

BÉ HOÀNG ĐÃ TRỞ THÀNH SƯ CÔ VÀ HỌC PHẬT

Ngày bà má về lại Đà Nẵng, cũng là ngày Sư cô Hoàng được bắt đầu đi vào mọi sinh hoạt có nếp sống văn hóa thiền môn. Trong đó được thế phát (cạo tóc) qua một nghi lễ ngắn cỡ 15 phút trước chánh điện, có Sư bà đọc lời thỉnh Phật chứng minh và bài chú cạo tóc, rồi dùng kéo hay dao cắt, cạo một lõm tóc tượng trưng, sau đó ra ngoài cạo sạch hết. Tiếp theo là thọ năm giới, học bốn quyển luật Tỳ ni, Sa di, Oai nghi và Cảnh sách, hai thời công phu khuya và chiều, một số kinh, thần chú nhật tụng, tịnh độ buổi tối và làm thị giả, người hầu thầy (hầu Sư bà).

Thị giả trong Phật giáo, thông thường là một tiểu sa di nam hay nữ, được thầy chọn lựa do thấy có đức tính hiền hòa, siêng năng, chững chạc và thân tướng trong sángg, trang nghiêm, biết ứng phó các việc.

Sư cô Hoàng học tất cả giới luật, kinh kệ, công phu tịnh độ với thời gian chỉ hơn một quý 3 tháng đã thuộc lòng hết. Bởi vì cô Hoàng học đến đâu là đưa sách cho cô lớn tuổi, nhờ dò dùm khi cô Hoàng ngồi nhắm mắt đọc ro ro. Cứ đến buổi chiều tối lúc rảnh rỗi, là nhờ Sư cô lớn tuổi dễ thương đó dò dùm cho.

Một vài Sư cô khác nghe như vậy, không tin, nên chi có lần, một Sư cô hỏi cô Hoàng thuộc hết luật chưa, cô Hoàng trả lời thuộc hết rồi, cô ấy đem mấy cuốn giới luật ra, lật giữa cuốn thấy bài nào, giới nào bắt cô Hoàng đọc giới đó. Sư cô Hoàng liền đọc ro ro không vấp tý nào.

Sư bà nghe được, gọi cô Hoàng vào phòng đọc một vài chỗ do Sư bà chọn. Cô Hoàng cũng đọc ro ro. Sư bà liền ra lời phán Sư cô Hoàng, thứ hai đến mang vở bút vào dự thính các lớp học Phật pháp tại đại học Vạn Hạnh tạm thời ở chùa Pháp Hội và đi  học tiếp các lớp văn hóa 10-11 (đệ tam-nhị). Hai năm đến, cô Hoàng đậu tú tài bán ban văn chương tại Sài Gòn.

Trong lúc Sư cô Hoàng học ở đại học Vạn Hạnh, Sư bà thường gọi cô Hoàng vào phòng thăm hỏi học ra sao, học gì kể thầy nghe. Mỗi lần bị Sư bà khảo hạch như vậy, cô Hoàng  gãi đầu mấy giây, rồi nói con không hiểu gì hết! Tức thì Sư bà vừa cười vừa nói tại răng mà không hiểu rựa? Sau đó Sư bà liền dạy cho cô Hoàng cách học Phật pháp. Trước khi có lời dạy cách học, Sư bà nói lời xác định chương trình Phật học ở đại học Vạn Hạnh khó lắm. Xong lời xác định, Sư bà bảo cô Hoàng phải đặt tâm trí và tai mắt vào lời giảng của các giáo sư mà nghe các giáo sư giảng lý nghĩa bài học. Rồi thừa lúc giáo sư nghỉ hơi, tức tốc hạ bút viết những lý nghĩa vừa nghe. Cứ như thế nghe trước viết sau suốt trong giờ học, đừng ngừng nghỉ. Khi giáo sư hết giảng bài hẳn, nên đọc lại bài ghi chép nhiều lần ngay tại lớp, về đến chùa đọc lại vài lần nữa, rồi mới làm chi đó làm.

Sư cô Hoàng đứng lắng nghe Sư bà nói một cách nghiêm túc, cuối cùng nói lời tuân thủ y giáo phụng hành. Sư cô Hoàng làm theo cách Sư bà chỉ dẫn, lần đầu chưa có kết quả, cho nên bị Sư bà quở chữ viết và bài ghi chép của cô Hoàng sao mà giống mọi quá! Sư bà lại nói lời hướng dẫn thêm lần nữa, là lắng nghe trước, hiểu  ý của đoạn thầy giảng, rồi mới ghi ra, chứ chưa hiểu ý đừng vội viết ra, nếu vội ghi, tức được đâàu mà bị mất đuôi.

Để khỏi bị Sư bà quở trách lần tới, cô Hoàng quyết chí bằng nhiều cách, ghi lại vào vở những điều Sư bà hướng dẫn, rồi học thuộc những điều ấy, bên cạnh đó cô Hoàng trì tụng bài thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề và niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm trên hai chặng đường, từ chùa đến đại học Vạn Hạnh vào ban ngày, từ chùa đến trường học văn hóa luyện thi tú tài ban đêm.

Nhờ tha lực của chư Bồ Tát hộ niệm cho và làm đúng theo lời chỉ dẫn của sư phụ, cô Hoàng nghe và hiểu rõ hết ý của từng bài học Phật pháp và văn hóa luyện thi qua lời giảng của các giáo sư ở hai nơi , nên bài ghi chép trong vở khá đầy đủ và nhiều trang. Đến hai tuần lễ sau, Sư bà bảo cô Hoàng đem bài ghi chép vào để Sư bà xem. Cô Hoàng đem vào, Sư bà xem qua xong, bảo cô Hoàng đọc. Cô Hoàng quỳ xuống đọc lớn, đọc rõ ràng đúng cách chấm phết từng câu, hết trang này qua trang khác.

Đọc xong tất cả bài ghi chép, Sư bà ngỏ lời khen được, khá lắm, rõ ràng lý nghĩa bài rồi đó, cố gắng lên nữa. Nghe Sư bà nói lời khen giỏi, khá! Sư cô Hoàng nói lời khiêm nhường, là không phải do cô giỏi, mà là do chư Bồ Tát Quán Thế Âm và Phật Mẫu Chuẩn Đề gia hộ khai tâm mở trí cho cô, nên mới được như vậy.

Đăng  Triệu nghe Tuệ Đạo nói cô Hoàng khiêm nhường liền phát biểu:

- Anh Tuệ Đạo, theo tôi thấy Sư cô Minh Hoàng nói lời khiêm nhường, tức là không tự đắc mình tài giỏi là đúng, cô ấy nói thật lòng đấy! Sở dĩ cô Hoàng ghi chép rõ ràng và đầy đủ lý nghĩa các bài Phật pháp như vậy, là do Bồ Tát Quán Thế Âm và Phật Mẫu Chuẩn Đề gia hộ khai tâm, mở trí cho cô qua quá trình trì tụng và niệm danh hiệu Quán Thế Âm, chứ không phải giỏi mà nói khiêm nhường đâu. Bởi vì Phật pháp dù ở các pháp cơ bản sơ đẳng, vẫn thâm sâu lý nghĩa, huống hồ những giáo pháp cao học như duy thức, Bát nhã, Kim cang, v.v… đối với các Tăng Ni tu học lâu năm, cũng không tài nào có thể ghi chép kịp được đầy đủ.

Với Sư cô Minh Hoàng, bài vở ghi chép được đầy đủ như vậy, chứng tỏ rằng cô Minh Hoàng đã và đang được Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề và Bồ Tát Quán Thế Âm khai tâm mở trí. Theo tôi thấy như vậy!

- Đăng Triệu nói quá đúng! Có lời tụng niệm kinh chú và cầu nguyện lên chư Phật, Bồ Tát là có tha lực gia hộ cho được mở mang trí tuệ, hanh thông mọi việc, qua khỏi chướng duyên, tật bệnh. Hơn nữa, những ai vốn sẵn có Phật đạo, Bồ Tát đạo trong tâm, tức là có tâm từ bi biết thương yêu mọi người một cách bình đẳng, thương và giúp đỡ vật chất cho những kẻ đói khổ khốn cùng, luôn khởi tâm vị tha sống vì người hơn, không ganh tỵ tật đố… như những danh Tăng, Đạo sư, như Tuệ Sỹ, như Sư cô Minh Hoàng, là được chư Bồ Tát thường trực bên cạnh để hộ trì cho.

Nói khác hơn, cái tâm có đức tính từ bi, sự hiểu biết rộng lớn nên có đời sống vị tha vì người, không tật đố ganh tỵ… đối với mọi người, chính là làn sóng ánh sáng nối kết với chư Phật, Bồ Tát. Nói một cách khác nữa, tâm có Phật đạo, Bồ Tát đạo hiện hữu cao độ là người con của mẹ, chư Phật, Bồ Tát là mẹ của con. Mẹ thường nhật bên cạnh con để chăm sóc cho con. Con khóc lên hay đòi mẹ cho cái gì, tức khắc mẹ đến đáp ứng sự đòi hỏi của con, là đúng theo quy luật có cảm có ứng, con ngả mẹ nâng hay là Bồ Tát gặp Bồ Tát.

Con người là chúng sinh bất toàn, nên phải tu tâm để tích đức. Đức của Phật giáo là từ bi và trí tuệ, là động cơ sanh ra tâm tánh hiền lành, biết thương yêu và giúp đỡ cho những người nghèo khổ. Sư cô Hoàng đã thực hành các hành động giúp đỡ người nghèo khó ngay từ lúc bé, do cô được có các đức tính Phật đao, Bồ Tát đạo, từ bi và sự hiểu biết đa dạng trong tâm, chứ chưa nói đến tâm thông minh là đằng khác. Cho nên cô Hoàng là con của chư Phật. Nhờ đó mà vận hành tu học của cô Hoàng được hanh thông qua từng chặng, tuy nhiên có bị gian nan, đọa đày bản thân, là quy luật của thử thách để phát triển.

Chặng nhập chúng học Phật, văn hóa luyện thi tú tài tại cái nôi ở chùa Sư bà lúc bấy giờ được hanh thông hơn trắc trở. Những điều hanh thông đó, nào là đi bộ ban ngày đến Vạn Hạnh, ban đêm đến trường văn hóa không còn bị các nữ quái ở các ki ốt chận đường hù dọa nữa. Được đậu tú tài sau khi thi, cơ thể khỏe mạnh lúc đi bộ và thời kỳ đi xe đạp lại càng khỏe hơn. Các bài kiểm soát tại đại học Vạn Hạnh được số điểm trên trung bình và có lúc ưu điểm, được các giáo sư phê chuẩn ‘sinh viên dự thính mà làm bài khá hơn chính thức, đề nghị sinh viên Thích Nữ Minh Hoàng lên học lớp chính thức.”

Qua lời đề nghị của các giáo sư, cô Hoàng được lên học lớp chính thức. Bài học của lớp chính thức lúc bấy giờ là những giáo pháp Duy thức học, Bát nhã, Kim cang và những  pháp số như Mười Hai Nhân Duyên, Tứ Diệu Đế, lục độ Ba la mật, Bát chánh đạo, v.v…

Khi lên lớp cao học ở Vạn Hạnh, cô Hoàng học và ghi chép thật dễ dàng, không lấy gì làm khó khăn cả, do đó bài làm kiểm soát trong ba quý và bài thi final cuối năm, cô đã đạt được số điểm tối ưu, tức là trên trăm. Sau đó cô được đại học Vạn Hạnh cấp cho chứng chỉ Phân Khoa Phật Học.

Sau những lần tư duy suy xét, chứng chỉ phân khoa Phật học Vạn Hạnh, chỉ để vui chôi thôi, chứ không đủ năng lực nâng cao hàng Tăng bảo (Tăng Ni) lên ngôi vị có đủ ba nền giáo dục (ý giáo, khẩu giáo và thân giáo) trong thân tâm để hằng truyền đạo pháp hóa độ chúng sanh là mục tiêu thành Phật (Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh). Nơi mà có đủ ba nền giáo dục ấy để cho Tăng Ni đến tu học mà đạt được vào tâm thức, phải là Trường Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học. Do vậy Sư bà quyết định gởi Sư cô Minh Hoàng ra Ni viện tại Nha Trang để được làm sinh viên Ni ngoại trú của Trường Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học Hải Đức Nha Trang. Tức là ăn ở ngủ nghỉ, tụng kinh niệm Phật, sinh hoạt Phật sự thì tại Ni viện, còn học Phật để hoằng hóa độ sanh sau này đều phải lên học tại Phật Học Viện Cao Đẳng Hải Đức.

Trước khi quyết định đưa cô Hoàng đi học Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học, Sư bà nói cho cô Hoàng nghe về vai trò của Tăng Bảo nam  hay nữ là phải hoằng  hóa độ sanh, nhưng không phải ai cũng hoằng hóa được đâu! Muốn hoằng hóa cho đúng cách, đúng pháp là phải hội đủ ba nền giáo dục Phật giáo tại Trường Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học.

Qua lời nhận định của Sư bà trụ trì về công cuộc hoằng hóa độ sanh của Tăng Ni, ai muốn đạt được kết quả khả quan và danh tiếng vào quần chúng, là phải theo học lớp Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học để được có ba nền giáo dục vào lòng, mà nơi tốt nhất là Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Sư cô Minh Hoàng đoán biết trước, thế nào mình cũng được Sư bà cho ra nội trú ở Ni viện, để theo học lớp Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học ở Hải Đức Nha Trang sau Tết Nguyên Đán. Do vậy, Sư cô Hoàng muốn để lại một kỷ niệm đậm nét vào tâm tư Sư bà và các Sư cô tại chùa, Sư cô tự mình diễn một hài kịch vui, có tên là ông già hàng xóm chúc Tết Sư bà vào buổi sáng mồng một Tết tân niên. Trước khi diễn hài kịch, cô Hoàng có cho các Sư cô trong chùa biết trước, để chuẩn bị cười một trận hả hê vào sáng mồng một Tết, thay cho lời giáo chỉ đầu năm của Sư bà trong không khí khô khan, tẻ nhạt, buồn tênh.

 

TƯ TƯỞNG VĂN HÓA QUA HÀI KỊCH

Thế là sau giờ lạy báo ân chúc tán chư Phật, Bồ Tát, chư Tổ, đàn na tín thí… vào sáng sớm mồng một vừa xong, cô Hoàng nhanh chân về phòng cải trang, mặc áo dài đàn ông bốn thân vải the màu xanh, chữ thọ trắng, đội khăn vành (khăn đóng) đàn ông, đi hài, đeo bộ râu giả, cặp kính trắng xề xệ trên sóng mũi… trong tư thế ngồi chờ Sư bà ra thiền đường, ngồi ở bàn nước để chờ các Sư cô ra lễ bái, chúc Tết và được Sư bà lì xì cho một phong bì  khuyến cáo nóng bỏng theo thông lệ đầu năm. Sư cô Hoàng liền ra hiệu các Sư cô ngồi im bất động, rồi đi ra cửa trước, từ từ bước vào thiền đường một cách bệ vệ theo dáng điệu một ông quan xưa ở tuổi về hưu. Sư cô Hoàng tiến tới trước mặt Sư bà, chấp tay cúi đầu bái bái, ngẩng lên nói:

- Kính lạy Sư bà ạ! Con kính chúc Sư bà một năm mới thân tâm thường an lạc.

Sư bà không nói năng gì cả đến mấy giây, đưa mắt nhìn qua nhìn lại, nhìn lên đầu, xuống chân, rồi hỏi:

- Đạo hữu ở mô mà đến sớm rựa?

- Dạ thưa Sư bà, con ở chỗ ni

- Chỗ ni là chỗ mô? Lời Sư bà hỏi lại.

- Dạ thưa Sư bà, con ở chỗ ni.

Các Sư cô đứng phía trong cánh cửa cười rúc ra rúc rích, có cô cười sằng sặc, cười rũ ra… làm cho Sư bà biết là giả rồi, vì thấy cô Hoàng lúc đó cũng đang mỉm cười trong trạng thái cúi xuống. Sư bà nhìn kỹ lại, bèn nói:

- Úi chao ôi! Thầy biết rồi, con Hoàng chứ đứa mô nữa! Ha, ha, ha! Nghịch rựa hè!

Cô Hoàng liền vẫy tay gọi các cô ra, đứng chấp tay cùng dâng lời chúc tết Sư bà. Sau đó Sư bà cảm thấy vui và có lời khen các cô biết cách sinh hoạt vui vẻ. Từ đó mãi mãi về sau Sư bà hết lì xì giáo chỉ nóng bỏng vào buổi sáng đầu năm.

Quả thật sau tết, rằm tháng giêng xong, Sư bà hỏi thử cô Hoàng muốn học trường Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học nào, ở Sài Gòn hay Nha Trang… Cô Hoàng nói muốn ra Nha Trang. Thật sự, nếu Sư cô Hoàng muốn học ở đâu, Sư bà chìu theo ngay, vì Sư bà thương cô Hoàng lắm. Thương là thương cái đa tài,đức độ hiền lành cùng nét xinh xắn của cô Hoàng nữa. Sau khi đồng ý cho cô Hoàng ra Nha Trang, Sư bà còn dặn kỹ ra Nha Trang thôi nhe, đừng ra Huế, vì mọi sinh hoạt thiền môn ở Huế gặp nhiều khó khăn, nhất là nhà bếp đun lửa toàn là lá cây khô, không có củi!

Sư cô Hoàng ra Nha Trang bằng máy bay DC6 lúc 10 giờ thứ bảy năm ấy, được hai Sư cô Ni viện ra đón. Về đến Ni viện được một Sư cô thủ chúng chỉ cho chỗ nằm và cất đồ đạc xong, hướng dẫn cô Hoàng đi chào hỏi thăm viếng; từ các Sư trưởng, giám sự, quản lý xuống đến cả đại chúng.

 

SƯ CÔ HOÀNG GẶP LẠI MẸ KIẾP TRƯỚC

Sáng hôm sau, có một Sư cô ở lứa tuổi trên bốn mươi, nhìn cô Hoàng một chặp thật lâu, rồi kéo tay cô Hoàng lại bàn, vừa đi vừa nói “em lại đây chị nói việc này cho em nghe”. Sư cô ấy nói:

- Em biết không, đêm qua trong giấc ngủ chị nằm thấy một giấc mộng kỳ lạ lắm em ôi! Chị thấy chị sinh một đứa con, nơi sinh hình như tại một bệnh viện xa lạ. Chị thấy chị đang nằm tịnh dưỡng, thì có một y tá vào nói “Cô ơi, cô sinh một đứa con trai”, tức thì chị nói con tôi, con tôi đó, hãy bồng nó vào đây cho tôi. Chị bế đứa con trên tay, chị nhìn nét mặt nó một hồi lâu, tự nhiên chị thức dậy. Dù thức giấc chị vẫn còn nhớ rõ nét mặt nó. Hôm nay chị gặp em ở đây, nét mặt của em sao mà giống đứa con của chị trong giấc mộng, y hệt như hai giọt nước. Do vậy chị nhìn em, chị cảm thấy sung sướng trong lòng, vì chị nghĩ rằng em là con kiếp trước của chị, nay được gặp lại nơi đây.

Từ dạo đó về sau, Sư cô ấy rất là thương Sư cô Hoàng như bà mẹ thương con.

Ni viện Nha Trang lúc Sư cô Hoàng ra xin nội trú, nhằm giữa chương trình trung đẳng Phật học. Sư cô Hoàng được Ni trưởng giám sự bảo cô vào dự thính, không cho học chính thức, mặc dù cô Hoàng có trình chứng chỉ Phân Khoa Phật Học được tốt nghiệp tại đại học Vạn Hạnh, vẫn dự thính ngồi cuối lớp.

 

SƯ CÔ HOÀNG BẮT ĐẦU THÔNG ĐẠT PHẬT PHÁP

Một hôm, vị giáo sư là một Thượng Tọa gọi một vài Sư cô ở trước nói lại đại ý bài Phật pháp mà thầy vừa giảng xong. Sau khi mấy Sư cô trả lời xong, vị Thượng Tọa không nói gì, đi qua đi lại trong im lặng, bỗng ở đằng sau có tiếng Sư cô Hoàng đưa tay xin nói, thầy liền cho phép. Sư cô Hoàng xin nói lại gần hai phút. Khi cô Hoàng vừa dứt độ mấy giây, vị Thượng Tọa đưa bàn tay phải lên cao, búng mạnh hai ngón tay cái và giữa vối nhau phát ra tiếng bóc bóc, cùng với lời “tuyệt, tuyệt, tuyệt vời, đúng như vậy!” và nói tôi cho Sư cô mới vào đó lên học chính thức.

Sau giờ học, Sư cô Hoàng được vị Thượng Tọa phỏng vấn sơ yếu lý lịch, quá trình học Phật ở đâu, v.v… Trong lúc thầy phỏng vấn và Sư cô Hoàng trả lời, các Sư cô của lớp học bao quanh nghe cô Hoàng nói. Sư cô Hoàng lặp lại lời dạy của Sư bà trong Sài Gòn đã khẳng định rằng: Tam tạng giáo điển Phật Giáo Việt Nam toàn là chữ Tàu. Với Phật pháp dù là sơ cấp đi nữa, lý nghĩa vẫn thâm sâu, vi diệu khó hiểu. Do vậy người học phải lắng nghe cho kỹ lời thầy giảng, mới tỏ tường được lý nghĩa, đại ý của bài học. Nghe rồi, hiểu rồi còn phải ghi chép ra vở, đọc tới đọc lui nhiều lần tại lớp, tại nhà, mới có thể thông đạt giáo pháp thâm sâu của Phật nói trong đó. Cô Hoàng vừa chấm dứt lời thuyết trình, vị Thượng Tọa giáo sư nói lời khen; cách học Phật pháp như cô Hoàng rất đúng, rồi nhã ý với các Sư cô, nên bắt chước cách học của Sư cô Hoàng, thì nhất định sẽ được thăng tiến mạnh trên đường học Phật.

 

SƯ CÔ HOÀNG Ở ĐÂU CŨNG ĐƯỢC BÀ MÁ QUAN TÂM SĂN SÓC

Sư cô Hoàng ra ở Ni viện độ vài tháng, bà má từ Đà Nẵng vào thăm. Bà má vào hôm trước, hôm sau bà xuống chợ Đầm Nha Trang, mua cho một xe lam đủ thứ món ăn chay, chở về Ni viện để cúng dường đại chúng, vì nhìn thấy các Sư cô trong các chùa, Ni viện ăn kham khổ quá.

Sư cô Hoàng ở tu chỗ nào, bà má luôn hướng tâm đến, vì là con, không thể phó thác con mình cho chùa được, phải quan tâm lui tới để tiếp tế thức ăn và cả tiền nữa. Khi cô Hoàng vào Sài Gòn ở với Sư bà D-Kh trước đó, bà má vào thăm, đi phố mua nhiều thức ăn, khi ra về cúng cho Sư bà hai chục ngàn tiền miền Nam Việt Nam thời đó. Sư bà đem số tiền đó gởi cho bà Vân Tâm Phương bột đậu xanh để sinh lời. Tiền lời của hai mươi ngàn lúc bấy giờ, mỗi tháng được bà Tâm Phương đưa cho Sư bà 475 đồng. Bà má còn cho riêng Sư cô Hoàng tiền để mua sắm lặt vặt. Nhờ đó lúc ở Sài Gòn, mỗi trưa hè, cô Hoàng mua nước ngọt xá xị và nước đá, rồi mời các Sư cô giải khát. Có lúc mua dưa hấu, đem ra hè chùa, cô và các Sư cô cùng nhau đập dưa ăn thật vui trong tình huynh đệ thiền môn. Thâm tình hơn nữa, lúc ở Sài Gòn và tại Nha Trang, thỉnh thoảng cô Hoàng dúi vào túi mấy cô ít ai quan tâm một vài chục, trăm để cho các cô ấy mua sắm vật dụng cần thiết. Một vài sư cô không chịu nhận lấy, cô Hoàng liền nói “huynh mà không lấy tôi nghỉ chơi với huynh luôn”. Nghe cô Hoàng hăm dọa không chơi thân, các cô phải bỏ lại vào túi. Ngoài ra, cô Hoàng còn mua phụ thêm các món ăn chiến lược như đường, dầu ăn, tiêu, muối, bột ngọt mỗi lần vài ký lô. Vì lỡ khi bị mưa gió, bão lụt, không mua được rau, đậu, bí, bầu, là có ngay các món ăn cơ bản ấy để đưa cơm vào bụng. Trong nhà chùa thường bị thiếu các thứ rau, đậu rất thường nhật, duy chỉ có món ít khi bị thiếu, đó là tương đậu nành ở ngoài trời quanh năm suốt tháng, cho đến nỗi tương khô cứng thành khối mốc meo.

 

SƯ CÔ HOÀNG ĂN KHỔ VẪN BỐ THÍ CƠM CHO ÔNG GIÀ ĂN XIN

Xét thấy sau giờ ăn trưa của đại chúng, người phục vụ (Sư cô Hoàng và một cô phụ tá) dọn cơm lên, dọn chén bát xuống rửa, chỉ còn lại mỗi người một bát canh rau. Nhưng bát canh rau của cô Hoàng, cô đã đem bố thí cho ông già ăn xin. Cứ như vậy thường nhật xảy ra. Do đó Sư cô Hoàng đã tự biến chế ra cho cô một món ăn độc đáo, đó là xì dầu kho quẹt. Cho dầu vào xoong bốc khói, thả ba-rô băm nhỏ vào, cho xì dầu (tương), tiêu, bột ngọt, đường, trộn đều, để lửa riu riu, thấy hơi sền sệt, nhắc xuống, để nguội, cho vào thẩu. Sư cô Hoàng ăn món đó với cơm quanh năm, một muỗng như vậy ăn được ba chén cơm. Thỉnh thoảng cô cho ông già ăn xin một muỗng vào bát canh, ông ấy liền khen ngon và nói hôm nay cô cho con ăn món gì mà ngon quá! Hôm nào dọn bàn xuống, còn một chút đồ kho, cô Hoàng đem băm nhỏ, thả vào canh, cùng với cơm, có luôn cái muỗng cho ông già ăn xin. Ông ấy chỉ múc cơm canh đổ vào miệng, trệu qua trệu lại rồi nuốt ực một cái, vì ông ta không còn cái răng nào cả. Chẳng những lo cho ông ăn cơm canh, mà Sư cô Hoàng còn đếm tiền dùm cho ổng và phân loại ra từng thứ 5 đồng, 2 đồng, một đồng, năm xu, rồi tìm dây thun, cột chặt lại thành từng bó một cho ổng.

Vấn đề ăn khổ của chư Tăng Ni trong Phật giáo Việt Nam được nói riêng ở thời xưa và hôm nay vẫn còn trên quê hương, là ăn chay quá ư đạm bạc, ăn toàn là thức ăn không có chất đạm như vỏ chuối phơi khô, gốc và lá cải búp sú úa vàng được lượm từ các chợ đem về, phơi khô để dành, sau đó đem ra kho với tương đậu nành lên meo khô cứng, ít khi được có xì dầu, chao để ăn. Nhất hạng là ở các Ni viện ăn khổ hơn Tăng. Sở dĩ chư Ni ăn khổ như vậy là có chủ trương để diệt dục sinh, vật lý ở thân tâm để dễ tu hành. Từ đó đi đến chỗ thờ ơ về chuyện ăn uống, dù cho có tiền cũng vẫn ăn kham khổ. Chứng minh rõ nét, đó là Ni viện Nha Trang. Từ ngày được có thêm trung học Bồ Đề Vĩnh Thái, ký nhi viện, Ni viện có nhiều tiền, nhưng chỉ để làm các Phật sự khác, không cho chúng ăn đủ chất dinh dưỡng. Một lần nọ, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa từ Sài Gòn ra thăm. Tất cả Ni sinh, các Sư bà phó giám viện, Ni sư quản lý đều xếp hàng đãnh lễ. Quý Sư bà, Ni sư ngồi bàn bên cạnh Hòa Thượng Thiện Hoa. Sau lời thăm hỏi việc học hành, tu niệm của Ni chúng, Hòa Thượng nhìn chư Ni sinh nói rằng; “lý do nào mà các Sư cô không ai được có nét  mặt tươi  tỉnh, toàn là xanh xao vàng vọt!” Ngài nói “nuôi chúng Ni như vậy, làm sao sau này các cô có sức khỏe tốt mà hoằng dương chánh pháp, làm sao các cô tu học được? Sư bà phải cho chúng ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, mới được có cơ thể khỏe mạnh mà học hành tu niệm, phụng sự đạo pháp, bằng không bị đau yếu ngồi một chỗ, lấy đâu ra nhân sự bên Ni cho các công việc của Ni bộ, mà Tăng không làm được.”

Trước đó chúng Ni viện ăn toàn là cây lẻ bạn, một loại cây giống rau lang, lá của nó mặt xanh, mặt tím. Hằng ngày cắt vô, kho với xì dầu, tiêu, bột ngọt, đem ra ăn với cơm. Có khi luộc rau muống, lấy nước làm canh, vì thế mà hầu hết chúng Ni ai cũng bị đau gan, ốm gầy, xanh sao là vậy.

Nhờ Hòa Thượng Thiện Hoa ra thăm, mà sau đó 3 ngày chúng được ăn cơm trộn với đậu xanh, phù chúc chiên kho. Từ đó về sau Sư bà xuất tiền cho Sư cô trông coi nhà bếp đi mua nhiều thức ăn như đậu hủ, phù chúc, các thứ đồ hộp, nấm khô, nấm tươi, rau, đậu, v.v… và khuyên các Sư cô nên ăn  khá vào để được có sức khỏe, bằng không sẽ bị các Hòa Thượng quở trách.

Tuy vậy, riêng Sư cô Minh Hoàng vẫn bị thiếu thức ăn, bởi vì với chức vụ hành đường là ăn sau, không có gì ăn, dù có để dành một bát canh, một dĩa đồ kho, nhưng phải chia cho Sư cô phụ trách hành đường đồ kho, còn lại đâu có ăn, vì phải đem bố thí cho ông già ăn xin cả bát canh, chút đồ kho. Vì thế Sư cô Hoàng tiếp tục ăn cơm với món xì dầu kho quẹt cả mấy năm liền, làm cho bao tử cô bị loét. Thật là tội nghiệp cho cô!

Bị loét bao tử, nhưng cô Hoàng không quan tâm để ý đến bao tử, nếu không nói là không gian bệnh lý của Bồ Tát là một không gian rỗng không, nên quên nó đi, thay vào đó bằng lời tụng thần chú Phật mẫu Chuẩn Đề, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì được hết một thời gian, rồi lại đau, vì nó là vật thể ngũ uẩn vô ngã, sở dĩ được có thân chỉ là tương quan theo duyên khởi, làm sao tránh khỏi già, bịnh, tử!

Cũng như vậy, chùa là một con sóng trong vô vàn con sóng trong biển khổ thế gian, làm sao tránh khỏi phiền não, mặc dù trong đó có Bồ Đề. Vì Bồ Đề và phiền não sát bên nhau. Mỗi Tăng thân trong Ni viện là một cây Bồ Đề, cho nên không tránh khỏi các thứ gió phiền não thương, ghét làm lung lay thân cây Bồ Đề. Sư cô nào được có cội căn Bồ Đề lớn thì cỡi sóng rong chơi trong các gió phiền não thương, ghét để bắt gặp Niết Bàn tịch tịnh an lạc trong tâm, mặc dù bản thân bị đau bệnh, mòn mỏi đến đâu trong thực tại, tâm Niết Bàn vẫn hiện hữu.

Sư cô Minh Hoàng đã từng cỡi sóng rong chơi trong những cơn gió phiền não tình thương, tình ghét lẫn lộn tại Ni viện Nha Trang, vùng hiền hòa như cát trắng, nhưng tâm của các Sư bà trưởng thượng, Ni sư giám sự, quản lý không hiền như biển, như cát, vì chưa phải là thánh tăng, nên tình thương trước được nói ra lời, nào là Sư bà thương con lắm, chị thương em lắm, vì con học giỏi, hiền lành, vì em thông minh, có tài văn hóa và xinh xắn… Sau đó liền ban cho tình ghét. Trước thương sau ghét, ghét nhiều hơn thương. Trên đời này, người có tài đức thường bị người trên dụ dỗ làm đệ tử, làm em, làm con. Nếu bằng lòng nhận chịu thì được sống yên ổn, không sóng gió. Bằng không, thì sống bất an, khó khăn, đọa đày, phiền não sẽ tới tấp đến. Người đa tài thường bị khổ nạn, đọa đày bản thân, có phải vậy không, Đăng Triệu?

- Đó là điều tất nhiên theo quy luật chữ tài đi với chữ tai một vần, nhưng mà với người thế gian  có tài là có họa do không tu tâm tích đức, nên chi tài thường bị khổ não đến. Chứ còn người xuất gia có tài luôn được có đức do có tu tâm tích đức, thì những thứ tai ách, khổ nạn khó có thể đến, chỉ gặp các phiền não thôi, nhưng Bồ Đề có trong phiền não, tâm kiên chí vững bền trong an định, thì phiền não tiêu tan không an trú trong tâm, chúng lãng đãng nơi không gian mà thôi.

 

KHÔNG NHẬN THÊM BỔN SƯ

- Đăng Triệu nói đúng quá! Đăng Triệu biết không, một hôm, Sư cô Minh Hoàng được một Ni sư Chánh Lượng giám sự Ni viện gọi đến, rồi thủ thỉ nói:

- Hoàng con! Cô thương con lắm! Vì cô thấy con có nhiều tài, học giỏi, ăn nói linh hoạt, sinh hoạt mau lẹ, siêng năng cần mẫn chu toàn các việc trong chùa. Cô muốn con làm đệ tử cô, con bằng lòng nhé, để cho cô được vui.

- Dạ thưa Ni sư, con là đệ tử của Sư bà DKh rồi, con không dám nhận ai là bổn sư nữa.

Ni sư ChL đứng dậy, quay lưng trong im lặng. Kể từ đó, hễ việc nào khó nhọc nhất tại Ni viện là giao cho Sư cô Hoàng làm tất hết, như gánh nước từ giếng cách Ni viện vài trăm mét về đổ vào ba lu lớn để uống và gánh từ vòi nước công cộng gần hơn giếng một chút về đổ đầy ba cái bể để rửa. Sư cô Hoàng không gánh được, chỉ dùng hai tay xách hai thùng nước, quét dọn nhà cầu (restroom), làm các việc hành đường, là dọn cơm và các món ăn, chén bát, đũa muỗng lên bàn, rồi đứng lẩn quẩn gần đó để các Sư cô lớn, Sư bà còn sai bảo gì nữa suốt trong giờ ăn. Sau khi đại chúng ăn xong, Sư cô Hoàng và một phụ tá, cùng nhau đem hết tất cả xuống ra rửa ở bể nước, nào là đũa, muỗng, thố lớn, thố nhỏ, bát, mâm, khay, nồi niêu, soong, chảo, rổ rá, v.v… Nói chung những thứ nào phải được rửa, là Sư cô Hoàng và Sư cô phụ tá đều rửa cả tiếng đồng hồ mới xong. Sau đó mới được ăn cơm. Có khi không còn gì để ăn, bèn phải lén đi mua mì gói lá Bồ Đề về ăn, có lúc nhịn luôn. Đến chiều chiều, Sư cô Hoàng phải lo đun nước sôi mấy nồi liền, rồi lên các phòng Sư bà, Ni sư, Sư cô, đem hết 50 bình thủy lớn nhỏ, 50 ca uống nước xuống bếp, đổ nước cũ ra, rửa ca, đổ nước sôi vào tất cả bình, đem lên để lại y chỗ cũ không được sai chỗ.

Sư cô Minh Hoàng làm nhiều việc nặng nhọc quá, cho đến nỗi bị đau cơ bắp cả hai tay do xách nước cả thùng đầy, mang xách các thứ khác. Cho nên một hôm nọ, cô Hoàng sử dụng chiếc xe ba gác, để các thùng nước và nồi niêu, soong, chảo trên xe, rồi Sư cô Hoàng và cô phụ tá cùng nhau đẩy đi rửa, đẩy nước về cho đỡ đau tay.

Ni sư giám sự bắt gặp cô Hoàng sử dụng xe ba gác, liền ra lệnh cấm. Tối lại bắt Sư cô Hoàng quỳ hương cho đến 11 giờ khuya, mới tha cho đi ngủ.

Không những chỉ có Ni sư ChL không ban được tình thương đối với Sư cô Hoàng, liền ban tình ghét và tìm cách trừng phạt, vùi dập thân xác Sư cô Hoàng, mà có cả mấy Sư cô lớn trong Ni viện cũng bắt nạt, sai bảo cô Hoàng làm các việc nặng nhọc khác, đọa đày thân xác gầy ốm của cô, thật là tội nghiệp. Tất cả giai do lòng ganh tỵ, cảm thấy thua cô Hoàng nhiều việc, nhất hạng là học không giỏi, văn hóa kém, nên sinh lòng ganh ghét đọa đày nhau. Đó là một bịnh trầm kha trong các Ni viện Phật giáo Việt Nam trước 1975. Hy vọng sẽ không còn cái bịnh ganh ghét, tỵ hiềm nhau trong các Ni viện tương lai.

Nghe nhiều người nói rằng Sư bà phó giám viện VM có tánh đặc biệt, là khi nghe ai đó đem lời ca ngợi Sư cô này, Sư cô kia học giỏi, khá cái này, giỏi cái kia… thế là Sư cô được ca ngợi đó sẽ bị Sư bà VM phó giám viện phạt chùi nhà cầu và lạy sám hối, không cho biện bạch lý do. Điều đó có thật.

Lại nữa, Sư bà VMinh từ bấy lâu nuôi hy vọng trong lòng mình sẽ được Sư cô Hoàng làm đệ tử qua lời hứa của Sư bà DK, là cho cô Hoàng cho Sư bà VM, nhưng chỉ lời hứa thôi, chưa tuyên bố chính thức giữa ba mặt một lời. Suốt thời gian chờ đợi Sư bà DK tuyên bố cho, Sư bà VM rất lấy làm hãnh diện được có một đứa đệ tử con nhà giàu, học giỏi, dễ thương có nhiều tài. Cho nên Sư bà VM rất thương Sư cô Hoàng thật kín đáo, trong đó hễ có thứ gì tốt, đẹp là cất dành để cho Sư cô Hoàng. Vào giờ trưa, lúc ni chúng nghỉ ngơi, Sư bà VM len lén đem cho Sư cô Hoàng cái áo mới, quần mới, cây bút, cây quạt thơm trầm hương, vân vân…

Đến một hôm, Sư bà DK từ Sài Gòn ra Huế, ghé lại Ni viện Nha Trang để thăm Sư cô Hoàng. Hai Sư bà ngồi hàn huyên tâm sự với nhau về các việc học hành của các ni chúng, trong đó có đề cập và nhắc lại sự việc Sư bà DK sẽ cho Sư cô Hoàng làm đệ tử Sư bà VM. Sư bà VM gọi Sư cô Hoàng ra. Sư cô Hoàng ra, sau chấp tay lễ bái, đứng nghiêm trong tư thế chờ đợi hai Sư bà có sai bảo gì hay không. Sư bà Diệu Không gọi Sư cô Hoàng đến đứng sát bên và nói lớn, từ nay tôi cho Sư cô Hoàng làm đệ tử chính thức Sư bà. Sư cô Hoàng liền từ chối bằng cụm từ bất hủ “Tôi trung không thờ hai vua, sao thầy bắt con phải nhận vị khác làm thầy. Con chỉ nhận Sư bà là thầy con thôi.”

Nghe lời tuyên bố thẳng thừng của Sư cô Hoàng, hai Sư bà ngồi im phăng phắc, không nói nên lời cả mấy phút, sau đó Sư bà VM bảo cô Hoàng vào phòng.

Kể từ đó về sau, thôi thì Sư cô Minh Hoàng bị Sư bà VM đì và đì không biết bao nhiêu thứ khổ đủ cách, thật là bầm dập lên bản thân. Trước đó thương bao nhiêu, nay ghét bấy nhiêu, ghét ôi là ghét. Cho nên bài làm, bài thi gì của Sư cô Hoàng đến tay Sư bà VM đều bị bà phê rằng “văn hay, chữ tốt, học khá giỏi, nhưng hạnh kiểm quá xấu”. Thế là Sư cô Hoàng bị hai Sư bà VM và Ni sư ChLượng đì cho nhiều việc khổ, chỉ vì không chịu làm đệ tử.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG BỐN

 

HÀNH BỒ TÁT ĐẠO

 

Hành giả ở cấp sơ phát tâm xuất gia, thật sự chưa có trí thức cao siêu văn hóa Phật giáo, chỉ bằng thái độ đơn giản thường tình thể hiện qua hành động đem cho người đói chén cơm, kẻ lạnh lùng manh áo do thấy được nỗi khổ của người giống như mình khổ, từ đó đức tính từ bi được lớn dần và Bồ Tát đạo được khởi sự hình thành từng bước. Tuy nhiên Bồ Đề tâm còn non nớt, có thể bị thối hóa, sanh lòng bực bội bởi hành vi xấu của mọi người chung quanh gây ra. Nhưng với Bồ Đề tâm bất thối, tức là quyết tâm tiến bước tu hành, ắt sẽ đến mục tiêu làm Tăng Ni lâu bền, do vừa chống đỡ chướng duyên vừa hành bố thí ở cấp sơ phát tâm. Cho nên Sư cô Minh Hoàng trong lúc làm việc mệt nhọc nhừ tử như vậy, nhưng không quên ông già không nhà (homeless), không quyến thuộc ở gần Ni viện đến xin ăn. Mỗi lần bố thí cơm như vậy, cô Hoàng phải tán cơm, canh rau cho thật nhỏ, cho xì dầu vào, rồi đổ vào bát nhựa, cùng với cái muỗng để cho ổng múc đổ vào miệng rồi ực một cái, vì ổng không còn cái răng nào hết.

Việc làm từ thiện cứu đói ông già không nhà, mà Sư cô Hoàng đã làm suốt cả thời gian mấy năm cho đến khi không thấy ông già đến nữa mới thôi.

 

ĐẠI BI TÂM

Một con người đang tiếp nhận những nghiệt ngã vào bản thân như Sư cô Hoàng, mà lại luôn nhớ đem cho ông già bị đói lòng được ăn chén cơm như vậy, đấy mới đáng nói là sự thần kỳ của tình yêu. Đó chính là sơ nghiệp của Bồ Tát bắt đầu tu thánh đạo ở nhận thức nỗi khổ của người do suy diễn từ nỗi khổ của chính mình. Nếu không nói là theo lý nghĩa nhập sơ hoan hỷ địa của Bồ Tát hành bố thí, pháp, đứng đầu của bốn nhiếp sự, không cần lời mời thỉnh của chúng sanh đang đói khổ, Bồ Tát tự mình tìm đến với bất cứ chúng sanh nào đang đói khổ để giúp đỡ, do bởi tâm có Ái kiến, là năng lực khởi lên tâm từ, mặc dù biết ái  kiến là hệ phược, nhưng Bồ Tát hành từ thiện bố thí, pháp đứng đầu của bốn nhiếp sự ở đia vị sơ nghiệp hoan hỷ không thể tránh khỏi hệ phược. Việc ấy tính sau, khi Bồ Tát theo đà tiến đến các địa vị xa lìa phiền não (ly cấu) nhẫn nhục cao độ, các mê vọng thoát khỏi tâm thức do trí tuệ phát sinh (phát quang địa), tự tính giác ngộ bắt đầu hiển lộ, vân vân…, cho đến các địa vị cao hơn nữa ngay thực tại kiếp này hay tái sanh vào thế gian ở kiếp kế tiếp, mà không do hệ phược nào cả mà do bốn tấm lòng rộng lớn (từ, bi, hỷ, xả) và ba cấp từ bi qua quá trình học và tu tập Phật pháp, trong đó chính yếu là tâm từ vô lượng được thấy rõ qua các hành động ban vui cứu khổ cho con người bị đói rách, thiếu thốn chung quanh mình và ngoài xã hội, đúng như kinh Niết Bàn nói: “Hành tâm từ, đại phần lấy chúng sanh nghèo đói, khốn cùng làm đối tượng”.

Con người có đại từ tâm phần lớn do tu tập các thiện nghiệp ở  kiếp trước, là cái móc thát sinh vào thế gian, nếu không nói là Bồ Tát nguyện, cho nên sanh ra và lớn lên ở lứa tuổi thiếu niên đã có hành động bố thí một cách vui sướng, mà đối tượng là kẻ nghèo đói. Cũng ngay từ tuổi nhỏ ấy đã phát tâm xuất gia, gọi là hảo tâm xuất gia. Khi đã trở thành bậc xuất gia, thân tâm hoàn toàn hướng vào những con người bần cùng, thiếu thốn mà bố thí một cách tận lực, hết mình. Qua đây cho ta thấy Sư cô Minh Hoàng là bậc xuất gia vốn có Bồ Tát nguyện hành Bồ Tát đạo trên vận hành Lục Độ Ba La Mật, lấy giai cấp nghèo đói, thấp kém làm đối tượng, đúng với khế lý của kinh Niết Bàn.

Trên đời này, trong đạo Phật, nói riêng ở Ni giới, rất hiếm thấy một Sư cô hành từ thiện đúng ba cấp từ bi từ trong nội bộ, ra ngoài xã hội đối với những ai bị thiếu thốn liền hành động một cách hăng say, nhiệt tình như Sư cô Minh Hoàng thật là hiếm có, hiếm thấy. Đúng là người có lòng nhân từ, dù họ có theo tôn giáo hay không theo tôn giáo nào, xuất gia hay tại gia cư sĩ, vẫn là người có lòng nhân từ, không ai hơn ai cả.

Con người có đại từ tâm rộng lớn thường ưu tư từ việc nhỏ đến việc lớn, liền khởi tâm tình nguyện tìm cách cứu nguy. Sư cô Minh Hoàng đã tìm cách cứu Ni viện bị thiếu hụt tài chánh trả lương cho các giáo viên trường tiểu học Ni viện. Do vậy, một ngày nọ, sư cô Minh Hoàng ngồi bên Sư cô mẹ thỏ thẻ ngỏ lời:

- Thưa cô, con nghe nói mấy giáo viên trường Ni viện mình, cả hai tháng qua chưa lãnh lương, có phải vậy không?

- Đúng rồi, tài chánh Ni viện đang khô cạn dần, con làm trị nhựt hành đường dọn cơm hằng ngày cho đại chúng, mà con không thấy đại chúng ăn toàn là gốc cải kho được lấy từ chợ Đầm Nha Trang đó sao! Nghe đâu Sư bà phó giám viện và Ni sư quản lý đang vay mượn tiền Phật tử.

Sư cô Minh Hoàng ngồi im đưa mắt nhìn ra xa xăm, như đang lo lắng về việc ấy, đoạn cô Hoàng nói:

- Thưa cô, con sẽ có kế hoạch cứu nguy tài chánh cho Ni viện như thế này: con và hai Sư cô Diễm An Minh Khải, chúng con đang có văn bằng tú tài một, sẽ thay thế ba giáo viên lớp ba, tư, năm bằng cách xin đi học lớp sư phạm cấp tốc một năm. Một năm chóng qua mau lắm như ráng chiều lướt mau trên đồi cỏ xanh.

Thế là niên khóa đến 1965, ba Sư cô Minh Hoàng, Diễm An và Minh Khải được trở thành cô giáo. Sư cô Diễm An dạy lớp ba, Sư cô Minh Khải dạy lớp bốn, Sư cô Minh Hoàng dạy lớp năm, lớp tốt nghiệp bậc tiểu học (premier). Ba Sư cô vừa dạy văn hóa phổ thông vừa dạy giáo lý. Đó là việc hành thiện nhiêu ích hữu tình do tự lòng phát nguyện đối với tập thể nội bộ Ni viện.

 

HÀNH BỒ TÁT ĐẠO CỨU KHỔ CON NGƯỜI

Con người tu tập các thiện nghiệp nhiêu ích hữu tình ngoài xã hội lẫn trong thiền môn, là một cách tri hành cái tận cùng biên tế khổ của hữu tình chúng sanh, trong đó con người nói riêng, loài có tri giác (khác với trí giác), mới có thể thấy được tận cùng cái khổ ở bản thân, tâm ý, chứ chúng sanh vô tình (vật vô tri), làm sao thấy khổ, làm sao nhận thức được cái gì vô thường, cái đó khổ, cái gì khổ, cái đó không tự ngã.

Mặc dù con người là hữu tình chúng sanh, nhưng với con người học Phật mới nhận được các đạo lý vô thường, khổ, không, vô ngã và tri hành các thiện pháp nhiêu ích hữu tình, trong đó giai cấp Tăng bảo tiên phương tiến bước, nhưng mũi nhọn xung kích vào tận sào huyệt khổ, bần cùng của con người để tri hành các thiện pháp thật đa dạng cho con người đang khổ nhiều cách, đó là các vị Tỳ kheo trẻ tuổi (Tăng, Ni). Điển hình rõ nét là Sư cô Minh Hoàng. Sau một thời gian không lâu, cô tạo dựng cho tất cả học sinh lớp bốn, lớp năm được có một đội ngũ trật tự, nghiêm túc, lễ độ trong các sinh hoạt văn hóa qua bích báo, ca hát, vũ khúc, thể dục bản thân, thể thao bóng bàn, vũ cầu, bóng đá, diễn tập thanh niên đi bước đều, vân vân… Sư cô Minh Hoàng đào luyện một số em nam sinh, nữ sinh ở lớp bốn, lớp năm, tuổi lớn hơn các em khác được có một tư tưởng về từ thiện xã hội. Sau đó cô dẫn các em nam sinh Vũ Sơn, Thạch Hà, Trường Niệm, Quang Huy, Hiệp Lực và các nữ sinh Tú Nhi, Tiêu Hà, Xuân Thiên, Bạch Liên qua xóm Cồn, do cô chọn để làm các việc từ thiện cứu khổ, vì toàn dân xóm Cồn Nha Trang sống bằng nghề chài lưới, kiếp sống của họ trong những chiếc ghe mong manh, lắc lư trên trùng dương dậy sóng như những chiếc lá trên mặt nước, dễ bị chìm sâu vào lòng đại dương. Cho nên có nhiều đứa trẻ bị mất cha, anh, chỉ còn mẹ, mất hết mẹ lẫn cha, cô đơn một mình rồi sống chung với hàng xóm, khi lớn lên nối nghiệp cha, anh ra biển, thế rồi cũng lại theo cha, anh đi vào lòng đại dương qua một cơn bão.

Phải nói rằng dân ở xóm Cồn Nha Trang chịu nhiều khổ lụy, đói rách hơn chỗ nào hết. Do vậy Sư cô Minh Hoàng mới chọn xóm Cồn để tu tập thiện nghiệp nhiêu ích hữu tình. Trước khi qua xóm Cồn, Sư cô Minh Hoàng đem theo tông đơ hớt tóc, các thứ thuốc tây, cây đàn guitar và dẫn các em học sinh vào chợ Đầm mua các thứ vật dụng cần thiết, như dây nhợ và lưới, dầu trét ghe, mì gói, đường, sữa, bánh, kẹo, vân vân…

Khi có mặt tại xóm Cồn, Sư cô chỉ đạo cho các em học sinh vào từng nhà nói lời thăm hỏi đồng bào. Sau đó Sư cô và một hai em học sinh lớn hớt tóc cho các trẻ em, phát cho bánh kẹo, rồi đàn và hát các bài ca Phật giáo, dạy các trẻ em biết chấp tay niệm Phật, cúi đầu lễ Phật. Công việc từ thiện tiếp theo, là tặng mì gói, đường, sữa, dầu trét ghe, dây nhợ và lưới cho một số người lớn trong xóm.

Sư cô Minh Hoàng hiện hữu rải tâm từ rộng lớn lân mẫn, gắn bó tình nồng với người dân xóm Cồn vào những ngày lễ Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên Đán hay đột xuất sáng Chủ nhật, đêm hè có trăng sáng qua những năm dài tháng rộng như vậy, nên cô đã trở thành sứ giả của Như Lai, còn xóm Cồn đã trở thành xóm chùa, mặc dù chưa có chùa, vì mỗi lần cô đến là có tụng kinh cầu an cho người còn, cầu siêu cho kẻ mất tại các tư gia trước khi làm các việc từ thiện, vì thế có một số đông người lớn, thanh niên nam, nữ xin làm đệ tử. Cho nên xa cô họ thương nhớ, gặp được cô họ cảm thấy niềm an lạc, hạnh phúc. Vì vậy, mỗi lần cô vừa xuất hiện ở đầu xóm, các trẻ em ùa ra đón cô, được cô nắm tay các em, các em tự động bắt lời ca “nào chúng mình ra quay một vòng hát mà chơi…”. Khi tập họp các em lại, có một vài em tình nguyện hát bài “hôm nay thầy về đây…” hay bài “học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…”.

Hạt giống tâm từ vô lượng của Sư cô Minh Hoàng được bay xa hơn, đến tận trên thành Nha Trang Diên Khánh tại các xóm làng quê nghèo xứ Thiên Quang gần núi, cái tên ấy được có là do từ Chùa Thiên Quang, vào tận trong Quân Y Viện Nguyễn Huệ (VNCH xưa), những nơi cai nghiện thuốc phiện, xì ke, bạch phiến.

Sở dĩ hạt giống tâm từ vô lượng của Sư cô Hoàng được bay xa vào các nơi như vậy, là do sau khi trường Trung Học Bồ Đề Vĩnh Thái và Cô Nhi Viện của Ni Viện được thành lập, Sư cô Hoàng là một trong những giáo sư của Trung Học Bồ Đề Vĩnh Thái. Do vậy, Sư cô Hoàng đã tuyển chọn tám em nam sinh của lớp bảy, tám và chín theo cô làm công tác nhiêu ích hữu tình cho những người nghèo khó, tàn tật, đau bịnh, nghiện ngập tại các nơi ấy.

Tại xóm quê nghèo Thiên Quang, Sư cô cùng tám em Toàn An, Phú Xuân, An Thái, Tâm Kha, Út Lý, Xuân Tự, Phù Đỗng, Trường Vĩnh chia nhau làm các việc cắt tóc cho các cháu nhỏ, cắt móng tay, phát kẹo bánh, tập các cháu hát bài ca Phật giáo, thăm hỏi các cụ già, các cô thôn nữ trên nương dâu, những chàng thanh niên râu hết tuổi lính đang cuốc đất trong vườn, rồi cho họ các thứ dầu gió, dầu đau bụng (cù là, nhị thiên đường).

Tại Quân Y Viện Nguyễn Huệ, Sư cô Hoàng và các em học sinh đến thăm và ủy lạo quà tặng cùng lời an ủi tinh thần cho những thương binh đang tỉnh ngủ và chưa tỉnh trên giường qua sự hiện hữu của thân nhân họ. Sau đó Sư cô chấp tay niệm kinh Đà La Ni cầu an cho họ mau được bình phục sức khỏe. Trước khi ra về, Sư cô gởi lại nhiều thư của các nữ sinh viết thăm các chiến sĩ tiền tuyến.

Tại cơ sở cai nghiện thuốc phiện, xì ke, bạch phiến, Sư cô Hoàng và các em học sinh được các nhân viên điều hành cai nghiện đồng ý cho thực hiện công tác tắm rửa qua lời cưỡng bách của các nhân viên điều hành, đó là phương pháp trị liệu bằng nước để được dứt hẳn cơn ghiền.

Qua lời cưỡng bách của các nhân viên điều hành, những người nghiện thuốc phiện từng bước khúm núm vào chỗ tắm là những bục xi măng ngoài trời, rộng rãi dưới ánh nắng nóng bức của mùa hè, mà họ vẫn mang trong người họ một rặng tuyết sơn, nên rất sợ nước, sợ lạnh, không dám cởi khăn choàng, quần áo len dày cộm ra, cứ đứng, ngồi nhìn mọi người trong trạng thái run rẩy co ro.

Thế là theo lệnh các nhân viên điều hành, các em mạnh dạn bước tới, cởi quần áo, khăn choàng ra, chỉ còn lại cái quần đùi thôi, rồi cầm vòi xịt nước vào từ đầu xuống chân, đưa tay xoa đầu, xoa lưng, kì cọ cho  họ. Các em kì cọ phần dưới, Sư cô xoa đầu vai cho họ ở phần trên. Có người run run né, hất vòi ra không cho xịt nước, không cho xoa vào thân. Thấy vậy, theo lệnh của các nhân viên điều hành là lấy thùng nước có sẵn ở đó, tạt vào thân họ thật mạnh. Có người ngất xỉu, la ơi ới chết bác rồi cháu ơi, chết anh rồi em ơi, chết con rồi cô ơi.

Sau nửa giờ tắm, tất cả những người cai nghiện tỉnh táo, quần áo tề chỉnh vào ngồi hết trong phòng khách để nghe Sư cô Minh Hoàng giảng bài pháp Tứ Đế về cái khổ, rồi khuyên nhủ họ đừng hút thuốc phiện, xì ke, bạch phiến nữa, nếu tiếp tục sẽ bị vong thân, để lại nhiều thứ khổ cho gia đình, vợ con, quyến thuộc.

Sư cô Minh Hoàng dẫn các em học sinh tiểu học và trung học theo cô làm công tác từ thiện tại các nơi ấy, không phải một lần, mà rất nhiều lần, xoay vần cách nhau một hai tuần suốt thời gian ở Nha Trang.

Cội gốc tự tính Bồ Đề tâm của con người một khi đã bừng dậy, vươn lên ra lá, trổ đóa hoa tâm từ vô lượng rồi, khó có thể dừng lại, cứ đi mãi, đi như một dòng sông ra 10 biển địa Bồ Tát tại cõi trần để cứu bạt con người thoát khổ mà lên ngôi vị đại giác Phật Đà, đúng với câu “trên cầu thành Phật dưới cứu khổ chúng sanh”. Điều đó được thấy ở Sư cô Minh Hoàng lúc nhỏ đã đòi thành Phật, cho nên cô đã làm rất nhiều việc từ thiện giúp người bớt khổ ngay lúc còn bé và đến khi xuất gia vẫn tiếp tục hăng say hành đạo một cách tích cực hơn trước, đúng theo quy luật Hoa Nghiêm “thử hữu cố bỉ hữu”. Cái này có cái kia có.

 

SƯ CÔ HOÀNG DẤN THÂN GIAN KHỔ ĐỂ TIẾN TU

Nói một cách khác, ai có Bồ Đề tâm phát triển, người ấy rất siêng năng hành đạo nhiêu ích hữu tình giới cứu bạt con người trong mọi giai cấp, không đợi ai kêu gọi, không bao giờ ngừng nghỉ. Sư cô Minh Hoàng đã và đang có Bồ Đề tâm phát triển cao độ ấy, cho nên cô đã hành đạo cứu khổ những người bị đói rách, siêng năng làm việc nhỏ, lớn thật khó nhọc không ai làm nỗi tại Ni viện, đã được đại chúng Ni đều thấy, biết Sư cô Minh Hoàng. Do biết rõ hết tâm tư tình cảm, khả năng văn hóa, văn nghệ, đức tính hiền hòa, siêng năng làm việc Phật sự, cứu tế độ nhân trong và ngoài Ni viện của Sư cô Minh Hoàng, mà một Sư cô vai chị trong Ni viện xem chỉ tay Sư cô Hoàng, có thể Sư cô ấy dựa vào mọi hiện tượng sinh hoạt của cô Hoàng thường nhật thực tại ở Ni viện, mà nói vừa hù dọa không tu được, vừa sách tấn tu hành để vượt qua mọi chướng duyên hay là cô đã có nghiên cứu qua những sách bói toán “Đời người trong bàn tay, …”, mà xem thử có đúng vậy không. Cô ấy nói:

- Bàn tay em không thể xuất gia được, khó tu lắm, nhưng làm thầy thiên hạ. Bàn tay có nhiều đường hào hoa phong nhã, biệt tài văn hóa văn nghệ, đa tình, phải bị đi lấy chồng một cách đàng hoàng đến những ba bốn ông, nhưng ba bốn ông chồng lại không đàng hoàng, ưa lăng nhăng, làm cho em khổ lụy.

- Em đã quyết định xuất gia tu hành để thành Phật, mà sao chị nói em không xuất gia tu hành được, là sao?

- Chị nói theo chỉ tay của em. Số em phải như vậy đã hiện rõ nhiều đường khác nữa, đó là trí thông minh xuất chúng, nhiều khoa bảng bằng cấp, nhiều quý nhơn giúp đỡ, nhiều môn đồ theo em, sự nghiệp giàu sang lắm, đường tình ái thì chững chạc đứng đắn, nhưng người tình hay các ông chồng không đứng đắn, vân vân…

- Em không muốn lấy chồng mà, em chỉ muốn đi tu thôi! Như vậy em phải làm cách nào để em được xuất gia tu hành trọn đời, khỏi bị lấy chồng?

- Dễ thôi, đức năng thắng số. Em phải tu tâm nhiều hơn nữa qua hành trì Phật pháp, tu hạnh Bồ Tát đạo nhiều hơn nữa với tâm ba la mật vô ngã bằng các hành động xông pha làm việc lớn nhỏ, khó nhọc đến đâu, phải kiên nhẫn ra tay mà làm, như thấy người già cả giặt quần áo, xách nước…, phải xung phong giúp họ nặng nhọc đó, mà không khởi tâm đắn đo, tính toán lợi lộc, hơn thua, cứ im lặng mà làm…, đó là các việc làm tích đức, gọi là công đức. Công đức vô lậu do tâm tư mình vượt thoát mọi ý niệm về ngã, tức thì phước báo vô lậu đến cho mình. Nó có công năng phá trừ, đẩy lui nợ trần chồng vợ, nhận chìm hết tất cả mọi thứ tình ái, chướng duyên. Chừng đó con đường xuất gia của em được tiến tới Phật đạo thật thênh thang, an nhiên, tự tại, không còn các chướng duyên quậy phá nữa.

Thật sư,ï lời của Sư cô ấy nói với Sư cô Minh Hoàng, chỉ là lời nói làm quà cho vui khi nhìn thấy sắc thái trong sáng, nhanh nhẹn, linh hoạt, lịch thiệp, làm việc giỏi, nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp của Sư cô Minh Hoàng. Chứ trước khi Sư cô ấy có lời bình luận Sư cô Hoàng không tu được, phải làm việc khó khăn để giúp người mới tu được. Sư cô Minh Hoàng đã làm không biết bao nhiêu việc cực nhọc khó khăn, không ai làm nỗi, trước đó rồi.

Tuy nhiên, với tâm từ rộng lớn sẵn có, Sư cô Minh Hoàng lắng nghe và tiếp thu lời khuyên của Sư cô ấy, xét ra không dư. Cho nên Sư cô Hoàng mới hỏi gặn lại: “Tâm con muốn tu tại sao không tu được?”. Tâm muốn thứ gì, hành động đạt được thứ đó, vì tâm là chủ tể hành động tạo tác. Muốn tu để thành Phật, ắt phải làm nhiều việc lợi ích cho con người trong mọi giai cấp để tri hành lời Phật dạy. Giống như muốn làm bác sĩ để được nhiều tiền, là phải học nhiều thời gian cách chữa bệnh nhân, là một quy luật.

Sư cô Minh Hoàng muốn thành Phật, vì thế Sư cô Minh Hoàng tự giác tiếp tục làm nhiều việc từ thiện, từ việc nhỏ đến các việc lớn, khó khăn, nhọc nhằn, bẩn thỉu, dơ nhớp, bất tịnh… đều ra tay làm tất, không chừa một việc nào cả.

Tất cả việc mà Sư cô Minh Hoàng bắt đầu làm cho đến lúc thành tựu chấm dứt. Cô làm rất kỹ lưỡng, cẩn thận, đúng cách, kỹ thuật, được có năng suất cả phẩm và  lượng. Như việc cắt cam, táo cho đại chúng để ăn. Sư cô Hoàng phải đem cam, táo rửa sạch, để ráo nước, xăn tay áo lên, liếc dao thật bén, do vậy cam, táo không bị chảy nước, láng mặt, đều đặn từng miếng, làm cho mọi người thấy là muốn ăn liền. Cho nên tại Ni viện, mỗi lần cắt cam, táo, dưa hấu để dọn cho đại chúng hay khách Tăng, các Sư cô, Sư bà quản lý đều nhờ Sư cô Hoàng, không sai các Sư cô khác.

Trong lúc đang học, làm việc công, tư, nhưng tâm tư cô Hoàng luôn quan sát một số Sư cô già và trẻ mới vào, đem y, áo tràng, cà sa ra giặt, hay xách nước, tức thì cô chạy đến gặt dùm, xách nước dùm với trạng thái hoan hỷ vui vẻ, không so đo việc người việc mình, luôn luôn không làm ai bực mình, nếu có ai nói lời nói và hành động đối đãi với cô không nhã nhặn, cô vẫn tươi cười đáp lại trong im lặng.

Tuệ Đạo bưng tách cà phê lên, hớp vài ngụm, để xuống, nhìn Đăng Triệu đang đưa mắt nhìn xuống bàn trong im lặng, Tuệ Đạo lấy muỗng cà phê gõ keng keng vào tách cà phê, Đăng Triệu ngẩn lên, Tuệ Đạo nhã ý:

- Nếu cảm thấy buồn ngủ, nên đi lấy thêm cà phê uống cho tỉnh táo hay kem ăn cho phê người ra mà nghe tiếp.

- Không. Tôi tỉnh thức đây chứ, nhưng sở dĩ có chút tư lự, là vì nghe anh kể đến việc học Phật và hành Phật đạo của Sư cô Hoàng, sao mà gặp nhiều chông gai, phiền não quá! Nên chi làm cho tôi cảm thấy thương tâm, tội nghiệp cho cô ấy!

- Mấy chuyện vừa rồi chưa khổ lụy lắm đâu! Mấy chuyện sau đây mới đích thực khổ lụy ở bản thân hơn các việc khác, đó là công việc múc hết phân hầm cầu tiêu.

Đăng Triệu biết không, cầu xí (cầu tiêu – restroom) bên Việt Nam, chỗ chứa phân là hầm cầu được xây cất bên ngoài nhà cầu. Có những hầm rất lâu năm, nên bị hư, bị khô, hay không rút nước làm cho bị tràn ngập nước lên tới miệng hầm, rồi tràn ra ngoài gây hôi thúi. Những nhà cầu Ni viện Nha Trang bị lâm vào khổ nạn là tràn ngập gây hôi thúi, nhưng các Sư bà VM và ChL không chịu thuê người làm, lại sai Ni chúng làm. Trước khi múc hết nước phân hầm cầu, là phải đào một số hố sâu để chứa nước và phân đặc. Sư bà VM chỉ thị cho Sư cô Hoàng chỉ huy các Sư cô đào hố và múc nước hầm cầu. Sư cô Hoàng hoan hỷ nhận lời và chia Ni chúng ra bốn toán đào hố. Sư cô Hoàng tạo ra niềm vui, bằng cách kể nhiều chuyện vui trong lúc lao động đào hố cho các Sư cô trong nhóm của mình để nghe, mà quên đi sự nhọc nhằn ở đôi tay. Sư cô kể tới đâu là các Sư cô cười lăn ra, sằn sặc tới đó. Thấy vậy các nhóm gần đó qua yêu cầu Sư cô Hoàng qua kể chuyện. Sư cô liền nhận lời qua kể chuyện hết nhóm này qua nhóm khác, vừa kể vừa đào đất chứ không đứng yên, chẳng bao lâu bốn hố rộng đến ba thước, sâu cả hai thước đã được đào xong.

Đào hố xong là đến lúc nạy nắp cầu ra, đưa thùng xuống múc. Không ai chịu xuống múc, cuối cùng Sư cô Hoàng tình nguyện lội xuống. Các Sư cô ở trên cứ niệm A Di Đà Phật liên tục. May mà mặt của phân không quá háng, chỉ tới đầu gối Sư cô Hoàng. Cái hầm thì hẹp chỉ có ba mét, vuông bốn phía, lỗ nắp hầm hai gang tay vuông đủ đưa cái thùng xuống, nên chi không có không khí để thở, chỉ nghe toàn là hơi thúi nồng nặc khó thở. Ấy thế vậy mà Sư cô Hoàng cứ cúi mặt xuống múc phân vào thùng, đưa lên, rồi lại múc tiếp, đưa lên gần trăm lần như vậy.

Làm xong, các Sư cô kéo Sư cô Hoàng lên, rồi xúm lại múc nước tạt vào đôi chân Sư cô Hoàng cho hết phân, trước khi vào nhà tắm. Ba tuần lễ sau, đôi chân và thân thể Sư cô Hoàng vẫn còn thúi. Riêng bộ áo quần là vất bỏ, không cách nào còn mặc được. Ngày tắm cả chục lần, xoa đủ thứ dầu thơm mà vẫn thúi, cả năm mới bớt dần hơi thúi, Sư cô Hoàng cứ khóc miết suốt cả năm khi đôi chân bị thúi bởi dư âm của phân. Mấy ông anh Sư cô ở xa nghe Sư cô Hoàng vậy, liền viết thư cho Sư cô Hoàng, trong đó sau lời hỏi thăm sức khỏe, còn có lời rằng “chân em mà bị lở lói, phung hủi… sẽ vào đốt chùa!”

Có một việc động trời nữa. Đăng Triệu biết không, bản thân ngũ uẩn của các Sư cô là nữ như mọi người nữ khác, cho nên có bị bất tịnh định kỳ, không tránh khỏi ở lứa tuổi dưới năm mươi. Vì thế trưa nào vào giờ chỉ tịnh, cả đại chúng nằm nghỉ, Sư cô Hoàng đơn phương đi lượm những băng vệ sinh ở một vài nơi chung quanh Ni viện bỏ vào bao ni lông, cột chặt thật kỹ, rồi đào lỗ sâu, chôn vào đó.

 

BIỆT TÀI VĂN HÓA VĂN NGHỆ

Với tài nghệ đặc biệt đa dạng, Sư cô Hoàng được Sư bà phó giám viện và Ni sư quản lý chỉ định cho nhiều chức trưởng, gọi là bao giàn mọi việc, tức là việc gì cũng giao cho Sư cô Hoàng trông coi và hoàn tất, như văn nghệ, báo chí, thể dục, thể thao điền kinh, bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá, lễ nhạc… kể từ khi Ni viện được có thêm trường Trung học Bồ Đề và Ký Nhi Viện. Việc nào cũng được đoạt giải danh dự, nhất và nhì, có lãnh cúp về cho trường sau khi Sư cô Hoàng dẫn các nam, nữ sinh đi thi các môn. Ai lãnh cúp và bằng khen danh dự? Sư cô hiệu trường lãnh, Sư cô Hoàng đâu có lãnh! Ấy thế vậy mà Sư cô hiệu trưởng khởi tâm ganh tỵ và chèn ép về vở bi kịch “Em bé mồ côi” của Sư cô Hoàng. Ganh tỵ tàn nhẫn cho đến nỗi, Sư cô hiệu trưởng ra lệnh 20 em nam sinh lo việc trang trí hoạt cảnh sân khấu cho Sư cô Hoàng, tất cả đều xuống ngồi hết ở cuối hội trường. Đến lúc người MC điều khiển chương trình giới thiệu bi kịch “Em bé mồ côi” của Sư cô Hoàng gần cả 5 phút, mà chẳng có ai trang trí hoạt cảnh, làm cho hằng trăm khán giả la ó lên “hoạt cảnh em bé mồ côi đâu không thấy, lâu quá! lâu quá!” Thấy vậy, Sư cô Hoàng biết là Sư cô hiệu trưởng chơi mình, bèn nhanh chân chạy lên sân khấu, tự trang trí lấy hoạt cảnh thật mau lẹ, chỉ ba phút là xong hết.

Khi màn bi kịch “Em bé mồ côi” xuất hiện, và diễn ra từng hoạt cảnh, làm cho hàng trăm khán giả ngồi im phăng phắc thưởng thức, có nhiều người rơi lệ. Mấy vị trong ban giám khảo cũng không cầm được nước mắt, hạ bút cho điểm danh dự hàng đầu. Trong khi đó vũ khúc của Sư cô hiệu trưởng chỉ được điểm hạng ba, mặc dù 18 em nữ sinh được phục sức nón, quần áo đắt tiền, nhiều màu sắc. Còn bi kịch của Sư cô Hoàng được phục sức bằng áo quần rách rưới tả tơi, bàn ghế cũ kỹ, mái nhà tranh xiêu vẹo, mà lại được danh dự hạng nhất. Sau buổi trình diễn thi văn nghệ đó, ông trưởng ty học chánh Khánh Hòa đem tặng cho Sư cô Hoàng 3 cây đàn guitar và 3 radio loại ấp chiến lược. Sư cô Hoàng cũng đem nộp tất cả quà tặng đó cho Sư cô hiệu trưởng. Biệt tài nghệ thuật đa dạng linh hoạt và sinh động của Sư cô Hoàng là chỗ đó, Đăng Triệu thấy chưa?

- Thấy rồi do được nghe anh kể, chứ chưa trực tiếp thấy bằng mắt, hy vọng sẽ có ngày được trực tiếp nhìn thấy tài nghệ của Sư cô Hoàng.

- Đăng Triệu biết nguyên nhân nào mà Sư cô Minh Hoàng được có nhiều tài nghệ rất sinh động và linh hoạt như vậy?

- Câu hỏi này hơi khó! Lời than của Đăng Triệu.

- Khó gì mà khó! Đời có câu “nhân bất học bất tri lý”. Con người có tài là phải học, đọc qua nhiều loại sách, báo. Càng học, đọc sách báo, càng có nhiều tài. Bởi vì hàng ngàn thứ việc từ văn chương đến khoa học kỹ thuật đều có mặt trong nền văn học, văn hóa quốc gia và thế giới. Các bậc thầy dạy học các môn đều do từ sách mà có ra bài dạy. Sư cô Minh Hoàng được có nhiều tài là do cô tự tìm tòi học hỏi. Cho nên biết chỗ nào có dạy về cắm hoa, nhạc lý, đàn, hội họa, may vá, đan len, sư phạm, sửa điện, vân vân…, Sư cô Hoàng len lén đi đến đó xin học. Nói về bằng cấp riêng của Ni giới thời xưa ấy, Sư cô Minh Hoàng có nhiều bằng cấp nhất, đủ thứ văn bằng, chứng chỉ.

 

LÀM VIỆC RẤT LINH HOẠT

Là người Phật tử nói chung, Tăng, Ni và Cư sĩ trong Phật giáo, ắt hẳn ai cũng biết bản chất của tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật đều linh động và linh hoạt, không chết khô như cỏ cây, cứng đờ như sỏi đá, không sầu muộn như kẻ thất tình, không bi quan yếm thế, chán đời như người bị đổ vỡ các sự nghiệp… Cho nên chư Tăng, Ni nào học Phật pháp nhiều qua các thứ kinh, luận giảng, là có ngay tâm hồn và trạng thái sinh động và linh hoạt thật từ bi và vô ngã trên vận hành hoằng hóa độ sinh. Qua đó cho ta thấy được Sư cô Hoàng có nhiều biệt tài sinh hoạt văn hóa quốc gia ở trường sở, là do có học nhiều thứ việc của đời gọi là thế gian pháp. Nhưng trong cách sinh hoạt ở chức trưởng hay không trưởng mà có được trạng thái vui tươi nhã nhặn, sinh động và linh hoạt như vậy, là do cô có học nhiều về kinh, luật, luận của Phật. Nói một cách khác hơn, bản chất của Sư cô Hoàng giống bản chất của Phật pháp. Do đó đa số học sinh nam, nữ bậc tiểu học, trung học Bồ Đề và nam, nữ Phật tử các giới ở Nha Trang rất thương mến cô, nên thường đến Ni viện thăm và hầu chuyện với cô. Ngay cả trong Ni viện, các Sư cô trẻ đều đứng về phía cô, cho nên mỗi lần Ni sư quản lý phân nhóm một, hai, ba, các Sư cô ai cũng muốn qua nhóm có Sư cô Hoàng làm trưởng nhóm. Như có lần Ni sư quản lý mượn 2 xe GMC, chia các Sư cô làm 2 nhóm đi lấy củi tại rẫy mới vừa hạ cây, đốt rừng xong ở Phan Rang. Khi lên xe, xe có Sư cô Hoàng được nhiều Sư cô ngồi, xe kia chỉ vài ba Sư cô. Thấy vậy, Ni sư quản lý nói lớn: đã chia thành nhóm rồi, mà sao lại ngồi nhiều ở xe này. Môt Sư cô nói vọng xuống: “tụi con ngồi đây để nghe Sư cô Hoàng kể truyện thôi, chứ vào trong rẫy, nhóm nào làm việc theo nhóm đó”.

Ngày đi lấy cũi hôm ấy, lại bị trời mưa, cho nên áo quần các cô bị ướt, bị từng vệt đen bởi củi cháy dở dang, mặt mày mấy cô ai cũng bị lem luốc, chỗ đen chỗ trắng, mồ hôi mồ kê từng giọt tròn như hạt đậu xanh lăn trên đôi má, bờ mi, sóng mũi, đôi môi nhạt màu thế gian, nhưng đượm tình thiền vị xuất thế.

Khi xe đang lăn bánh ra gần tới quốc lộ A, thì xe sau bị mắc lầy. Sư cô Hoàng ngồi xe trước, liền cho xe dừng lại, cô xuống xe và điều động tất cả các cô đều xuống, cầm theo dao, rựa vào rừng chặt cây, chặt thành khúc, đem ra kê ở bánh sau và ở trước hai bánh trước thật nhiều khúc, rồi bảo tài xế rú ga mạnh lên cho số tới. Nhờ vậy mà xe vượt qua chỗ bùn lầy. Linh hoạt và sinh động là chỗ đó, Đăng Triệu thấy chưa? Phải học nhiều về văn hóa kỹ thuật thế gian và Phật pháp mới có lanh ý, sinh động, linh hoạt đó. Sư cô Hoàng, cô ấy học Phật pháp nhiều lắm. Có người cho tôi biết, Sư cô Hoàng đọc thuộc lòng 30 bài tụng Duy Thức Học (Duy Thức tam thập tụng) và Phật Học Giáo Khoa Thư nữa.

Tôi nghĩ rằng, tới giờ này (2007), Sư cô Minh Hoàng, cô ấy vẫn còn nhớ nằm lòng 30 bài tụng duy thức và nhiều thứ kinh luận khác, khó mà quên, vì Sư cô Hoàng học Phật nhiều và lại học kỹ lắm. Nhiều và  kỹ chính là năng lực phát sinh ra trí tuệ rộng lớn như biển cả, thật đúng với câu “tự quy y pháp đương nguyện chúng sanh trí tuệ như hải”. Từ đó tâm đại từ bi cũng được sanh ra bởi trí tuệ rộng lớn, cho nên tâm từ bi là con đẻ của trí tuệ. Nhờ có trí tuệ rộng lớn, nên chi Sư cô Hoàng học đâu nhớ đó, nhớ dai lắm không quên. Do vậy, các Hòa Thượng Thích Đỗng Minh, Thiện Siêu, Trí Thủ mỗi lần vào lớp học, quý ngài đều gọi cô Minh Hoàng trước tiên, đứng lên trùng tuyên bài kinh hay đọc các bài tụng Duy Thức để cho các Tăng Ni sinh nghe mà nhớ lại, sau đó mới gọi các Tăng Ni sinh khác. Trong những lần làm bài ôn tập và thi lên lớp, mãn khóa lớp nội điển tại Phật Học Viện Hải Đức, số điểm mà Sư cô Hoàng đạt được ở bài làm, bài thi rất cao, ở vị thế tối ưu và ưu.

Nhờ thâm nhập kinh, luật, luận, mà Sư cô Minh Hoàng có được tâm đại từ bi lớn được thấy qua đức tính hiền hòa, đôn hậu, thật thà, chơn chất, biết thương người thật lòng, biết tìm ra phương cách làm việc để được thành công, gọi là phương tiện trí, bằng trạng thái đối đãi thật lòng và kèm theo bố thí vật chất, vì thế mà trong túi có bao nhiêu tiền, móc ra hết cho kẻ nghèo, người ăn xin, bạn đồng tu túng thiếu. Đó là một quy luật hễ có học Phật thâm sâu là có tình thương của Phật giáo, là tình thương chân thật hết lòng, được đi cùng với bố thí tài vật, tiền hay các đồ dùng có tính cách kỷ niệm. Điều này qua kinh nghiệm cho thấy chư vị Tăng Ni Phật giáo Việt Nam và ngoại quốc có danh tiếng về tu hành và chức vị lãnh đạo thường ưa cho Phật tử những đồ vật nho nhỏ sau giờ phút hàn huyên chia tay. Hành động bố thí như vậy rất giống tiền thân của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ xa xưa, khi còn làm người trong mọi giai cấp, đã đem hết tài sản, vật chất, nhà cửa, xe cộ, các phần nội tạng của cơ thể và kể cả vợ con của mình ra bố thí cho người neo đơn nghèo khổ, túng thiếu… Con người bất luận là ai không học Phật pháp thâm sâu kỹ lưỡng, tình thương của người ấy đối với mọi người rất là hời hợt, gọi là tình thương đầu môi chót lưỡi…

Tôi nghĩ rằng, sau 30-4-1975 và cho đến nay 2007, Sư cô Minh Hoàng còn xuất gia tu hành ở đâu đó trên quê hương hay hải ngoại, bởi vì cô quyết tâm để thành Phật nên chi cô học và tu tập Phật pháp và hành trì giới luật rất nhiều và kỹ lưỡng, là thành trì kiên cố giữ vững Bồ Đề tâm của cô còn mãi trên Phật đạo. Quả thật còn xuất gia tu hành như vậy là do có trí tuệ rộng lớn qua nhận thức đời là bể khổ, thấy được các đạo lý vô thường, khổ, không, vô ngã mà cô Hoàng vẫn còn làm người xuất gia, chính là tâm cô đã ngộ được những đạo lý ấy do có quyết tâm. Quyết tâm theo định hướng xuất gia vô tận, bất thối, đó là hạng người thông minh tuyệt vời đúng như lời Phật nói “Bồ Đề hay Bồ Đề tát đỏa” đang trên vận hành tu tập Bồ Tát đạo.

 

SƯ CÔ HOÀNG BỊ NI SƯ KHÁCH NÓI LỜI HÙ DỌA

Một hôm, có một khách Ni sư đến thăm Ni viện, đây là lần thứ hai, Ni sư ấy nhìn Sư cô Minh Hoàng hai ba lần khi cô Hoàng đem nước sôi ra chế vào bình, đem dĩa táo ra, chấp tay lễ bái. Ni sư liền hỏi:

- Cô pháp tự gì, bao nhiêu tuổi đời rồi?

- Kinh bạch Ni sư, pháp tự Minh Hoàng, tuổi con năm nay là 24 tuổi.

- Còn non lắm! Nét mặt trắng trẻo, có cặp mắt tròn đen, chân mày lá liễu, môi hồng thế kia, thân tướng xuất gia khó tồn tại lắm. Coi chừng sẽ bị các chàng mày râu đem cây đàn bằng dây tơ hồng đến đàn vài tiếng là cởi áo Nhật bình ngay.

- Dạ kính bạch Ni sư, con đã phát nguyện quyết tâm đi xuất gia tu hành cho đến thành tựu Bồ Đề quả, làm sao có thể thối lui được!

- Nếu đã quyết tâm, chưa đủ, phải hành Bồ Tát đạo nhiều nữa, tu Bồ Tát hành với tâm vô ngã hơn xưa để được công đức vô lậu, thì mới có thể vượt qua các ảo ảnh dục tình thế gian mà vào Bồ Đề quả. Để được có thêm các tha lực của chư Phật, Bồ Tát hộ niệm cho, hãy nhớ trì tụng Phật mẫu Chuẩn Đề để phá trừ các loại tà ma, trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh để phá trừ yêu tinh mà vượt qua các ảo ảnh dục tình và các phiền não, chướng duyên. Cô có biết ngài Bồ Tát Huyền Trang không?

- Dạ thưa, con biết!

- Biết sao, nói nghe coi!

- Biết ngài đi qua Tây Trúc thỉnh kinh.

- Chưa đủ. Nghe đây: Bồ Tát Huyền Trang đi qua sa mạc Gobi vào ban đêm bị các loài ma quái, yêu tinh ẩn hiện ra nhiều hình thù quái dị, la hét, gào thét để phá phách ngài. Ngài niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng vẫn còn hiện hữu; ngài liền tụng Bát Nhã Tâm Kinh, chúng liền biến mất hết, lặng im cho đến sáng. Bài kinh Bát Nhã do Bồ Tát Quán Thế Âm giả dạng thầy Tỳ kheo ghẻ chóc vào chùa, sau đó ra về bèn dạy cho ngài Huyền Trang bài kinh Bát Nhã để trả ơn được hết ghẻ vì biết được ngài Huyền Trang sẽ qua Tây Trúc thỉnh kinh và sẽ bị các thứ yêu ma, quấy phá. Lo mà trì tụng hai thứ thần chú ấy và tu hành Bồ Tát đạo cho nhiều hơn xưa để cho bản thân xuất gia được đạt Bồ Đề quả.

Theo tâm lý, một khi con người đang tin tưởng nơi mình được có khả năng gì đó, nhưng bị lung lay bởi lời nói thật giả có tính cách đả phá của kẻ khác, liền mất tin tưởng ở nơi mình. Sư cô Hoàng đã lâm vào trường hợp đó, cho nên sau lời của Sư chị tại Ni viện, và Ni sư khách tăng nói Sư cô Minh Hoàng không tu được, làm cho cô cũng có phần lo. Giữa cái tâm âu lo ấy, sư cô Minh Hoàng quyết chí, hăng hái lên, xông pha hành động nhiều việc khó khăn hơn trước, nói rõ hơn ai sai gì , Sư cô Hoàng hoan hỷ sẵn sàng làm ngay không do dự đắn đo, tính toán gì cả, như các việc:

Trưởng ban các khâu văn hóa, văn nghệ, báo chí, lễ lạc, viết banner (biểu ngữ), trang hoàng hội trường khi có lễ lạc, thể thao, điền kinh cho học sinh tập chạy, nhảy xa, nhảy gần, tập đánh bóng bàn, bóng chuyền cho học sinh trung học Bồ Đề, rồi dẫn các em đi thi đoạt giải vô địch với các trường khác. Lần nào thi các môn trường Bồ Đề cũng đoạt giải nhất danh dự. Bên cạnh đó, Sư cô Hoàng còn dạy luyện thi vào lớp 6 ở trường công cho số học sinh lớp năm trường tiểu học Ni viện. Mỗi lần thi như vậy, số học sinh của cô dạy đậu 95%. Sở dĩ các em được đậu cao và nhiều như vậy là do cô dạy kỹ theo kinh nghiệm hơn là theo sách vở. Sư cô Hoàng luôn bận rộn thật nhiều về trưởng của những khâu sinh hoạt đó.

 

SƯ CÔ HOÀNG BỊ SƯ CÔ HIỆU TRƯỞNG ĐÌ

Sư cô hiệu trưởng biết rõ Sư cô Minh Hoàng rất là bận rộn về sinh hoạt nhiều khâu cho học sinh, như vậy hơn ai hết, nhưng Sư cô hiệu trưởng bắt Sư cô Hoàng soạn giáo án. Sư cô Hoàng nhanh ý biết ngay Sư cô hiệu trưởng khởi tâm ghim mình gọi là “đì”, liền hoan hỷ nhận lời. Sau đó Sư cô Hoàng gọi bốn em nam sinh lớp chín viết chữ đẹp, rồi đưa những cuốn sách dạy học cho các em và hướng dẫn các em cách soạn giáo án. Sau đó các em soạn rất đúng y hệt như lời cô Hoàng chỉ dẫn. Chẳng những soạn một tuần, mà soạn nhiều tuần gối đầu như vậy. Sư cô Hoàng nộp cho Sư cô hiệu trưởng từng tuần một, đúng là người  khôn gặp khó là ló cái khôn. Tuần nào Sư cô Hoàng cũng nộp giáo án cho cô hiệu trưởng, thế nào cũng nói thầm trong tâm rằng: con Hoàng nó bận quá nhiều việc, tao đì nó thử, xem có thực hiện được hay không, té ra nó soạn đầy đủ, hay thật!

Bên cạnh nhiều thứ việc tới lui như con thoi, rộn ràng không hở tay, ấy thế vậy mà Sư cô Minh Hoàng vẫn không quên nghiên cứu học hỏi Phật pháp và đọc nhiều thứ sách văn hóa, văn học nghệ thuật, vân vân… Nhờ đó mà Sư cô Hoàng không sợ gì các Sư bà phó giám viện, Ni sư quản lý khởi tâm bắt bí Sư cô Hoàng về chuyện diễn giảng Phật pháp hay các đề tài khác nhau trong cái gọi là bốc thăm, nhưng kỳ thật, lần nào các Sư bà, Ni sư bốc lên tờ giấy nho nhỏ, cũng đều hô lên “Sư cô Minh Hoàng”, với chủ tâm xem Sư cô Hoàng có diễn giảng được hay không. Nếu giảng được và hay thì không bao giờ khen, ngược lại là hạ nhục.

 

TÀI THUYẾT GIẢNG

Cũng may, mỗi lần tập giảng bị gọi lên trước như vậy, Sư cô Hoàng diễn nói thật mạch lạc, rõ ràng về khế lý của bài Phật pháp không khựng, không vấp chỗ nào cả. Đến lần sau, Sư bà đổi đề tài không báo trước, đến giờ sắp tập diễn giảng mới cho biết là hôm nay tập giảng các để tài văn học, văn hóa khác nhau, không giảng Phật pháp nữa. Rồi lại cũng bốc thăm; Sư cô Minh Hoàng cũng là người đầu tiên lên bục giảng. Sư cô Hoàng đứng dậy, đi lên trong trạng thái vui tươi, mạnh dạn như kẻ vừa chiến thắng địch thủ đô vật. Trong khi đó các Sư cô ngồi dưới đều âu lo cho cô Hoàng qua nét mặt nhìn đăm đăm thật im lặng.

Sau cái chấp tay và lời niệm Phật, Sư cô Minh Hoàng dõng dạc tuyên bố đề tài diễn giảng, đó là “Một ngôi sao sáng”. Ngôi sao sáng là câu chuyện của một cô gái Nhật, con của một gia đình thuộc phái Tân Tăng rất giàu có ở Tokyo. Cô ấy có nét đẹp sắc nước hương trời như Tây Thi và thùy mị, cũng như luôn có trạng thái khiêm cung, ái ngữ thiền vị ở tuổi thanh xuân qua trăng tròn. Sau nhiều bằng khoa bảng kỹ sư, báo chí, y dược, du lịch, cô xin cha mẹ đi xuất gia tu hành. Cả hai song thân không bằng lòng, cô cứ giữ nguyên lập trường đi tu làm Sư cô, nên chi cứ vài tuần, cô lại thỏ thẻ bên song thân nài nỉ xin đi tu. Trước lời nài nỉ xin đi tu hoài như vậy của cô, cha mẹ bèn bàn với nhau và phán cho một lời “hãy lấy chồng sanh ba đứa con rồi mới được đi tu”. Cô ta liền ghi vào sổ và record vào máy lời cha mẹ tuyên bố để làm bằng, không chối cãi được. Bởi vì cô ấy rõ biết thâm ý cha mẹ cô nghĩ rằng, đã có chồng rồi, sanh con là sợi dây tơ hồng trói buộc cô, không thể đi xuất gia được. Ai ngờ khi có người đến hỏi, cũng là một gia đình thuộc phái Tân Tăng, cô ấy liền lập lại ý tưởng đi tu cho vị hôn phu nghe trước. Chàng thanh niên Tân Tăng ấy liền bằng lòng ngay, vì tưởng rằng lấy chồng rồi, sanh con ra, thương con, sẽ không đi tu nỗi, luôn quấn quít ở nhà với con. Cô ấy liền ghi vào sổ, vào máy lời vị hôn phu nói.

Quả thật, sau khi sanh đủ ba đứa con, hai trai một gái, và khi gái út lên tám, cô ta liền viết giấy để lại, rồi ôm gói hành trang Bồ Đề lên đường xuất gia. Cô ấy vào một tự viện đầu tiên ở được ba ngày lại bị vị nữ trụ trì bảo đi nơi khác. Cô đến ngôi chùa thứ hai, vào xin tu, vị Ni trưởng ở đó cho, được tuần lại bị Ni trưởng bảo đi chỗ khác tu. Cô ấy đến một tu viện nữ. Sư bà giám viện bằng lòng tiếp đón và sắp xếp chỗ ở. Ở được gần tháng, lại bị Sư bà viện chủ gọi đến bảo đi chỗ khác tu.

Trước việc nhiều nơi không cho cô ở, cô mới nhận ra rằng tại vì do nét mặt cô quá đẹp, mặc dù đã sanh ba người con mà vẫn còn đẹp. Việt Nam có câu “gái một con trông mòn con mắt”, đằng này cô đã sanh ba con rồi, mà vẫn làm cho các nữ tu ở các nơi, khi cô vào tu họ bị mòn con mắt, nên chi đuổi đi để khỏi bị mòn con mắt.

Biết làm sao hơn, đi tới chùa nào cũng bị khước từ, cô bèn đi thuê phòng ở trọ và làm nghề ủi quần áo để kiếm sống qua ngày trong lúc chờ tìm cách nào để làm cho cái mặt bớt đi nét đẹp, để được xuất gia tu hành làm Sư cô.

Qua ý nghĩ đó, một hôm đang ủi quần áo, cô mạnh dạn và quyết liệt đưa mặt bàn ủi đang có sức nóng ở độ cao lên trên má bên phải của cô. Bị phỏng, cô được người lân cận đưa đi bệnh viện băng bó. Kể từ đó mặt cô có sẹo. Cô liền vào một nữ tu viện xin tu. Cô được tu, làm Sư cô trong đó suốt cả cuộc đời cho đến khi xả bỏ báo thân trần thế.

Trong lúc Sư cô Minh Hoàng diễn giảng câu chuyện “Một ngôi sao sáng” ấy, hàng trăm cử tọa ai cũng rơi lệ.

Suốt thời gian không hạn định quyết tâm tu học và làm nhiều việc Phật sự, từ thiện để đánh đổi việc không được tu để được tu, Sư cô Minh Hoàng tự mình đi tìm việc và được mọi người sai khiến làm việc, tức là vừa tình nguyện vừa bị chỉ định. Bị chỉ định công việc, là việc ấy không ai làm được nên giao phức cho Sư cô Minh Hoàng là xong ngay.

 

SƯ CÔ HOÀNG SÁNG TÁC VĂN HÓA PHẨM

Một hôm có phái đoàn sĩ quan cao cấp của quân lực Đại Hàn (Nam Triều Tiên) đến thăm Ni viện. Bằng tấm lòng tôn kính Tăng Ni Phật giáo Việt Nam, ông trưởng phái đoàn là một Trung tướng, xin trình bày về việc sẽ mở một phòng triển lãm các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc Á châu. Sau đó nhã ý xin mời quý Sư cô tham dự trưng bày tác phẩm tự chọn.

Sau khi phái đoàn ra về, Sư bà phó giám viện hỏi từng Sư co,â có ai sáng tác được tác phẩm văn hóa, nghệ thuật gì không, để triển lãm. Sư cô Minh Hoàng hoan hỷ nhận lời ngay. Nhận lời rồi, cô cũng phân vân, không biết làm thứ gì cho nó nổi lên nét nghệ thuật. Sư cô Hoàng liền nghĩ ra con voi trắng đẹp hơn và có ý nghĩa về chuyện hoàng hậu Ma Gia nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông bên phải, mang thánh thai Thái Tử Tất Đạt Đa. Được có đề tài rồi, Sư cô Hoàng đi mua vải trắng loại dày và nhiều ký lô bông gòn, đem về cắt thành hình con voi cỡ lớn như voi thật, khâu lại từng bộ phận, rồi độn bông gòn vào đâu vào đấy, khâu lại lần chót. Thế là được có một voi trắng với 6 ngà cong vòng quá nổi bật đứng sừng sững giữa phòng triển lãm. Bên cạnh đó, Sư cô Hoàng cũng tạo ra một bình mực và cây bút thật lớn. Bình mực cỡ như cái lu, cây bút dài như cây đòn gánh. Cây bút cắm vào bình mực. Hai tác phẩm con voi và bình mực của cô được hạng nhất danh dự. Đến khi được mời người đến dự khai mạc và lãnh bằng danh dự, là sư cô hiệu trưởng đại diện cho Sư bà giám viện.

 

SƯ CÔ HOÀNG XÔNG PHA LÀM NHIỀU VIỆC ĐẠO ĐỜI

Những việc làm nào mà vị Ni hay Tăng có chủ trương nhiều lợi ích đến cho cộng đồng Phật giáo hay dân tộc hơn là cho mình, gọi hành động đó là Bồ Tát hành do có Bồ Tát nguyện. Sư cô Minh Hoàng tiếp tục tình nguyện Bồ Tát hành cho cộng đồng Phật giáo Việt Nam ở phần việc khó nhọc và nguy hiểm đến tính mệnh, đó là cãi trang một cô gái nghèo khổ mặc áo quần xạc xài, đi dép nhật, đội nón cời bán cà rem, đi trong các con hẻm thành phố Nha Trang để tìm cách đem nước chanh, sâm, đến chỗ có Tăng Ni đang ngồi tuyệt thực cả tuần lễ để đòi chính quyền Thiên Chúa giáo Ngô Đình Diệm hãy cho Phật giáo được tự do hành đạo như Thiên Chúa giáo vào mùa hè 1963.

Không những một mình Sư cô Hoàng đem nước đến chỗ tuyệt thực của Tăng Ni, mà có cả một số nữ sinh công, tư Nha Trang, nhưng thường bị cảnh sát bắt, còn Sư cô Hoàng nhiều lần vượt qua hết mạng lưới ngăn chận, truy lùng của cảnh sát do cô niệm thần chú Phật mẫu Chuẩn Đề và biết cách tránh né và kể cả đối đáp với cảnh sát, nếu không nói là rất bình tỉnh tự biện hộ cho mình.

Đăng Triệu còn nhớ Việt Nam từ 1975 về trước, là một quốc gia đầy chiến tranh Việt-Pháp (1945-1954) rồi đến nội chiến huynh đệ tương tàn nam bắc đánh nhau (1960-1975); vì thế dân ta, chỗ nào, ở nam, ở bắc đều có người chết và nhà tan cửa nát, chạy loạn trốn đạn, trốn bom. Vào những năm 1968-1972 có nhiều cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt nhất được có tên Mùa hè đỏ lửa 1972, nơi bị nặng nhất là Quảng Trị. Người dân Quảng Trị chạy từ ngoài đó vào các tỉnh miền trung. Trước khổ nạn bị mất nhà, chính phủ đương thời miền nam (Việt Nam Cộng Hòa) tìm chỗ để định cư cho dân Quảng Trị, đó là Suối Cát ở Phan Rang. Tại đây mỗi gia đình được hai sào đất và một số tôn cách nhiệt, một số tiền mặt vài ngàn bạc.

Biết được đồng bào Quảng Trị định cư ở Suối Cát Phan Rang, hai hội từ thiện Phật giáo vào đó để xây dựng nhà ở, ủy lạo vật chất và tinh thần, đó là các sinh viên trường  TNPSXH từ Sài Gòn ra và Nha Trang vào.

Nói hội từ thiện Phật giáo Nha Trang, thật sự đó là Sư cô Minh Hoàng và 18 em nam nữ học sinh trung học Bồ Đề. Xong công tác xây dựng cơ bản, dựng cột, kèo, đòn tay và lợp tôn, các sinh viên TNPSXH rút về, duy chỉ còn lại Sư cô Minh Hoàng và 18 em nam nữ học sinh tiếp tục giúp đồng bào được có nơi ăn ở, ngủ nghỉ, vệ sinh.

Sở dĩ Sư cô Minh Hoàng quyết định lưu lại để giúp đồng bào một số việc ăn ở, là vì xét thấy nhiều gia đình chỉ có hai vợ chồng già không con cháu, chỉ có bà mẹ và hai con dại, chỉ có ông cha già và hai đứa con ở tuổi thiếu niên… đến ở vùng đất mới không bà con quyến thuộc, hơn nữa hằng trăm gia đình Quảng Trị đều là Phật giáo, do vậy Sư cô Hoàng đặt tên làng Quảng Đức.

Suốt thời gian lưu lại làng Quảng Đức, Sư cô điều động các em học sinh theo cô vào Phan Rang, về Nha Trang để xin thùng gỗ, giấy carton cứng và bất cứ thứ gì làm vách là xin hết, rồi thuê xe chở về làng để ngăn ra, chỗ này là phòng ngủ, chỗ kia phòng ăn, nhà bếp, vệ sinh, vân vân… Cũng như giúp đồng bào tái lập việc thờ Phật, tụng  kinh niệm Phật. Sư cô và các em học sinh về Nha Trang mua, xin kinh Nhật tụng, tượng Phật, ai cho tượng Phật Di Đà, Thích Ca, Quán Thế Âm đều nhận hết, đem về làm lễ an vị cho đồng bào.

Thời gian giúp đồng bào Phật tử tại làng Quảng Đức được tạm có nơi ăn, chốn ở trên cả tháng như vậy, là nhờ các em học sinh nghỉ hè và sự điều hành sinh động, linh hoạt vui tươi của Sư cô Minh Hoàng.

Điều đáng nói ở đây, đó là một người nữ làm công việc xây dựng (construction), mà người nữ là Sư cô Hoàng nhỏ con, gầy ốm!

Với hàng Bồ Tát, thật sự ở ngay cấp sơ nghiệp hoan hỷ địa, đã có trí tuệ sáng rực nơi đôi mắt, nên thường thấy được nỗi khổ của các tầng lớp chúng sanh, liền tự nguyện trở thành người bạn của hết thảy xa, gần, nhất hạng bên cạnh mình, ai cũng đáng thương yêu, đáng giúp đỡ nhiều việc, chứ không riêng gì cha, mẹ, anh em, quyến thuộc.

Sư cô Minh Hoàng đi dạy học bao nhiêu năm về trước, không nhận tiền thù lao, giao cho Sư cô thủ quỹ giữ, ba tháng lấy một lần. Tiền đó, Sư cô sử dụng vào các việc mua nhiều thức ăn làm bữa tiệc thết đãi đại chúng bữa ăn thịnh soạn, từ trên các Sư bà, Ni sư, Sư cô xuống tận dưới các cô điệu nhỏ cấp sa di, ai cũng được ăn như nhau. Còn lại mua sắm các thứ kẹo bánh, hoa quả thật nhiều, cả 12 mâm để cúng thí thực cô hồn. Cúng xong đem phân phát cho các trẻ em chung quanh Ni viện.

 

SƯ CÔ HOÀNG VỀ THĂM VÀ NÓI PHÁP CHO THÂN MẪU

Người xuất gia, khi thọ giới Sa di đã tự quay mặt về hướng bắc lạy cha mẹ ba lạy ở cái nghĩa cắt ái ly thân. Xa cha mẹ, quyến thuộc trên vận hành tu hành. Tuy nhiên một khi cha mẹ bị đau bịnh, cũng được phép về thăm.

Sư cô Hoàng sau khi nhận điện tín của bà chị thứ sáu đánh vào nói nội dung “Má bịnh nặng, em về gấp”. Xem xong điện tín, Sư cô Hoàng nói trong lòng “má nhớ mình quá, gọi về để bà thăm, chứ làm gì có bịnh nặng! Nhưng lỡ ra bị bịnh thật và chết, mình không về là tội bất hiếu, thôi về đi”. Sư cô Hoàng sắp xếp công việc ở trường, trong đó thuê người dạy thế trước khi lên máy bay.

Máy bay đáp xuống phi trường Đà Nẵng lúc 11 giờ sáng, Sư cô Hoàng mới vừa qua ngỏ ra, bà má chờ sẵn đâu đó, bà nói lớn “Má đây, má đây nè!”, làm cho mọi người chung quanh đưa mắt dáo dác, khi trực nhận ra, thấy bà già và một Sư cô nhỏ đang đứng nép mình bên lối ra nói nói, cười cười.

Về đến nhà, Sư cô Hoàng than với bà má rằng:

- Má ơi! Má không bịnh, mà nói bịnh. Má biết không, công việc của con trong đó nhiều lắm, nên mỗi lần đi vắng là con phải thuê người dạy thế, làm thế, không thể để trống được. Thuê họ như vậy, con phải trả tiền gấp đôi, như tiền cơ bản một trăm cho một giờ dạy, đằng này con phải trả gấp đôi là hai trăm.

- Má biết con bận nhiều việc chớ, sao không biết, nhưng vì nhớ con lắm, nếu nhắn lời con về má thăm, con đâu có về, nên chi phải nói dối má bịnh nặng, con mới về.

Suốt thời gian lưu lại gia đình cả tuần lễ, Sư cô Hoàng được bà má chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, một cách lân mẫn không ngừng nghỉ qua các trạng thái thương yêu âu yếm, mặc dù Sư cô Hoàng đã lớn, mà bà má xem như còn bé thuở nào, vì cô Hoàng là con gái út, xa con lâu ngày, được gần con là hạnh phúc lắm. Một trong những trạng thái thương yêu ấy, bà nằm kề bên cô Hoàng lúc ngủ, rồi lén đưa tay mân mê con mình, hôn lên má, lên vai… Cô Hoàng tỉnh giấc nói má ơi con đã thọ giới rồi, má nằm xê ra. Bà già liền riu ríu xê ra, rồi nói má thương con mà, vì con còn bé quá. Lúc đó Sư cô Hoàng không ngủ nữa, nói đạo lý nhân quả cho bà má nghe. Nói đến đâu bà má nhận biết rõ ràng đến đó, vì bà má là con nhà giàu được đi học Việt, học tiếng Pháp và học thêm nho, nên chi đêm nào bà cụ cũng đem truyện Kiều ra giảng cho con gái mình nghe. Vì thế sống suốt cả cuộc đời, bà cụ hết lòng giữ giới, nhất là giới sát, như vén mùng bắt muỗi, đem ra thả tận ngoài sân.

 

SƯ CÔ HOÀNG LUÔN QUAN TÂM GIÚP ĐỠ HỌC SINH NGHÈO VÀ CÚNG DƯỜNG CÁC NI SINH

Mỗi lần về thăm gia đình, rồi trở lại nhiệm sở, bốn bà chị góp tiền cho, riêng bà má cho 2 lượng vàng và một số thực phẩm khô, nào là sữa ghi gô, đồ hộp, nấm rơm khô, đường cát, bột ngọt… được đóng thành kiện nặng cả trăm kí lô để cúng dường đại chúng.

Sư cô Hoàng mua một con heo sành, cất dành tiền và vàng vào trong đó để dành giúp cho những nam, nữ học sinh trung tiểu học, em nào quá nghèo không tiền đóng học phí, Sư cô đóng cho. Những nam sinh nào để tóc dài, cô gọi đến, lấy kéo cắt một mái, rồi cho tiền đi hớt tóc. Những em học sinh nào mặc quần ống loe, cô gọi đến lấy kéo cắt rồi cho tiền may quần khác. Còn hai lượng vàng, Sư cô Hoàng đem ra tiệm vàng thuê thợ đổ thành tượng Phật Quán Thế Âm nho nhỏ, gần trăm tượng có kim găm phía sau, cất dành để cho những nữ Phật tử nào nghèo đến Ni viện lễ Phật mà có con nhỏ.

Sư cô Hoàng cũng không quên cúng dường tiền mặt cho các Sư cô nghèo trong Ni viện để tiêu dùng lặt vặt. Cách cúng dường tiền cho các Sư cô trong Ni viện rất kín đáo, không đưa trực tiếp, mà bằng cách len lén để trên đi văng, chỗ nằm của mấy cô. Vì thế, mấy Sư cô nhìn thấy một cục tiền trên đi văng mình, bèn hô lớn lên, tiền của ai bỏ ở đây mà nhiều vậy, em làm gì có tiền, tiền của huynh nào đây, của cô nào ri hè!

Sư cô Hoàng để mặc cho mấy Sư cô la hoài một hôài, cô Hoàng liền lên tiếng: tiền nơi giường mình là của mình, biết đâu ở trong túi lâu ngày rồi quên, khi bị rớt ra tưởng của ai, thôi đừng thắc mắc, cất mà xài đi!

Không những cúng dường bằng tiền cho các Sư cô bạn đồng tu, mà cúng dường bằng thức ăn nữa, khi xét thấy những người bạn mình để bụng trống đi học ở trường, vào phòng học ở Ni viện. Sư cô Hoàng được Sư bà cấp cho chiếc xe bờ rô đi mua các thứ văn phòng phẩm. Nhân tiện cô mua cả chục thùng mì ăn liền hiệu Quán Thế Âm. Đến tối, lúc 10 giờ p.m., các Sư cô đang ngồi thiền niệm Phật trên đi văng, Sư cô Hoàng đi nhẹ đến, vén mùng he hé, bỏ vào đó cho cô này 4 gói, cô kia 5 gói, rồi biến đi cho thật lẹ.

Khi nghe hồi chuông xả thiền, có Sư cô nằm xuống, có Sư cô đi restroom lần chót trước khi ngủ, chừng đó cô nào cũng thấy ở cuối đi văng của mình có mấy gói mì, nhưng chả biết ai cho. Một vài Sư cô đem cất mì trong im lặng, một vài Sư cô nói “ôi chao! Sướng chi lạ, sáng mai mình được ăn mì Quán Thế Âm!”

Ngoài mì gói ra, còn có dưa hấu và dứa. Sư cô Hoàng biết sắp tới sẽ có một ngày nghỉ lễ. Đến đúng ngày ấy, cô đi mua hai thứ ăn giải khát đó vào buổi trưa, đem về đâm ít muối ớt, để tại đi văng của một cô, sau đó các Sư cô tự xẻ ra ăn với nhau.

Tâm từ rộng lớn của Sư cô Hoàng, không những chỉ bố thí vật chất, mà có cả tình cảm đối với người ngoài xa lạ, người đồng môn, đồng sàn thật là nồng nàn chơn chất, được hiển lộ ra một số hành động hiện thực để làm tin, không dối lòng, cho đến nỗi ăn no rồi, được người thân quen mời ăn, vẫn ăn, dù cho bị ách bụng, ọi ra, gọi là tấm lòng nể bạn, nể người, sợ mích lòng. Đó là một đức tính nhân bản đặc biệt, rất hiếm thấy ở hai giới Tăng Ni Phật giáo Việt Nam.

 

TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG HIỆN ĐẠI HÓA PHẬT GIÁO QUA HÀI KỊCH

Bản tính của Sư cô Hoàng luôn luôn vui tươi, linh hoạt, sinh động trong đời sống lúc còn sống với cha mẹ và vào chùa, vì vậy cô không muốn mọi người có sắc thái ủ dột, ngăn cách, phong kiến. Cô thích mọi người chung quanh vui vẻ, hòa hợp, dân chủ, tương kính lễ độ với nhau. Cho nên qua mấy năm sống trong Ni viện Nha Trang, cô thấy tết năm nào cũng vậy, cứ sáng mồng một đầu năm, đại chúng không ai có niềm vui trong lòng, bị căng thẳng, ủ dột, âm thầm… bởi phong cách lãnh đạo tăng chúng quá khắc khe, thiếu vui tươi qua lời huấn thị la rầy đại chúng, hết chuyện này đến chuyện khác, thật chua cay của Sư bà và vấn đề đi lễ tổ ở chùa khác đầu năm mồng một tết. Do đó Sư cô Hoàng diễn lại hài kịch ông già hàng xóm chúc tết Sư bà đầu năm, mà cô đã có lần diễn tại chùa Ni ở Sài Gòn cho mục đích để Sư bà đừng la rầy ni chúng nữa, phải vui vẻ đầu năm.

Trước tết, cô Hoàng mượn áo dài, khăn đóng, râu giả, kiến trắng đeo mắt. Sáng sớm mồng một tết, cô Hoàng phục sức tất cả, rồi nhờ Sư cô tri khách vào mời Sư bà phó viện trưởng ra. Sư bà vừa ra, Sư cô Hoàng nói;

- A Di Đà Phật. Sư bà khỏe mạnh không?

Sư bà nhìn đăm đăm, rồi cất tiếng hỏi:

- Thưa cụ, cụ cần gì?

- Con mời Sư bà ngồi.

- Mời cụ xơi nước ạ!

- Cảm ơn Sư bà, con không uống. Hôm nay con đến thăm Sư bà, kính chúc Sư bà thân tâm an lạc suốt cả năm và sau đây con xin thưa vài việc, đó là các Sư cô không ai về thăm nhà vào ngày tết, ở lại Ni viện, ai cũng buồn tênh, ủ dột, do đâu như vậy! Ngày mồng một ở tại phòng niệm Phật, bày chi cái chuyện đi lễ tổ ở xa, sao không lễ tổ tại Ni viện mình. Mấy Sư cô đã cực khổ trong ngày 30 rồi. Người xưa có nói buổi sáng ra gặp đàn bà là không tốt, liền đi vô. Sáng mồng một các thầy đi ra gặp Sư bà đi lụp cụp đến đầu năm, đầu tháng là xui lắm đó. Các thầy không thích đâu. Mình có tổ ở nhà sao không lễ, lên đó sáng sớm, các thầy chưa ngủ dậy mình đã có mặt ở đó. Các thầy thấy Sư bà và chúng Ni đến, họ sợ mất hên suốt năm.

Sư cô Hoàng nói thật lớn cho thấu tai Sư bà, làm cho Sư bà gật đầu như đồng ý, đưa mắt nhìn hoài nơi ông già hàng xóm giả, không biết là ai. Phía bên trong các Sư cô cười ôi là cười, cười bò lăn, bò càn, sằn sặc ra tiếng rồi lại nín, nín để nghe lời Sư bà hỏi:

- Làm sao cụ biết hết chuyện ở đây?

- Dạ con ở sát bên ni.

Sau lời Sư bà hỏi làm sao biết hết chuyện ở đây, làm cho các Sư cô bên trong cười rộ lên, làm cho Sư bà phát hiện biết Sư cô Hoàng giả ông già hàng xóm. Sư bà cũng cười theo. Nhờ Sư cô Hoàng đóng hài kịch đó mà những năm kế tiếp, Sư bà hết la chúng, hết bắt đi lễ tổ ở chùa khác vào ngày mồng một tết đầu năm.

Đăng Triệu hỏi:

- Anh Tuệ Đạo, nội dung hài kịch của Sư cô Hoàng diễn nói như vậy, đối với chư tôn đức Tăng Ni lãnh đạo tập thể tăng chúng, có bị phạm thượng không?

Hoàn toàn không có gì là phạm thượng cả. Đó là tư tưởng cách mạng hiện đại hóa Phật giáo ở bộ  phận giáo chế, đúng theo bản chất của pháp môn là biến đổi cách thức tri hành khế lý cho linh động. Với giáo chế càng sinh động và linh hoạt hơn, càng phù hợp với căn tính, trình độ và hoàn cảnh con người trong mọi thời đại, thì tập thể Tăng Ni, cũng là những nhân tố tiến bộ theo quỹ đạo văn minh khoa học, kỹ thuật của nhân loại, cho nên giáo chế sinh hoạt tăng đoàn phải có đổi mới cách thức giáo dục tăng chúng, không thể áp dụng mãi giáo chế cổ xưa được nữa, vì sẽ tạo nên cho Phật giáo ở bản thân Tăng Ni có hình thái bi quan yếm thế chán đời.

Vị đại sư trong Phật giáo đã mạnh dạn đứng lên tuyên bố cách mạng hiện đại hóa Phật giáo vào đầu thế kỷ 20, thời đại văn minh cực thịnh của nhân loại, đó là Bồ Tát Thái Hư Đại Sư ở Trung Quốc. Ngài tuyên bố ba hiện đại hóa Phật giáo:

      - Cách mạng giáo lý

      - Cách mạng giáo chế

      - Cách mạng giáo sản

Nhờ ba hình thức cách mạng hiện đại hóa của Bồ Tát Thái Hư Đại Sư mà Phật giáo Trung Quốc nói chung, ở Hồng Kông, Đài Loan được phát triển rất nhanh trên bình diện văn hóa rất sinh động ở trong nước và ra tận các nước Âu Mỹ.

Với tâm tư của Sư cô Minh Hoàng mong muốn các Sư bà, Ni sư trong các Ni viện phải cải tiến giáo chế ở việc giáo dục Ni sinh, theo lề lối mới cho sinh động, linh hoạt để giảm bớt đi khắc khe, căng thẳng thần kinh đối với chư Ni sinh qua hài kịch ông già hàng xóm chúc tết Sư bà ở Sài Gòn và Nha Trang, được xem là có tư tưởng cách mạng giáo chế như Bồ Tát Thái Hư Đại Sư. Mặc dù Sư cô Minh Hoàng chưa nghe biết đến ngài Thái Hư Đại Sư có ba việc cách mạng Phật giáo ấy, nhưng Sư cô Minh Hoàng đã nảy sinh tư tưởng cách mạng Phật giáo qua hài kịch, do cô sáng tác và đạo diễn để phá trừ mọi kiến chấp, đúng như lời Phật thường bảo các vị Tỳ kheo:

- Này các thầy Tỳ kheo, ta nói rằng sự phá trừ kiến chấp là việc của kẻ đã hiểu và đã thấy, chứ không phải việc của kẻ không hiểu và không thấy mà làm được.

Đích thực, chỉ có những vị Tỳ kheo Tăng, Ni nào vốn có được tâm thức thông thái văn hóa bác học Phật giáo, mới thấy được bản chất pháp môn Phật luôn biến đổi, tùy duyên bất biến, mới thấy được tính chất chấp kiến rất nguy hiểm. Nó như là chất nổ làm băng hoại, tan rả sự đoàn kết, mất đi tâm từ bi, không yêu thương nhau, bỉ thử nhau… Những vị đó liền tìm cách phá trừ kiến chấp của mình và của người để xây dựng lục hòa, biết thương yêu, tương kính nhau trong tăng đoàn.

Từ xưa nay trên quê hương nước Việt, cũng có lắm vị Tỳ kheo Tăng, Ni đã đề xướng phá trừ  kiến chấp (kiến thủ kiến – giới cấm thủ kiến) trong tăng đoàn ở các Phật Học Viện bằng lời văn bản, lời thơ hay hành động thưa gởi một cách khiêm cung, ái ngữ… Nhưng xét ra không bằng hài kịch ông già hàng xóm chúc tết Sư bà trong sáng sớm mồng một đầu năm của Sư cô Minh Hoàng sáng tác, có hiệu lực hơn bởi ngôn ngữ và hành động diễn xuất có văn hóa và nghệ thuật, làm cho đối tượng (các Sư bà) phải chấp nhận hủy bỏ lề lối cổ hủ xa xưa trong việc điều hành giáo dục chư Ni sinh ở Ni viện.

Do được có thêm ba đức bi hỷ xả, nếu không nói là có tiến bộ vượt bực trên bước đường tu học và hành Phật đạo, Sư cô Minh Hoàng đã đạt được đức tính cao quý nhất của hàng xuất gia, đó là tâm phá trừ mọi kiến chấp của mình và kể cả của người, bởi tâm vốn thông thái văn hóa Phật giáo và thế gian qua quá trình có học và nghiên cứu, là một quy luật khó tránh, cho nên Sư cô Hoàng tự khởi xướng, chế tác, tri hành trong mọi thời nhiều việc ích lợi cho tha nhân trong và ngoài Ni viện bằng tâm nhẫn nhục, chịu đựng trước nhiều đối tượng mang tính thế gian được hiển lộ ra sắc thái, âm thanh chứa đựng hạt giống phiền não, thị phi…, nhưng Sư cô Hoàng đều im lặng như chánh pháp, tuy nhiên có lúc cũng phải nói năng như chánh pháp.

Tự khởi xướng, chế tác giáo vụ và điều hành của Sư cô Hoàng thì nhiều lắm. Tuy nhiên việc sau đây được rõ nét hơn cả.

Kể từ khi Ni viện được có thêm trung học Bồ Đề Vĩnh Thái, Sư cô Hoàng trong vai trò trưởng ban văn nghệ, cô đã tự vận động và tổ chức văn nghệ bỏ túi, nhưng rất đặc sắc ca, vũ và kịch ngay tại trường vào những tháng hè để làm vui cho tất cả học sinh trung và tiểu học, ký nhi viện. Mỗi xuất diễn văn nghệ như vậy, bốn lớp được vào xem, rồi tiếp theo bốn lớp khác.

 

THOÁT KHỎI ĐỘC TỐ

Phải nói rằng, bất cứ công việc lớn, nhỏ nào tại Ni viện Sư cô Hoàng đều có mặt làm trưởng toán chỉ đạo công tác. Một hôm cô và một số cô trẻ tuổi, cùng nhau phá giàn củi mục, thấy một ổ nấm mèo. Sư cô Hoàng bảo một Sư cô trong toán hái hết, gở hết đem vào ngâm nước muối trước. Xong công tác dọn củi , Sư cô Hoàng vào thấy mâm cơm cho toán công tác dọn củi hơi ít thức ăn. Hơn nữa với lòng đói qua mấy tiếng lao động, Sư cô Hoàng tự tay xào nấm mèo để có thêm thức ăn ngon. Cô Hoàng rửa nấm nhiều lần, để ráo nước, bật lửa lên, bắt chảo lên, cho dầu ăn vào, dầu bốc khói, cho ba rô vào khử, cho nấm mèo vào, tao tới tao lui, nêm xì dầu, tiêu, đường, bột ngọt, thêm một ít nước, rồi cho cơm vào, múc ra cho mỗi cô một tô.

Ăn thật là ngon, nhưng sau đó tất cả đều xỉu hết, ngả nghiêng, cứng miệng. Mấy Sư cô lớn liền báo động cấp cứu. Cô này đâm đậu xanh, cô kia ra hái sả, cô nọ giả gừng, cô khác đi xin nước tiểu trẻ con bên ký nhi viện, xúm nhau cạy miệng từng cô, đổ các chất đó vào. Vài phút sau, tất cả cô xỉu đều ọi hết ra nấm mèo có chất độc, được khỏe lại bình thường.

Một ngày khác, Sư cô Hoàng gom lại hằng chục hột ô ma gọi trái trứng gà, sau bữa ăn trưa của đại chúng, đem rửa sạch, bỏ vào nồi luộc chín. Sau đó đem phân phát cho các Sư cô, gặp ai mời nấy. Thế là ăn xong, các Sư cô ai cũng xỉu hết. Cũng lại được các Sư cô không ăn hột ô ma làm công việc cấp cứu bằng những thần dược cũ soạn lại: gừng, sã, đậu xanh, nước tiểu hòa chung, rồi cạy miệng các cô xỉu, đổ vào, vài phút ọi ra hết, được khỏe lại, đó là bị ngộ độc lần thứ hai.

 

LIỄU NGỘ ĐƯỢC BẢN CHẤT THẾ GIAN

Vào buổi sáng mùa thu nọ, Sư cô Hoàng ngồi ngả lưng ra sau ghế, vòng đôi tay lên ngực, nhìn ra cửa sổ, tư lự xuyên suốt qua không gian Nha thành u ám, chìm ngập trong cơn mưa thu rả rích, rơi tùng cơn lách tách lên máng tôn bên cửa sổ. Bỗng có tiếng chó cắn lộn vang lên, làm cho tâm thức cô trở về thực tại, cô nhìn thấy một bầy chó đực, cái đang trốn mưa dưới gốc cây điệp nhiều trái sau những tháng hè hoa hết đỏ.

Với loài súc sinh hữu tình, ở đâu, môi trường mưa hay nắng mà chúng chả ngồi yên, không làm tình, cũng cắn xé! Những con chó đực cắn nhau để chiếm đoạt con chó cái đang bịnh nằm im. Con chó mẹ cắn xé lại các chú chó đực để bảo vệ sức khỏe cho con mình. Cuối cùng chó mẹ chịu thua trước bạo lực của các con đực. Sau đó những con chó đực cao bay xa chạy, vắng bóng biền biệt không hay biết gì đến con chó con kia mang cái bầu tâm sự bởi sự bất lực của mẹ nó.

Qua giờ phút quán niệm thấy được bản chất chúng sanh ở loài người, loài vật đều giống nhau là phản bội, thay lòng đổi dạ, phủ phàng, đúng như lời cổ nhân nói “giàu đổi bạn sang đổi vợ”. Vì thế có nhiều nữ Phật tử khóc lóc, khổ tâm do bị chồng bỏ, bị hất hủi theo bà nhỏ, vì bà lớn bị phai tàn nhan sắc.

Trước những hiện tượng giới nữ thường ưa bị giới năm bạc đãi, phản bội, phủ phàng, hất hủi… Sư cô Hoàng nhớ lại lời của một sư khách đến thăm, rồi nắm lấy bàn tay cô Hoàng nói rằng: “không tu được phải bị lấy chồng đến những bốn ông. Lấy chồng thì đàng hoàng, chăm lo, nhưng mấy ông chồng không đàng hoàng”, làm cho Sư cô Hoàng sợ quá nên ra sức quyết tâm hành trì giới pháp cho nghiêm túc.

Tính chất cõi trần gian này là sinh tử, luân hồi khổ đau do không tự thể, luôn dính mắc nhau bởi âm dương, duyên này hợp với duyên kia, nam nữ, cái đực tương duyên nhau mà sanh ra Ái thủ hữu, là năng lực dục tình, đúng như giới luật Sa di nói: “Căn bản sinh tử dục vi đệ nhất”. Đó là lời Phật cảnh giác người xuất gia nam giới hãy xa lìa nữ giới. Người xuất gia nữ giới hãy xa lìa nam giới. Được xa lìa nam hay nữ suốt trên vận hành tu tập giới luật và Phật pháp từ lúc trẻ cho đến tuổi già, chắc chắn sẽ được giải thoát về cõi Phật Di Đà là cõi không có nữ chỉ toàn là nam, đúng tu là chuyển nghiệp. Nghiệp được nói ở đây là nghiệp vợ chồng, cho nên tu tập giới luật để xa lìa ái dục mà thoát khỏi cảnh chồng vợ. Ngay cả đạo lý của đời cũng có câu “Nam nữ thọ thọ bất thân” để giữ trinh tiết.

Đã là con người dù xuất gia Tăng hay Ni đều có tính chất nghiêng về nam, về nữ. Nếu không tự cảnh giác hành trì giới luật, thì có thể bị dính mắc đường tình, nhất hạng là Tăng Ni có tài văn hóa, văn nghệ, thi ca, Phật pháp và cộng thêm nét xinh đẹp, khôi ngô tuấn tú, dễ bị sa ngả vào đường tình. Vì vậy mà Sư cô Minh Hoàng luôn luôn được chư tôn đức lớn tuổi bên Tăng bên Ni nói lời khuyến tu và tìm cách bảo vệ cô Hoàng. Chẳng hạn, suốt thời gian học Phật pháp trên Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, Sư cô Hoàng được cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dạy rằng: hôm nào có Hòa Thượng vào chào, sau đó ra ngồi ở vườn hoa học bài, không được đi tiếp xúc với các Tăng sinh nam, chờ cho chuông điện reo lên báo hiệu giờ học đã đến, thì mới được vào lớp. Và khi nào không có Hòa Thượng, cũng phải ngồi học ở vườn hoa, không được đi đâu hết.

Chư tôn đức bên Ni quan tâm đến các Sư cô trẻ nhiều hơn. Có một lần, Sư bà Thể Quán trong lúc tâm tình với Sư cô Hoàng, Sư bà nói:

- Các con à, ta mong các con qua mau tuổi trẻ, tuổi già đến để tâm các con được yên ổn tu hành, phụng sự đạo pháp.

Sư cô Minh Hoàng liền tác bạch:

- Kính bạch Sư bà, tuổi trẻ làm được nhiều việc hơn tuổi già, xông pha dấn thân làm không biết bao nhiêu việc lớn, nặng nhọc. Tại sao Sư bà muốn chúng con mau già?

Sư bà liền giảng:

- Tuổi trẻ là tuổi bồng bột, sẽ bị đời lôi kéo, cám dỗ bởi tình ái mà ra đời, hết làm người xuất gia, uổng lắm! Chưa nói đến giáo hội bị mất nhân tài là đằng khác!

Sư cô Minh Hoàng tuyên bố:

- Sư bà yên tâm. Con không bao giờ bị đời cám dỗ, chinh phục. Con chinh phục đời thì có, chứ đời khó chinh phục con! Bởi vì con đã phát tâm đi tu để thành Phật ngay từ lúc còn nhỏ.

 

THI LÊN LỚP VÀ BỊ NỘI BỘ NI CHÚNG GANH TỴ

Một ngày nọ, Sư cô Hoàng bị bịnh cảm cúm nhằm vào ngày thi. Sư cô Hoàng cũng cố gắng lên lớp để làm bài, khi nhìn vào đề thi, đề ấy không nằm vào một số bài mà vị giáo sư đã đưa ra, dặn dò các Ni sinh phải học cho kỹ những bài ấy để thi. Sư cô Hoàng sẵn cơn bịnh, liền về phòng nằm nghỉ, không làm bài. Đến giờ nộp bài, Sư cô Hoàng nộp cho ông thầy tờ giấy trắng. Ông thầy ra bài thi cũng là trong ban giám khảo, liền gặp Sư bà giám viện bạch rằng: “Sư cô Hoàng không làm bài, lại nộp giấy trắng.” Sư bà liền gọi Sư cô Hoàng lên hỏi lý do, tại sao không làm bài thi. Cô Hoàng trả lời:

- Trước đó cô trưởng lớp bảo chúng con học ôn những bài có tên rõ ràng theo lời giáo sư X đã căn dặn, nhưng giáo sư X đã không ra đề thi ở những bài đã bảo học, lại ra đề thi ngoài những bài học ấy, vì thế mà con không làm bài, con nộp giấy trắng.

Qua lời trình bày của Sư cô Hoàng, vị giáo sư X nói lời nhận chịu sai lầm, nhưng ông ta nói rằng “mặc dù đề thi ấy không dặn học đến, nhưng biết chắc chắn Sư cô Hoàng dư sức làm”

Sư bà giám viện gọi một Sư cô đi lấy cái roi, rồi ra lệnh Sư cô Hoàng chọn một trong hai: “làm bài thì khỏi bị ăn đòn 15 roi, bằng không thì không tha, chị chọn cách nào, nói mau lên”.

Sư cô Hoàng chịu vào lớp làm bài. Làm xong bài, Sư cô Hoàng bị quý vị giám khảo ở Sài Gòn ra chấm thi gán cho cái tội cao ngạo, yêu cầu ban giám khảo cho điểm hạnh kiểm.

Thật sự trên trần gian này, con người ở lãnh vực nào, cư sĩ hay xuất gia không tránh khỏi về ngã sở, bè phái. Cho nên những vị giám khảo chấm thi tại Ni viện Nha Trang lúc bấy giờ từ Sài Gòn ra, họ có một số đệ tử (Sư cô) tu học ở Ni viện. Do đó đề thi lúc ấy do quý vị giám khảo ở Sài Gòn gởi ra, không nằm trong những bài học mà giáo sư X đã chọn và bảo học ôn để thi.

Do ngã sở, bè phái ấy, mà họ đề nghị ban giám khảo cho điểm hạnh kiểm cô Hoàng. Sau đó họ đề nghị khắc khe hơn, là đề nghị tất cả Tỳ kheo Ni ở Ni viện cho điểm hạnh kiểm cô Hoàng.

Tất cả Tỳ kheo Ni tuân lệnh cho Sư cô Hoàng 2 điểm. Sư cô Hoàng liền trình bày việc cho điểm hạnh kiểm, đối với cô không thành vấn đề. Vấn đề đáng nói là tại sao Sư bà hay ban giám khảo không cho, mà lại bắt những vị Tỳ kheo Ni đồng sàn, đồng tu, bạn học với Sư cô Hoàng lại đặt bút xuống cho điểm, là việc làm sai nguyên tắc, bất công. Đệ tử phạm lỗi, làm điều sai, sư phụ, sư trưởng, giáo thọ có quyền phạt bằng nhiều hình thức, cớ sao lại bắt bạn học trừng trị! Trong Phật giáo không thể có việc trừng trị như thế!

Trước sự việc Sư cô Minh Hoàng bị Sư bà giám viện, ban giám khảo Sài Gòn đối xử bất công, bắt ép các Sư cô bạn của cô Hoàng cho điểm hạnh kiểm, Sư cô bà mẹ kiếp trước trong Ni viện có lời khuyên cô Hoàng là nên an tâm đừng hờn giận, đừng cất giữ các phiền não ấy trong lòng và nói lời an ủi: “Em đừng quan tâm cái vị thứ ở điểm cao làm chi, đứng hạng thứ 14, 15 cũng tốt lắm rồi!” Cuối cùng, Sư bà nhận giấy xếp hạng vị thứ của kỳ thi vừa rồi từ Sài Gòn gởi ra, Sư bà tuyên bố ra giữa chúng, là cô Hoàng đạt điểm thủ khoa trên trăm điểm.

Sau lời Sư bà tuyên bố Sư cô Hoàng đậu thủ khoa, trong đại chúng có vị cười, có vị không cười, có vị vỗ tay, có vị không vỗ tay, có vị đến chúc mừng, có vị đi lơ.

Sư cô Hoàng nghĩ lại trong cái rủi có cái may và tự xét lại mình tuổi trẻ thường có tâm nông nổi, tại sao lúc bấy giờ không vào lớp làm bài. Nếu vào lớp làm bài thì đâu có xảy ra chuyện phiền não cho mình cho người! Thật hối tiếc quá! Sư cô Hoàng trực nhớ lại những giờ phút đang xảy ra sự việc áp chế, bất công đối với cô, cô đã hết lòng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm và tụng bài Phật Mẫu Chuẩn Đề. Nhờ đó mà cô được đậu thủ khoa.

 

TÌNH CẢM BÀ MẸ KIẾP TRƯỚC

Nói đến tình mẹ đối với con, bà mẹ nào cũng vậy, đều có tấm lòng thương con mình qua lời khuyên bỏ ác làm thiện… an ủi khi con có điều chi âu lo, thất bại, vân vân… Bà mẹ kiếp trước của cô Hoàng cùng sống chung trong Ni viện rất thương yêu cô Hoàng, nhưng rất dè dặt, kín đáo, cẩn thận ở lời nói, thái độ đối xử với cô Hoàng. Bởi vì tất cả đại chúng Ni từ các nơi về ở, làm sao biết được chuyện mẹ kiếp trước, chỉ có cô Hoàng và Sư cô ấy biết với nhau thôi.

Tuy nhiên những việc lặt vặt giúp nhau, đâu có gì phải kín đáo! Cho nên cứ đến mùa học thi, Sư cô bà mẹ kiếp trước đó, đi mua hằng chục quả cam tươi, đem về bỏ vào thùng, lật thùng lại để ăn những trái ở dưới trước. Mỗi ngày bà mẹ cho cô Hoàng 3 trái sáng, trưa, chiều, mỗi buổi một trái. Muốn ăn thêm, cô Hoàng thăn thỉ xin thêm, mẹ liền đồng ý qua nụ cười thật dễ thương.

 

TÌNH CẢM SƯ PHỤ

Theo quyết định của Tổng vụ văn hóa giáo dục thuộc Viện Hóa Đạo GHPGVNTN lúc bấy giờ vào khoảng giữa năm 1969-1970, tất cả các Phật Học Viện Tăng và Ni trên toàn quốc miền nam Việt Nam, phải được cải cách lề lối sinh hoạt về tu và học Phật theo cấp sơ đẳng, trung đẳng và cao đẳng chuyên khoa Phật học. Tức là chỗ này 4 năm sau đó Tăng Ni sinh được chuyển qua học chỗ khác 4 năm… Do đó Ni viện Nha Trang là cấp Trung đẳng chuyên khoa Phật học. Hải Đức là Cao cấp chuyên khoa Phật học, vân vân…

Tất cả các Phật học viện sơ, trung, cao cấp lúc bấy giờ trên toàn quốc được vị Tăng già ở trung ương giám sát, kiểm tra trông coi, gọi chức vụ ấy là Tuần Chúng. Vị Tuần Chúng không nhất thiết phải ở Sài Gòn, Huế hay Nha Trang, Cần Thơ vì là nhân viên của Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục.

Các Phật học viện Ni thì có một Sư bà hay Ni sư làm Tuần Chúng. Các Phật học viện Tăng thì có vị Thượng Tọa hay Hòa Thượng làm Tuần Chúng.

Vai trò của Tuần Chúng là thường đến đột xuất các Phật học viện để giám sát, kiểm tra ban giám hiệu, Tăng Ni sinh có tri hành đúng đắn việc tu học của Tăng chúng hay không.

Thời gian thường đến các Phật học viện của quý ngài rất khó thực hiện đúng kỳ, nên đổi lại là thỉnh thoảng, nhưng thỉnh thoảng của quý ngài cũng lâu lắm, có khi một năm, hai hay ba năm mới đến một lần. Mỗi lần đi thăm như vậy là đi từ nam ra trung.

Sư phụ của Sư cô Hoàng là Sư bà Diệu Không ở Sài Gòn giữ chức vụ Tuần Chúng các Phật Học Viện bên Ni trên toàn quốc. Sư cô Hoàng tu học ở Ni viện Nha Trang trên ba năm rồi mới được Sư phụ ra thăm trong vai trò Tuần Chúng Ni viện Diệu Quang Nha Trang, Diệu Đức ở Huế.

Mặc dù là Sư phụ, nhưng không dễ gì được gặp nói chuyện tự do đâu nhé. Cũng không dám ngỏ lời với các Sư bà, Ni sư sở tại xin gặp Sư phụ. Sư cô Hoàng mong gặp Sư phụ mình lắm, nên cứ canh chừng Sư phụ đi lẻ một mình là lén chạy theo. Chạy theo có khi nửa đường phải quay lui rồi giả vờ lấy cây chổi quét quét, hay sửa lại cái ghế, vân vân…

Một khi đã quyết tâm muốn thì nhất định được gặp. Thế là một chiều nọ Sư cô Hoàng len lén chạy lẹ đến phòng Sư phụ, mở đại cánh cửa, liền quỳ xuống trước mặt Sư phụ đang nằm nghỉ trên giường. Thấy vậy, Sư phụ ngồi dậy, chưa hỏi gì, đã nghe Sư cô Hoàng tác bạch:

- Kính bạch Sư phụ, từ ngày ra sống tại Ni viện này cho đến nay, không biết tại sao con luôn bị gánh chịu nhiều chuyện oan ức quá chừng, mà không được biện bạch. Con bị nhiều phía đối xử với con rất bất công, áp chế đủ điều thật khó thở, không nói được lời. Mỗi lần phát lộ, con bị quỳ gối tím cả đầu gối. Mọi chuyện xảy ra không do con, lại gán cho con. Không hỏi con gì cả, cứ bắt phạt con quỳ lạy sám hối, công tác nặng nề, ăn sau, vân vân…

Sư phụ cô Hoàng dạy cô Hoàng sao, Đăng Triệu biết không?

- Không biết. Dạy như thế nào anh?

Sư bà dạy:

- Đúng rồi! Cái đó hay lắm! Đó là điều kiện tốt, nhân duyên tốt đến với chị. Chị thông minh học giỏi, có nhiều tài năng, mà không có những pháp môn đó đối trị lại, thì cái ngã mạn, kiêu căng của chị sẽ tăng lên, mà tăng lên như vậy rất là nguy hiểm cho con đường giác ngộ, giải thoát của chị. Nếu ai đó nói chị làm sai, chị thấy đúng thì lo mà tu sửa. Còn ai đó nói vu làm cho chị oan ức, chị làm đúng nói sai, chị được tăng phước. Ai đó bắt chị chùi rửa nhà tắm, cầu tiêu cho sạch, hết dơ bẩn, chính là lúc chị rửa sạch hết các nghiệp tiền khiên, ác trược kiếp trước được trôi đi hết, làm cho thân tâm chị thanh thoát nhẹ nhàng. Ai đó bắt chị hầu hạ đại chúng, phước chị được lớn rộng như đông hải. Ai đó bắt chị sám hối, quỳ hương, chị được tiêu trừ nghiệp chướng… Cứ quán niệm như vậy, chị sẽ thấy tất cả những người nói oan chị, đâm chọt chị, vu khống chị, áp chế chị… đều là những bậc Bồ Tát giúp chị tiến đến con đường Phật đạo, là lúc không còn vô minh, nghiệp chướng trong tâm nữa. Mắc mớ gì mà chị cảm thấy bực bội, tự tạo phiền não cho mình, cái đồ ma!

Sau khi tiếp nhận lời huấn thị của Sư phụ dạy bảo là phải làm vô số việc khó khăn, cực nhọc không ai làm nỗi, mà mình làm được để đem lại lợi ích cho chúng sanh trên con đường tu tập, thì mới đạt đạo giác ngộ giải thoát thành Phật. Sư cô Hoàng cảm thấy sung sướng chưa từng thấy, hơn lúc nào hết. Vì đã nhận ra lời của Sư phụ dạy bảo tu là phải hành nhiều việc khó khăn… rất ăn khớp với lời Bồ Tát Trí Tích nói về quá trình tu tập của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lúc còn làm Bồ Tát tại cõi Ta bà, đã làm vô số công việc cực nhọc để đem lại ích lợi cho chúng sanh, nhờ đó mà đạt được đạo giác ngộ thành Phật sau này.

Lời Bồ Tát Trí Tích nói:

- Tôi thấy Đức Thích Ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ Đề chưa từng có lúc thôi nghỉ: Ta xem trong cõi tam thiên đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hạt cải, mà không phải là chỗ của Bồ Tát bỏ thân mệnh để vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới thành đạo Bồ Đề. (Pháp Hoa – phẩm Ngũ bá thọ ký thứ tám)

Từ đó mãi về sau, bản thân năm uẩn của Sư cô Minh Hoàng vốn được vững chãi, khiêm cung, ái ngữ, càng trở nên vững chãi ở bước đi, khiêm cung trong đối đãi, lời nói ngọt ngào, nghiêm nghị gấp mười lần hơn xưa, luôn có nụ cười trên môi, tạo niềm vui cười hỷ lạc cho mọi người qua các câu chuyện. Nếu không nói đó là trạng thái tỉnh thức do tâm đã đạt đạo giác ngộ thực tướng vô ngã các pháp của hàng Bồ Tát ở các địa năm, sáu, bảy…

Một khi tâm thức của Bồ Tát đã thấy được mọi thứ phiền não, lời vu oan, lời đâm chọt lén sau lưng, chỉ trích đột xuất, nói dèm pha bóng gió, bịa đặt chuyện sai trái, để làm mất uy tín đối với ban lãnh đạo Ni viện, sẵn sàng làm các việc nặng nhọc do ai đó ra lệnh, mong chờ ai đó nói lời chọc tức, vân vân… để làm phương tiện tiến tu.

Quả thật, những điều mà cô Hoàng mong chờ đón nhận, thỉnh thoảng đến với cô ở gần, xa, sau lưng, vang vọng như gió thoảng… chứ không phải là hết, bởi vì đó là một tập thể, trong đó không đồng nhất tư tưởng, nhiều ý niệm khác nhau, nhưng Sư cô Hoàng nghe như không nghe, thấy như không thấy, tâm an bình như vại, tỉnh bơ vì đã gát bỏ ngoài hành lang trí óc. Vì thế mà có lần, Sư cô Hoàng nghe một Sư cô bạn đứng xa xa trước mặt, nói lớn: “Chao ôi, nắng chói chan cả trăm độ như rựa, mà hoa không bị héo hị!

Sư cô Hoàng liền hồi âm lại ngay tại chỗ, cô lập lại lời Sư phụ nói “Sư phụ em dạy em là phải đón nhận chướng ngại phiền não từ mọi phía đến, vì đó là cách tu tập để được tăng phước, cho nên em thấy vui lắm khi nghe, thấy ai đó mang đến cho em phiền não, chướng ngại, chuyện xấu ác, em sẵn sàng đón nhận. Nếu em xua đuổi từ bỏ, thấy bực tức, nổi sân si… Sư phụ em nói đó là ma”.

Trên vận hành tu và học Phật kể từ lúc mới vào chùa ở Sài Gòn và ở Ni viện Nha Trang, Sư cô Hoàng được nghe vô số chuyện không may đến với cô, nào là số chết yểu, không tu được bị lấy chồng, không có bằng cấp… do các khách Ni từ xa vào thăm rồi nói như vậy sau khi xem tay, nhìn tướng trạng của cô. Chính nhờ những lời nói nửa thật, nửa hư ấy, làm khích lệ cho cô Hoàng tu nhiều, học nhiều kinh điển, văn hóa phổ thông được chứng thực qua nhiều bằng cấp khoa bảng Phật học và quốc gia.

Vị Hòa Thượng thấy được Sư cô Hoàng dốc lòng ham học văn hóa và Phật pháp hơn các Sư cô khác, đó là Hòa Thượng Thích Đỗng Minh trong lúc dạy Phật pháp cho các Tăng Ni sinh tại Cao đẳng chuyên khoa Phật học Hải Đức, do đó Hòa Thượng Đỗng Minh mua tặng cho Sư cô Hoàng hai cuốn Hán Văn Tự Học nhân chuyến đi Phật sự ở Sài Gòn về. Sau khi đưa hai cuốn Tự Học Hán Văn (một cuốn bài học, một cuốn sưu tra) cho Sư cô Hoàng, Hòa Thượng Đỗng Minh nói “học đi, nửa tháng sau đem bài lên đây cho thầy kiểm tra”. Nhờ vậy mà Sư cô Hoàng được thông thạo thêm chữ tàu (Hán văn).

 

THI SA DI THỌ GIỚI

Hai giới Tăng Ni xuất gia trong Phật giáo ai cũng phải nhiếp thọ giới luật của Phật để hành trì mà trang nghiêm thân tâm cho thanh tịnh suốt cả cuộc đời xuất gia trên con đường tu học hoằng hóa độ sanh, cho nên ai cũng phải thọ giới ngay từ thuở ban đầu mới vào Phật đạo ở hai cấp Sa di thấp nhất là Khu ô và Hình đồng. Hai cấp này tuy hai mà một được thọ năm giới do bổn sư làm lễ quy y và truyền giới tại chùa bổn sư. Vài năm sau đó, vị Tăng, Ni Hình đồng Sa di đã thọ 5 giới được tiến lên cấp Ứng pháp Sa di, tức là đã được học Phật pháp tại các trường Phật học và phải thọ mười giới Sa di của cấp Ứng pháp. Thọ 10 giới lần này không do bổn sư truyền giới, mà do Hội Đồng chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa của giáo hội làm lễ truyền giới. Nơi làm lễ truyền giới gọi là giới đàn. Giới đàn được giáo hội tổ chức, cứ lâu lâu một lần (3 hoặc 5 năm) khi xét thấy cần thiết. Nơi tổ chức là tại chùa lớn hay tu viện nào đó trong nước. Giới đàn được tổ chức không phải chỉ riêng cho Tăng Ni trẻ tuổi thọ 10 giới Sa di, mà có cả Tăng Ni lớn tuổi thọ Tỳ kheo giới, Bồ Tát giới xuất gia và nam nữ Phật tử thọ 10 giới thập thiện, Bồ Tát giới tại gia.

Tăng Ni và Phật tử đến giới đàn thọ giới gọi là Giới tử. Giới tử Tăng Ni và Phật tử ở riêng, nam ở với nam, nữ ở với nữ từng khu biệt lập.

Tại khu vực giới đàn, tất cả giới tử các cấp được ban tổ chức phân chia cho công việc làm suốt thời gian lưu trú tại đó. Với nam nữ Phật tử làm các việc vệ sinh quét dọn, v.v… Giới tử Tăng Ni thì hầu hạ chư tôn đức, trong đó bưng nước, dọn cơm, mời cơm, dọn bàn, v.v…

Vấn đề giới tử Tăng Ni được vào thọ giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ Tát hay không, là do được có số điểm trung bình qua bài thi viết và vấn đáp Phật pháp do ban giám khảo khảo hạch, chứ không phải do thái độ hầu hạ khúm núm, khiêm cung, ái ngữ trước chư tôn đức.

Tại giới đàn, ở lãnh vực Ni thi và thọ giới Sa di, Sư cô Minh Hoàng quan sát, nên thấy hết các Sư cô bạn khúm núm rất lễ độ, nghe hết âm thanh A Di Đà Phật cúi đầu chào chư tôn đức đi ngang qua, A Di Đà Phật, con kính mời Hòa Thượng, Thượng Tọa, Sư bà, Ni sư dùng cơm. Không cần biết ai chung quanh, rất lãnh đạm với mọi người. Đến khi thi bài viết và vấn đáp, một số Sư cô đủ điểm trung bình và một số dưới trung bình được ban giám khảo vớt điểm và một số trên trung bình. Riêng Sư cô Minh Hoàng được Thủ khoa Sa di gọi là Thủ Sa Di bên giới tử Ni, được bưng khay có trầm hương cung nghinh chư tôn đức.

Sau đó Sư cô Hoàng làm thủ chúng Sa di Ni, bắt đầu chia việc cho các Sư cô giới tử. Sư cô Hoàng nói:

- Mấy ngày qua, tôi chào hỏi, gọi quý vị bằng Sư cô, quý vị làm thinh, tỏ thái độ xem thường tôi quá chừng. Bây giờ tôi chia việc cho quý vị, xin quý vị thi hành làm nhiều và đúng cho nhé, nghe không?

- Dạ thưa chị Thủ chúng, em nghe và tuân hành!

Rốt cuộc tất cả Sư cô giới tử đều gọi Sư cô Hoàng bằng chị. Sau này một vài Sư cô lúc trước ở giới đàn, gặp lại Sư cô Hoàng, có cô chấp tay nói “em xin chào chị Thủ chúng”, có cô nói rằng “Cha ơi, hồi đó cha hành tôi nghe”. Sư cô Hoàng đáp lại “may mà tôi hiền lành, nếu không tôi bắt cha gánh nước cho mà chết!”

 

THỌ GIỚI THÍCH XOA MA NA

Giới xuất gia bên Ni, sau hai năm thọ Sa di giới (10 giới) đều phải thọ giới Thích Xoa Ma Na, trong đó có Bát Kỉnh Giới (tám giới cung kính đối với Tăng).

Tăng không thọ Thích Xoa Ma Na giới, chỉ có riêng cho Ni, nhưng phải có chư vị Hòa Thượng, Thượng Tọa bên tăng đến chứng minh hành lễ truyền giới. Nơi tổ chức giới đàn là tại các chùa Ni hay Tu viện Ni, do vậy chư tôn đức bên Tăng đến làm lễ rồi về không ở lại. Thời gian thọ giới gần cả tuần lễ, vì các lễ nhập giới và nghe truyền giới rất kỹ. Vì thế có lần, giới đàn thọ Xích Xoa Ma Na giới được tổ chức tại chùa Dược Sư (chùa Ni) ở Gia Định, Sài Gòn. Các giới tử Sa di Ni về thọ Thích Xoa Ma Na tại chùa Dược Sư với số lượng là 400, trong đó có Sư cô Minh Hoàng.

Ban tổ chức thọ giới đều là các Sư bà, Ni sư, các Sư cô đã thọ giới Tỳ kheo trông coi các việc, trong đó có duyệt lại danh sách giới tử để xem Sư cô nào thi thọ giới Sa di cách đó 2 năm, ai thủ khoa, ưu điểm, trên trung bình, trung bình và được vớt điểm, để sắp xếp theo thứ tự chỗ ngồi ở giữa đầu bàn và đầu bàn trở xuống, cũng như đứng trước, sau lúc hành lễ thọ giới và tụng kinh.

Thế là Sư cô Minh Hoàng được mấy Sư cô Tỳ kheo chỉ định chỗ ngồi là ngồi giữa bàn nhìn xuống và đứng giữa khi mới vào ghi danh, đã được các Sư cô trong ban tổ chức chỉ định rồi. Cho nên trong hai ngày đầu, Sư cô Hoàng ngồi ở giữa bàn trong giờ ăn hay nghe ban tổ chức đọc chỉ thị cách thức thọ giới và sinh hoạt trong thời gian lưu trú.

Hằng trăm Sư cô Sa di ngồi chung bàn và các bàn khác, ai cũng tưởng là một vị Thượng Tọa bên Tăng từ chùa Ấn Quang xuống, cho nên tất cả Sư cô, ai cũng tỏ ra thái độ thật khiêm cung, nếu không nói là lấm la, lấm lét, khúm núm. Đến chiều tối của ngày thứ hai, các Sư cô Sa di đều nói trong lòng, giờ này mà vị Thượng Tọa chùa Ấn Quang không về hay ngủ lại đây! Đâu có được vì đây là chùa Ni mà! Hai ba cô xúm nhau lại trước mặt Sư cô Hoàng đang ngồi một mình xem sách ở bàn ăn, chấp tay xá một cái: “A Di Đà Phật, ngài là Tăng hay Ni ạ?”

Sư cô Hoàng úp trang sách trong lòng tay, nhìn các Sư cô, cười rồi nói:

- Tôi là Ni mà! Các cô nhìn thấy tôi thế nào, mà nói tôi là Tăng?

- Vì nét mặt và thân tướng của Sư cô giống Tăng, cho nên chúng em tưởng là Tăng! Do vậy, từ mấy ngày qua đến nay chúng em cứ thắc mắc trong lòng, ngủ không yên cho rằng cô là Thượng Tọa quá trẻ, Đại Đức non choẹt, bây giờ mới rõ cô là chị của tụi em, đồng sàn, đồng môn.

Kể từ đó về sau, các Sư cô hết khúm núm, ai cũng thích đứng kề, lân la bên cô Hoàng thật thân thương. Cô này hỏi chuyện này, cô kia hỏi chuyện kia, lắng nghe cô Hoàng kể chuyện vui, cười thỏa thích với nhau sau giờ tụng niệm, truyền giới. Nhất là trước giờ từ giã tạm biệt chia tay ra về, các Sư cô ai cũng bịn rịn bên cô Hoàng qua trạng thái nắm tay nói, cười…

Đến đây Tuệ Đạo ngưng kể, bưng tách cà phê ngụm một ngụm. Sau đó nhìn chăm bẳm Đăng Triệu đang nở nụ cười thích thú, Tuệ Đạo bèn hỏi:

- Thấm ý về chuyện chi, mà cười vậy?

- Tôi cười vì nghe anh kể Sư cô Hoàng biến thành nam tướng.

- Vấn đề nữ tướng được chuyển đổi thành nam tướng, đâu có gì lạ! Trong kinh Phật có nói người nữ kiếp này ở cõi Ta bà, nếu tu hành chín chắn đạt chơn tâm vô ngã sẽ được thát sinh về nước Cực Lạc A Di Đà là tướng nam, vì tất cả quốc độ của chư Phật không có tướng nữ, toàn là nam không thôi. Hoặc được thát sinh trở lại cõi người thì hết tướng nữ, được có tướng nam. Tướng nữ được biểu thị cho cái gì nặng nề, trì trệ, rơi xuống, âm u. Nơi nào có nữ và nam là có sinh tử, luân hồi; nơi nào chỉ có nam là giải thoát. Người nữ có tướng nam, tâm trạng nhạy bén, thông minh, tháo vác, lanh lẹ, hiền lành, đôn hậu. Ngược lại, nam có tướng nữ, tâm trí u mê, chậm chạp, lừng khừng… vô dụng.

Nói về tâm thì tâm suy được biểu thị cho nữ tướng. Người nam hay nữ, tâm suy nhược sẽ làm cho thân tướng ốm yếu gầy còm. Tâm thịnh được biểu thị cho nam tướng. Người nữ hay nam tâm được thịnh, làm cho thân tướng lực lưỡng khỏe mạnh ra. Tâm thịnh hay cực thịnh được cắt nghĩa là an lạc, thư thái, giảm bớt ưu phiền, phiền não không hiện hữu ở tâm, tâm luôn sống trong tỉnh thức… Chứ không phải do vật chất làm cho tâm an lạc, tỉnh thức. Nói rõ hơn, do tâm được liễu ngộ đạo lý, buông xả tất cả phiền não mọi phía đối tượng đến mình, mà mình không chấp chứa chúng vào tâm, giống như không cho khách lạ quen vào nhà, luôn giữ chánh niệm an trú trong tỉnh thức, đó là trạng thái của Niết Bàn.

Sư cô Minh Hoàng trước đó, thân tướng cô ốm yếu, gầy còm, chết yểu. Nhưng sau đó không lâu, tướng cô tự phát lớn cao lên, khỏe ra, mặt mày hồng hào, trán cao, tai to giống như tướng nam (Hòa Thượng, Thượng Tọa) là do cô không còn quan tâm đến mọi thứ âm thanh, sắc tướng có chất chứa phiền não nữa, gạt bỏ hết ra ngoài tâm ý, chuyên lo tụng kinh, niệm Phật, trì chú, đọc kinh sách Phật và chăm chú làm tất cả việc nặng nhọc lớn nhỏ mà lòng không cảm thấy bực bội, luôn an vui… Trong khi đó sự ăn uống của cô không có gì thay đổi, vẫn tương cơm, rau luộc, đậu dưa, canh bí, vân vân… mà thân cô lại được phấn chấn, cao lớn như đàn ông, do tâm cô an lạc, không do ăn uống.

Hầu hết chư Tăng nói riêng trong Phật giáo ai cũng được phát tướng, trượng phu, là do nhờ tu hành, trì chú, đọc kinh, sám hối rất chín chắn, chuyên cần và xả ly mọi tham dục… chứ không do ăn sung mặc sướng.

Với các vị Tỳ kheo Ni, ít thấy tướng nữ đổi thành nam. Những vị được thấy tướng nữ đổi thành nam, như Sư bà Diệu Không, Sư bà Từ Hương ở Đà Lạt, Sư bà Tâm Đăng ở Nha Trang…, nhưng quý vị đó được đổi thành tướng nam là ở tuổi 40 trở lên; còn Sư cô Minh Hoàng mới gần 30 mà đã được biến đổi thành nam tướng, là việc hy hữu rất hiếm thấy.

Vấn đề nam biến đổi thành nữ là chuyện phổ biến, gọi là lại cái, do bị bẩm sinh từ lúc sinh ra. Những người nam có tướng nữ như vậy, tâm tính họ không thông minh, ưa gàn, ưa nói, trạng thái liến láu, ba lém.

 

THI VÀ THỌ GIỚI TỲ KHEO Ở HUẾ

Nói đến Huế, ta thấy Huế có hai đặc điểm khá rõ nét từ ngàn năm qua không bao giờ thay đổi, đó là khí hậu nóng bức như lửa vào mùa hạ, lạnh tái tê và ẩm ướt do mưa phùn vào giữa đông xuân. Do vậy hằng trăm Sư cô ở các tỉnh về thọ giới Sa di, Tỳ kheo, ai cũng mặc hết số y áo mang theo vào người và kể cả chăn mền, chiếu ở dưới lưng vẫn cảm thấy lạnh. Sở dĩ quý Sư cô bị lạnh quá như vậy, một phần do chỗ nằm là tại ký nhi viện Kiều Đàm, nơi các em nằm chỉ là cái giường gỗ và chiếu, nằm tạm từ sáng, chiều về, không ở lại đêm, cho nên không lấy gì được ấm cúng cho lắm đối với người ngủ lại đêm.

Nói giường là nói vậy, chứ thật sự, đó là một ngăn rộng hình chữ nhật được chứa 15 chỗ nằm của 15 em ký nhi. Sư cô Hoàng và 14 cô khác cùng một khoang. Vào một đêm nọ, lúc trời khuya, mấy cô đều nằm sát bên nhau để được ấm thêm. Hai Sư cô nằm hai bên tả, hữu cô Hoàng. Đang trong giấc ngủ say, hai cô cảm thấy ở phần cuối lưng bị ướt, liền tỉnh giấc rồi niệm lớn “Nam Mô A Di Đà Phật, chùa em răng mà bị mưa dột ướt ri hè?”

Nghe có tiếng niệm Phật vang lên, các Sư cô thứ hai, ba, bốn ở hai bên cô Hoàng thức dậy, trong đó có một cô người nam giả giọng Huế nói lớn “A Di Đà Phật, trời đâu có mưa mô, mà tại răng dột rứa, hề?”

Sư cô Hoàng thức dậy, thấy quần áo bị ướt ở phần cuối lưng, ở mông và ướt ra cả chăn mền. Sư cô Hoàng nói thầm trong lòng “chết cha rồi, làm sao đây?” cô liền biết ngay là do cái bịnh “đấm dài” của mình, bởi nguyên nhân chiều qua ăn canh có ớt quá cay, nước chấm quá nhiều ớt, nên uống nhiều nước sôi để giảm cay và uống nhiều tuần trà lúc hàn huyên với một số cô bạn đến khuya mới ngủ.

Trước hiện thực bị ướt át ấy, buộc lòng phải tìm nước mà gụt chỗ ướt, rồi vắt, mặc lại đồ ướt, vì chả còn quần áo nào nữa, dù bị lạnh buốt hơn, vẫn cứ mặc. Hai Sư cô nằm hai bên cô Hoàng, cũng đi tìm nước gụt áo quần, vắt khô, mặc lại như cô Hoàng, thật là tội nghiệp!

Trời chưa sáng hẳn, mới bảy giờ hơn vài phút, tất cả Sư cô các phòng ký nhi viện đều dậy làm vệ sinh cá nhân bản thân và chỗ ngủ cho tươm tất trước khi đến giới đàn. Riêng Sư cô Hoàng và hai Sư cô nằm bên cô Hoàng làm vệ sinh khá đặc biệt hơn, là đem chăn, mền, chiếu ra giặt giữa không khí lạnh như cắt. Thấy vậy, mấy Sư cô thắc mắc ra lời “răng mà cái phòng của Sư cô Hoàng, sáng ra ai cũng giặt ra, giặt mền, chiếu vậy hè!” Một Sư cô đứng gần đó trả lời “A Di Đà Phật, dạ thưa chị…” Một Sư cô khác đứng xa xa hỏi “chuyện chi rứa?” Sư cô đó vẫn cứ trả lời “A Di Đà Phật, dạ thưa chị…”

Lúc bấy giờ có một Sư cô nói lớn “tại cái ông Minh Hoàng này nè!” rồi nín thinh luôn do một trong hai cô nằm bên cạnh cô Hoàng đang giặt đồ, đưa ngón tay trỏ lên giữa môi làm dấu yêu cầu đừng khai báo.

Sư cô Hoàng nghe Sư cô kia nói “tại ông Minh Hoàng”, tức khắc cảm thấy đầu óc như muốn rơi rụng, đất trời đang lăn quay, muốn độn thổ. Cô liền niệm “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát” lia lịa để xin ngài Quán Thế Âm cứu giúp cho, bằng không thì…

Đúng, được ngài Quán Thế Âm cứu, tức thì sau đó có một Sư cô nói lớn “tại vì đêm qua mấy vị ngồi uống nước trà, nước chanh nói chuyện với nhau đến khuya, loay hoay sơ ý làm đổ nước lai láng ra đó, nên sáng ra đem giặt, chứ có chi đâu mà các chị mình thắc mắc dữ rứa!”. Đó là một cách cứu khổ, đem vui cho người bằng nói dối, nói trớ đi, không thể nói toẹt ra sự thật. Nếu nói thật sẽ gây mất hòa khí đại chúng, đem nỗi buồn, tâm tư khó chịu cho bạn mình. Nói dối theo kiểu ấy không có tội vì có tác dụng cứu khổ, đem niềm vui cho mọi người, không hại người.

Đăng Triệu ngồi nghe Tuệ Đạo kể chuyện đấm dài của cô Hoàng một cách say mê không nhúc nhích, nhưng đến khi Tuệ Đạo ngưng, Đăng Triệu lại lắc đầu với nét mặt bi ai. Thấy vậy, Tuệ Đạo nhếch môi cười rồi hỏi:

- Huynh không bằng lòng cô Hoàng đấm dài, phải không?

- Không, tôi thấy đa số các Tăng, Ni khác tu hành sao mà dễ dàng quá, không hề bị chướng duyên, phiền não quậy phá, còn Sư cô Hoàng cứ thỉnh thoảng gặp chông gai, chướng duyên phiền não đến với cô như vậy! Nên chi tôi lắc đầu là thấy thương, tội nghiệp cho cô!

- Đăng Triệu nên biết rằng, trên đời này đều có hai mặt âm dương, sáng tối, nam nữ, chánh tà, chân tục, ma Phật, thánh phàm… luôn bên cạnh nhau. Vì thế ở đâu có chánh pháp, ở đó có ma vương hiện hữu quậy phá không cho chánh pháp Phật phát triển. Phật tánh trong tâm con người một khi phát triển vươn tới, là năng lực làm cho tâm khởi lên muốn xuất gia tu hành. Khi được xuất gia rồi thì lại muốn học Phật, hành trì giới luật thật kỹ lưỡng và muốn làm các việc từ thiện thật đa dạng, như bố thí người nghèo khổ ở gần ở xa, hoạt động nhiều việc lợi ích cho nhân quần xã hội, cho đạo pháp trường tồn vĩnh cửu… Đó là về mặt chánh đạo, thiện đạo, chơn đế… Dĩ nhiên bên cạnh đó có nhiều người sanh lòng ganh tỵ, ra sức đánh phá công việc từ thiện chánh đạo của hành giả tu phước thiện, đó là ma vương, phiền não.

Với người học Phật và hành Phật đạo vào đời phải thấy cả hai mặt đạo, đời, chánh tà, chơn tục… không thể thấy một, không bao giờ được thấy một, phải thấy cả hai. Khi thấy được hai rồi (tri), hành giả (Bồ Tát) tu tập Phật pháp để gieo trồng phước trí, ai cũng phải quyết tâm tri hành gạn lọc các thứ phiền não, tục đế, ma đạo, phàm phu ra khỏi tâm thức. Từ đó chỉ còn Phật đạo, Bồ Đề, chơn đế vô ngã, thánh thiện… giống như những người đi tìm vàng là phải sàn đãi cho sạch hết đất cát, bùn lầy, thì vàng lòi ra.

Muốn lấy được vàng, người ta phải dấn thân vào rừng núi, suối sâu, khe cạn, lặn mình trong đó hằng giờ, ra sức lao động thật khổ thì mới lấy được vàng.

Cũng như vậy, người xuất gia nói riêng, Phật tử nói chung trên bước đường học Phật và hành trì giới luật và Phật pháp để đạt được chơn đế vô ngã, Phật đạo, thì phải dấn thân làm vô số công việc nhỏ hay lớn thật cực nhọc trong tu viện và ngoài xã hội, cũng như phát tâm cúng dường Tăng Ni, bố thí mọi người khốn cùng ngoài xã hội một cách quyết tâm không hề mệt mỏi, không thối chí…

Sở dĩ những hành giả dấn thân hành Bồ Tát đạo một cách tích cực không lùi bước, không thấy gian khổ như Sư cô Minh Hoàng, là do sống trong ngôi nhà Bồ Đề tâm, là năng lực tri kiến mà thấy được hai mặt chánh tà, chơn tục, thánh phàm, ma Phật và kể cả thấy được các bậc Bồ Tát ở bên cạnh mình có ra sức hộ niệm cho mình được có trí tuệ sáng suốt mà vượt qua mọi khó khăn, phiền não khi hành trì Phật pháp trong các việc và thấy luôn những người nói và hành động xấu ác để gây phiền não cho mình, chính là do chư vị Bồ Tát khiến cho họ nói và hành động để thử thách tâm ý mình có thật sự quyết chí tu hành hay không.

Môi trường của các Bồ Tát xuất gia hành Bồ Tát đạo để gạn lọc bỏ tục lấy chơn, loại bỏ tà lấy chánh, xả ly trần cấu tiếp nhận Bồ Đề, vất bỏ phàm phu thâu nhận thánh thiện, phá trừ kiến chấp tạo dựng vô ngã… là tại trường đời, trường học thế gian và kể cả lân mẫn bên chúng bạn đồng sàn, chứ không phải ngồi im trong hang sâu, thâm sơn cùng cốc hay giữa không gian tu viện có kín cổng cao tường.

Sư cô Minh Hoàng có tâm thấy biết rộng lớn ấy, được thể hiện rõ nét qua các việc cúng dường bố thí tài vật và công sức cứu giúp cho con người ở mọi giai cấp, được nhiều lợi ích vật chất và tâm linh ngay thực tại trong cộng đồng xã hội và đại chúng tăng qua thái độ, ngôn ngữ thương yêu và tôn kính, nếu không nói, đó là giá trị đạo đức của hàng xuất gia đều được phản ảnh trong ngôn ngữ và hành động từ bi biết thương yêu và tôn trọng tất cả mọi người trong và ngoài xã hội một cách bình đẳng giống như chư Phật, Bồ Tát trong quá khứ, đã từng hành động cứu khổ chúng sanh. Cho nên mỗi lần bà má từ Đà Nẵng vào thăm hay Sư cô Hoàng về thăm má ở Đà Nẵng, bà má thường ngỏ lời trước Sư cô Hoàng: “Sao con tiêu xài nhiều vậy!” Cô Hoàng nói lại: “Má ơi, con không tiêu gì cho con cả, con hoàn toàn cứu giúp cho người nghèo khổ thôi. Con tiêu cho con rất là ít!”

Cho nên người xuất gia Tăng Ni, ai đó thật sự có quyết tâm xuất gia tu hành để tự giác cho mình, cho người đều dấn thân, xông pha, xả thân hành Bồ Tát đạo qua nhiều việc ích lợi cho mọi người về vật chất và tinh thần không hề thối chí, luôn tiến tới, như Sư cô Minh Hoàng, là người hiếm thấy trên đời này. Người Tăng Ni có đại từ tâm vô lượng biết thương yêu tất cả mọi người, biết đem dòng suối pháp Phật vào đời như vậy, sẽ được chư Phật thấy biết, liền bổ sứ cho một vị Bồ Tát thị hiện làm người ở chung, để mà bảo hộ tăng thân cho vị Tăng Ni ấy, được hành thông suốt trên vận hành tu học bằng hành động và lời nói chăm sóc, khi khuyên bảo, lúc vỗ về và có khi la rầy và kể cả đánh đòn nữa. Sư cô Minh Hoàng đã được chăm sóc bởi một vị Bồ Tát thị hiện làm Sư cô ở chung trong Ni viện. Hay là chư Bồ Tát sai  khiến người đồng môn, đồng sàn nói ra lời đố kỵ, không ái ngữ và hành động ganh tỵ để thử thách người Tăng Ni có quyết tâm tu hành ấy, có bị thối chí hay không. Sư cô Hoàng đã và đang chịu những thử thách tương tợ như vậy. Điển hình rõ nét, Thái Tử Tất Đạt Đa  khi chưa xuất gia, ở tại hoàng cung luôn được an bình. Đến khi vượt thành xuất gia, ngồi tu dưới cội Bồ Đề, cho đến khi sắp chứng đạo, rồi chứng đạo và trên đường hoằng hóa độ sanh, ngài bị các ma vương ngoại đạo đến quậy phá liên tục. Nhưng ngài vẫn an nhiên tự tại, không hề bị chúng chi phối. Cuối cùng chúng bị thua, sau đó chúng trở lại quy y theo Phật.

 

BÀ MẸ KIẾP TRƯỚC CỦA SƯ CÔ MINH HOÀNG

Đã là me, mẹ nào cũng hết lòng thương yêu con mình, qua hành động hiện thực theo dõi bản thân con mình về sức khỏe ốm đau bệnh hoạn, đói no, thiếu thốn vật dụng thường nhật… liền tìm phương cứu giúp. Về tâm ý được vui sướng thì vui theo với con, nếu bị phiền não, bi ai, buồn lo… liền tìm cách giải trừ, nói lời khuyên lơn, vỗ về…

Sư cô người mẹ kiếp trước của Sư cô Hoàng cùng sống chung trong Ni viện đích thực là người mẹ của cô Hoàng. Nên chi Sư cô ấy hết lòng chăm sóc vật chất và tinh thần cho cô Hoàng suốt thời gian tu học và hành Bồ Tát đạo tại Ni viện Nha Trang.

Một trong các cách chăm sóc sau đây, là thường lệ tối nào Sư cô mẹ cũng theo dõi Sư cô con ngồi ở đâu, làm gì trước khi lên đơn tọa thiền ngủ nghỉ, thì mới yên lòng, vì Sư cô mẹ sợ Sư cô con đi ra ngoài theo tiếng gọi tình ái, vì Sư cô con vừa đẹp, vừa trẻ mới qua độ tuổi trăng tròn lẻ và có nhiều tài năng văn hóa, dễ bị bên ngoài dụ dỗ. Sư cô mẹ an tâm nhất, là khi thấy rõ Sư cô con ngồi ở đâu đó giảng nói lại đại ý và lý nghĩa của các bài kinh vừa học qua, cho các Sư cô bạn được nghe lại, mà tỏ tường lý đạo. Hôm nào trong lúc tìm kiếm con mình khi hoàng hôn màu tím vừa phủ kín không gian Ni viện, mà không thấy cô Hoàng đâu cả, Sư cô mẹ vừa đi vừa gọi lớn Minh Hoàng ơi, em đang ở đâu, hãy lên tiếng để chị an tâm. Có khi Sư cô Hoàng nói lớn “cô ơi, em đang ở trong phòng Sư cô X nè”. Có lúc Sư cô Hoàng nói to: “Em đang ngồi với mấy cô ở sau nhà bếp nè, chị ra đây để thấy rõ em.”

Một chiều tối nọ vào mùa hè, khí hậu xứ biển lên cơn nóng ẩm như muốn mưa, mấy Sư cô học cùng lớp Cao đẳng Phật hoc ở Hải Đức, mời Sư cô Hoàng ra gốc cây Bồ Đề phía sau Ni viện, nhờ giảng lại cốt yếu lý nghĩa của bài học Duy Thức Tam Thập Tụng ở phần đầu. Do vì đang hăng say giảng nói và cũng do vì hơi xa Ni viện vài trăm thước, cho nên không ai nghe rõ tiếng gọi của Sư cô mẹ. Khi đã nghe được, Sư cô Hoàng vội vàng đi vào trước một mình. Mới vào tới cửa gặp Sư cô mẹ đang cầm cái roi đưa lên và nói:

- Tối tăm thế này, em đi đâu một mình ra ngoài xa, làm gì ngoài đó, mà chị gọi em lớn tiếng, em không trả lời, là sao? Em đi đâu về đây?

- Em đi học bài với mấy cô.

- Học bài ở đâu?

- Dạ, em và mấy cô ngồi dưới cây Bồ Đề.

- Em đừng có ham bạn bè mà không tu nghe! Mình là người xuất gia tu hành không nên thân quá, không nên sơ quá! Thân quá tâm mình lệch lạc, sơ quá chị em đối xử với nhau không hòa hợp. Không nên ham vui nữa! Hãy chạy đi mau, bằng không, chị đánh đây nè!

Sư cô Hoàng đứng yên nói:

- Cô muốn đánh, thì đây từ lưng trở xuống mông, mông lên tới lưng.

Cô Hoàng vừa nói vừa cúi xuống.

Sư cô mẹ đánh khẽ cho hai roi và bảo chạy đi. Cô Hoàng vẫn đứng yên và đáp:

- Miễn làm sao cô cảm thấy vui, không bực bội trong lòng, em để cho cô đánh.

- Chị không bực bội gì hết! Hai roi đủ cho em nhớ buổi tối không nên đi ra ngoài xa.

Qua thái độ của Sư cô Hoàng đối với Sư cô mẹ, cho ta thấy đó là thái độ biết cách sống dung hòa của người xuất gia có trí thức văn hóa Phật giáo khi sống chung với nhau giữa mọi người, là có lúc phải nhẫn nhục, chịu thiệt thòi, hy sinh cái vui, nhận lấy cái khổ để đem niềm vui cho mọi người khác, nhất là người nào đó trong đại chúng thương mình, mình phải cố gắng lắng nghe và chịu đựng lời rầy la của ho ï để tình thương đó luôn được tồn tại bền lâu, không muốn mọi người giận mình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG NĂM

 

VAI TRÒ TRƯỞNG TỬ NHƯ LAI

 

Đăng Triệu đang tập thể dục dưỡng sinh theo kiểu Ta chi trước sân nhà dưới bầu trời ban mai có nắng hồng  và khí lạnh man mát của cuối mùa hè, bỗng có tiếng gọi lớn của thằng bé trai từ trong nhà vọng ra: “Chú Triệu ơi, có chú nào gọi phone cho chú”. Đăng Triệu dừng tập đi vào, cầm cái phone không dây, vừa a lô vừa đến ghế sô pha. Sau đó chàng ngồi xuống dựa lưng ra sau, qua mấy giây im lặng, đoạn chàng nói: “tốt lắm, tốt lắm. Kể chuyện Sư cô Minh Hoàng mình ngồi bên hè chùa là đúng cách”.

Đăng Triệu tiếp tục nghiêng mặt lắng nghe, rồi gật đầu hai ba lần, sau đó nói “OK, OK, có gì tôi sẽ nhờ ông anh ở nhà mở máy vi tính (computer) tìm lộ trình đến chùa Vạn Hạnh”.

Đăng Triệu nể lời ông anh bà chị bảo ăn trước để đi gặp bạn nói chuyện Sư cô Bồ Tát, ngồi vào bàn nhai ngấu nghiến ổ bánh mì nóng có trét bơ Frentel và một ít chà bông, có thêm vài lát chả lụa, đó là kiểu ăn sáng của một số người Việt ta ở xứ Mỹ. Chẳng bao lâu bữa ăn sáng đã xong. Đăng Triệu chào ông anh, bà chị và mấy cháu, lái xe ra freeway 805 North, vừa lái vừa nhìn lộ trình trên tờ giấy được để bên cần số. Thời gian hơn nửa tiếng lái xe, Đăng Triệu đã nhìn thấy cổng chùa Vạn Hạnh bên trái con đường Fanita St., chàng quẹo vào đậu xe ở phía bức tường gạch có hàng cây đào đang xanh lá và đơm trái non đầy cành. Đăng Triệu đóng cửa xe, bước tới góc tường nơi có cây mận và tượng Phật Di Lặc bằng đá trắng xóa, ngồi trên bệ đá, dưới là một thảm cỏ xanh, hướng mặt vào ngôi chùa cùng với nụ cười muôn thuở, nụ cười cảnh giác ai đó đã thỉnh ngài về chùa, thì hãy lo tu tập Phật pháp để được có tâm từ bi vô lượng là mẹ đẻ ra nụ cười hoan hỷ như ngài.

Đăng Triệu đang chấp tay chiêm bái tượng Phật Di Lặc thật sâu vào lòng, xe Tuệ Đạo vào cổng. Đăng Triệu rời tượng Phật đến bên Tuệ Đạo. Sau đó hai chàng rảo bước tới đứng chấp tay kỉnh lễ lên tượng Bồ Tát Quán Thế Âm màu trắng đứng cao trên tòa sen nhìn ra đường đời. Chiêm bái xong, hai chàng đi nhẹ bên hông chùa dưới tàng cây Hoàng Hậu, loại cây có hoa tím, lá như móng ngựa đang tỏa bóng mát lên thềm.

Hai chàng không đi nữa, chọn tam cấp có bóng mát làm đạo tràng kể chuyện Sư cô Hoàng. Mới vừa ngồi xuống chừng mấy giây, nghe tiếng chân đi ở sau, hai chàng quay lui, cùng lúc đứng lên, chấp tay “A Di Đà Phật”. Thầy trụ trì người Huế, ốm con, không cao lắm, liền đáp lại “A Di Đà Phật”, thầy hỏi:

- Quý Phật tử ở mô đến rựa, mời vào lễ Phật!

Tuệ Đạo nhanh miệng:

- Chúng con cảm ơn thầy, thưa thầy chúng con đã lễ Phật lộ thiên rồi, xin thầy cho chúng con được ngồi đây để thưởng thức cảnh bồng lai yên tĩnh cực lạc của chùa có nét văn hóa Việt Nam.

- Được! Quý Phật tử cứ tự nhiên, không gì trở ngại mô. A Di Đà Phật.

- Dạ! A Di Đà Phật chúng con cảm ơn thầy đã cho phép. Lời Đăng Triệu đáp lại.

Tuệ Đạo khe khẽ nhìn lui, thấy bóng thầy trụ trì vừa khuất qua ông Đại Hồng Chung bên góc tường, chàng bắt đầu kể tiếp chuyện Sư cô Minh Hoàng.

Trước khi nghe Tuệ Đạo kể, Đăng Triệu ngỏ lời thắc mắc:

- Anh Tuệ Đạo à! Anh dựa vào đâu, tài liệu nào mà anh đã biết rõ rất chi tiết, ngọn ngành từ bản môn đến tích môn ở quá khứ và hiện tại của cuộc đời tu hành, hoằng hóa độ sanh của Sư cô Minh Hoàng như vậy?

- Đăng Triệu thắc mắc rất đúng, không chê vào đâu cả! Trước đây, như tôi đã nói với anh, tôi là bà con quyến thuộc với Sư cô Hoàng, cho nên tôi được biết từ lúc cô còn bé, lớn lên đi học tiểu học, trung học tại quê nhà. Biết đến đó thôi, không biết thêm gì nữa sau đó. Nhưng sở dĩ được biết thêm về cuộc đời tu hành của Sư cô Minh Hoàng từ bản môn đến tích môn quá khứ và thực tại, là do một Sư cô trao cho tôi tập nhật ký có nhan đề “Đời Sống Đạo của những người con gái đi tu trong Ni viện”. Người viết là Huệ Lan Phương.

Sư cô ấy ở cạnh nhà tôi, tên lúc nhỏ là Miến gọi là tên cúng cơm. Lớn lên ở tuổi đi học, tôi không biết cô tên gì và cũng không biết pháp danh, pháp hiệu của cô là gì khi cô đi xuất gia tu hành. Bởi vì vào giữa năm 1965 được biết cô đang học trung học ở Đà Nẵng thì lại vô ở Huế. Thời gian ấy tôi cũng xa xứ Quảng với thời gian dài dài ở Sài Gòn, Nha Trang và các tỉnh miền Tây cho việc học hành và dạy học của tôi. Có lần về thăm quê nhân dịp nghỉ hè, tôi thấy cô xuất hiện với hình tướng xuất gia. Thấy là thấy vậy, chả tò mò hỏi han làm chi!

Đất nước đang trên đà bể dâu, tôi đánh liều về thăm gia đình vào cuối năm 1979 trước khi làm kẻ thuyền nhân trên biển cả. Chưa ra biển được, ở mãi trong nhà thấy chán, tôi liều mạng ra sân nhìn đất trời xứ Quảng vào buổi trưa. Đang đứng hít thở khí trời quê hương cho thật sâu vào lòng trước khi lên tàu, thì chợt thấy Sư cô, người con gái năm xưa ở cạnh nhà với trang phục bộ đồ nâu kiểu áo vạt hò, đầu bịt khăn nâu, đi sandal màu vàng sậm cũ kỷ bạt màu, vai mang bị vải nâu lam hơi nặng trĩu, chân bước khoan thai trông có vẻ chả sợ gì ai, được hiện rõ trên gương mặt trái xoan sáng rực. Thấy cô, tôi chấp tay xá cô, cô đáp lại bằng nụ cười và một cánh tay đưa lên.

 

TUỆ ĐẠO ĐƯỢC SƯ CÔ HUỆ LAN PHƯƠNG TRAO TẬP NHỰT KÝ

Một hôm trời đang ngả về chiều, có tiếng gõ cửa bên ngoài, tim tôi liền dậy sóng, bối rối nhưng vẫn làm việc đắn đo nên mở hay không, vì nghĩ rằng công an gõ. Đang đắn đo, tiếng gõ thêm nữa, tôi đánh liều mở, nếu có chuyện rắc rối về tạm trú, thì tôi đưa giấy chứng nhận giáo chức hạng B ra, có thể tạm yên trong thời gian tìm đường ra đi. Sau ý nghĩ đó, tôi mở cửa he hé, vì cả nhà ai cũng đi lao động hết. Cửa vừa hé, một bé trai liền nói: “Thưa bác, cô con mời bác qua liền bây giờ để cô con nói chuyện chi đó”. Thế là tim tôi hết dậy sóng. Tôi thay cái áo mới cho đàng hoàng hơn, tôi qua ngay. Sau nghi lễ chấp tay bái chào là bổn phận người Phật tử tại gia. Tôi được Sư cô Huệ Lan Phương mời ngồi (tôi dùng tên Tịnh Lan Phương ở đây để dễ kể chuyện thôi, chứ tới giờ này, tôi vẫn không biết rõ cô ấy tên gì, pháp hiệu, pháp danh là gì).

Sau một hồi nghe cô Huệ Lan Phương kể chuyện cô xuất gia tu hành ở Ni viện Diệu Đức Huế, Từ Nghiêm Sài Gòn, Diệu Quang Nha Trang, rồi sau 30.4.1975 mọi sinh hoạt trong Ni viện Nha Trang, vân vân… Trong lúc nói chuyện với tôi, cô cũng không giới thiệu tên, pháp danh, pháp hiệu của cô cho tôi biết. Cô cũng không hỏi tên tôi, tôi cũng không giới thiệu tên tôi cho cô. Cuối cùng cô trao cho tôi tập vở bìa cứng dày cộm cả trăm tờ giấy gạch ca rô, đó là tập Nhật ký có nhan đề như đã nói vừa rồi. Người viết chính là cô Huệ Lan Phương (bút hiệu).

Trước khi trao cuốn Nhật ký, cô Huệ Lan Phương nói lời duyên khởi. Cô nói rằng:

- Tôi là Ni. Thân Ni vẫn là thân gái bị yếu đuối ở thể xác, ít bản lĩnh ở tâm hồn nên khó bảo vệ và cất giữ tập Nhật ký này ở thời đại, mà vật dụng ở một nơi, người ở một ngả. Nhất là sách vở, tài liệu kỷ niệm không thể mang theo ở thân nữ, để ở đâu đó có thể bị mất. Tập nhật ký này bị mất là uổng lắm, vì trong đó được ghi lại tâm tư tình cảm khô khan có, ngọt ngào có, cứng rắn có, dễ dãi có, ganh tỵ có, tha thứ có và nhiều hoàn cảnh vui, buồn, khổ cực ở tâm hồn và thể xác của từng cá nhân Sư cô cấp trung, cấp nhỏ. Đó là một tài liệu quý báu, do vậy mà tôi giao cho thầy (thầy ở đây là nghề thầy giáo) giữ. Tôi tin thầy có khả năng cất giữ lâu dài, vì tôi biết rằng thầy có nghiên cứu Phật pháp, viết Phật pháp cho các tập san Phật giáo. Từ đó thầy có thể viết ra những đời sống của các Sư cô trong quá khứ, để cho các thế hệ Tăng Ni hậu lai đọc qua, mà rút lấy kinh nghiệm cho việc điều hành đào tạo Tăng Ni ở chức vụ giáo thọ, yết ma, giám viện, thủ chúng, quản lý, tuần chúng… thì đừng nên đi theo vết xe cũ ở quá khứ, vết xe phong kiến cực đoan, mà làm khổ tâm, khổ thân cho các Tăng Ni đang trong tầm tay điều hành giáo vụ, giáo dục của mình”.

Tôi đứng lên bước tới, đưa tay đón lấy tập nhật ký từ tay Sư cô Huệ Lan Phương, ngồi xuống đưa mắt nhìn thoáng qua đề tài bất hủ nơi ngoài bìa tập nhật ký ấy như tôi đã nói vừa rồi, tôi áp nó sát vào lồng ngực bằng hai cánh tay ôm chặt chéo nhau, ngồi im nghe thêm lời chúc tạm biệt của cô trước khi tôi ra về, cô nói:

- Nhà tôi ở bên nhà thầy đã bao đời, nay lần đâu tiên tôi mới được tiếp xúc với thầy. Có lẽ do nhờ đất nước và Đạo pháp quẹo vào ngỏ quanh ở trang lịch sử, tôi mới được gặp thầy. Bằng không, chắc muôn năm không bao giờ được gặp thầy! Âu cũng là bởi cái duyên Đạo pháp với nhau. Do vậy sau này, tôi hy vọng sẽ được gặp thầy ở đâu đó trên trái đất này, vì trái đất tròn và Đạo pháp cũng tròn như trái đất. Với thầy, tôi không thể biết thầy sẽ đi về đâu trong những ngày sắp tới. Đi đâu thì đi do sở nghiệp của mỗi người, nhưng thầy đừng quên mang theo tập nhật ký nghe thầy. Quên là bị mất, mất là uổng lắm, Tăng Ni hậu lai sẽ không được biết đến cách sinh hoạt giáo dục Tăng Ni của thầy tổ mình ở quá khứ mang hình thái phong kiến.

Còn tôi, mặc dù là Tăng Bảo, nhưng thân gái yếu đuối, nên chi tôi phải trở về bổn tự hộ khẩu ở Ni viện Nha Trang cho chắc ăn, ở đây chỉ là tạm trú, cảm thấy bất an. Thời đại này hay thật, nhà cha mẹ mình mà không được ở lâu, bắt phải tạm trú. Thôi thì hằng thuận chúng sanh, về lại chùa xưa, ở đó cho đến ngày ra đi… Nói đến đây, Sư cô Huệ Lan Phương nín trong tư lự, như dấu kín ngày ra đi…, đi đâu đây. Tôi buộc miệng hỏi:

- Vừa rồi cô có nói ở đó cho đến ngày ra đi, thưa cô ngày ra đi… nghĩa là gì, cô đi về đâu vậy?

- Đăng Triệu biết cô Lan Phương trả lời sao?

- Anh cứ nói đi!

- Cô ấy trả lời rằng, nếu không được ra đi qua xứ lạ quê người như mọi người đang ra khơi vì mình thiếu thiện căn, phước đức, thì mình ở lại Ta bà cho đến mãn kiếp phù sinh, mình ra đi về quê xưa là nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Nước Cực Lạc mới đích thực là quê nhà của mình. Cho nên không đi qua xứ lạ, ở lại nhà Việt Nam đều là tạm trú hết. Kể ra ông nhà nước hiện nay dùng cụm từ tạm trú đối với toàn dân, nghe cũng có lý, cõi này là cõi tạm trú.

Thấy thời gian nói chuyện với cô Lan Phương lúc đó sao có vẻ lâu quá và cảm thấy bất an, mặc dù câu chuyện của hai người đang nói không phải là chuyện chính trị, tự nhiên làm cho bản thân tôi cứ bị xê dịch ra khỏi ghế, rồi đứng lên, xin phép cô về, viện cớ sẽ đi thăm bà con. Sau đó tôi kính chúc cô thân tâm luôn an lạc, Phật đạo mau viên thành, mọi việc được may mắn. Cô Lan Phương cũng chúc tôi như vậy, cùng với nụ cười hoan hỷ. Cô bước tới mở cánh cửa he hé đủ cho thân hình bé con của tôi đi ra.

Tôi mới bước xuống tầng cấp thứ hai, nghe tiếng cửa gỗ xưa đóng lại kêu két két. Kể từ sau khi cánh cửa vang lên tiếng két két, tiếng chào tạm biệt tôi lần chót, thay lời cho cô Huệ Lan Phương, cho đến mãi năm hai ngàn lẻ năm, tức là hai mươi lăm năm sau, tôi mới được gặp lại cô Lan Phương trong sự tình cờ.

Đăng Triệu nghe Tuệ Đạo nói được gặp lại cô Huệ Lan Phương, liền ngẩng đầu lên, trố mắt hỏi lia lịa:

- Ồ, hay quá anh hả! Anh gặp lại cô Huệ Lan Phương tại đâu vậy? Trong giờ phút gặp gỡ ấy, anh và cô Lan Phương, chắc ai cũng từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên cho đến vui mừng, rồi hỏi liên miên đủ thứ chuyện xa xưa. Tôi muốn nghe anh kể liền câu chuyện gặp lại cô Huệ Lan Phương.

- Khoan, khoan, khoan đã! Tôi người kể chuyện, anh người ngồi nghe. Chuyện ấy kể sau. Bây giờ chúng ta tiếp tục nghe Sư cô Huệ Lan Phương kể về chuyện Sư cô Minh Hoàng trong nhật ký.

Đăng Triệu biết không, khi trở về nhà, tôi liền mở tập nhật ký ra đọc say mê từng trang. Có những trang tôi đọc hai ba lần. Hầu hết những chuyện trong nhật ký mà cô Huệ Lan Phương đã ghi ra, là chuyện buồn ít, vui nhiều, đấu tranh tư tưởng, quyết chí tiến lên vận hành tu tập của Sư cô Minh Hoàng chiếm hơn nửa tập, mà lâu nay tôi đã kể cho Đăng Triệu nghe đó.

Phần chót trong nhật ký mà cô Huệ Lan Phương viết về Sư cô Minh Hoàng, tôi sắp kể sau đây, đó là đề tài “Vai trò Trưởng tử Như Lai”. Tôi mạo muội đặt thêm cái tên “Hạt giống Bồ Đề bay xa”.

Người xưa thường nói: “Người có tài, bất cứ tài gì, được xã hội trọng dụng. Chỉ sợ rằng không có tài, chứ đừng sợ không được trọng dụng!” Người có tài đức song toàn, sẽ được xã hội tôn vinh mời thỉnh làm các việc lớn cho quốc gia dân tộc.

Cũng như vậy, Tăng Ni (hay Cư sĩ) trong Phật giáo ở mọi thời đại, vị nào có tài đức song toàn, luôn luôn được chư tôn giáo phẩm cấp trên trong các giáo hội, cung thỉnh hành đạo trên cơ sở hoằng hóa độ sanh ở các phần việc phụng sự Đạo pháp khác nhau. Đó là vai trò và bổn phận của Trưởng Tử Như Lai đúng nghĩa. Đúng nghĩa như thế nào? Đúng nghĩa có hai, người Tăng Ni sau khi có năng lực tự giác rồi, tự nhiên khởi lòng muốn giác tha cho chúng sanh theo quy luật. Thứ đến sau khi tốt nghiệp văn hóa, được chư tôn đức cấp trên xét thấy vị Tăng Ni ấy có tài đức, liền cung thỉnh ra làm việc cho giáo hội. Chứ Trưởng Tử Như Lai không phải có thân tướng xuất gia hiện hữu giữa lòng xã hội, được nhận mọi sự cúng dường của tín thí, mà không được nói lời pháp, không có hành động nào trong việc phát triển Đạo pháp vào dòng đời thế gian, do vì không có tài đức, mà gọi là Trưởng Tử Như Lai!

 

SƯ CÔ MINH HOÀNG ĐƯỢC HT TRÍ THỦ MỜI TRÔNG COI TRƯỜNG MẪU GIÁO KIỀU ĐÀM

Tăng Ni có tài đức, không phải ngồi yên trong am cốc mà được có tài đức. Người Tăng Ni được có tài đức song toàn, là phải được tôi luyện trong các Tu viện với thời gian hằng chục năm, qua quá trình tiếp nhận ba nền giáo dục: ý giáo, khẩu giáo và thân giáo bằng công phu học Phật, tu luyện thân tâm bằng giới luật đúng theo thời khóa của nội quy. Sau khi tốt nghiệp ra trường, người Tăng Ni ấy mới đích thực là Trưởng Tử Như Lai. Cho nên vai trò của Trưởng Tử Như Lai là khởi lòng giác tha và được chư tôn đức cấp trên trong các giáo hội, cung thỉnh ra làm việc hoằng hóa độ sanh trên các cơ sở văn hóa, giáo dục, pháp tạng, từ thiện, xã hội, v.v…

Sư cô Minh Hoàng đã tốt nghiệp khoa bảng văn hóa tú tài một ban C và sư phạm giáo dục từ năm 1965 và tú tài hai vào năm 1969, được chư tôn đức Tăng Ni cung thỉnh làm việc văn hóa và giáo dục, trong đó dạy học và làm các việc văn hóa học đường, từ thiện, xã hội cho mọi tầng lớp con người Việt Nam giữa thời điểm chiến tranh.

Đến năm 1970, Sư cô Minh Hoàng được Hòa Thượng Thích Trí Thủ mời vào Sài Gòn để trông coi trường mẫu giáo Kiều Đàm tại đường Công Lý cũ bên cạnh Trung Tâm Quảng Đức. Nhận lời của Hòa Thượng Trí Thủ, Sư cô Minh Hoàng mời thêm một Sư cô đàn em, cùng vào đó để chăm lo công việc đỡ bớt cô đơn. Khi vào tiếp nhận cơ sở trường ốc, thấy ngôi trường chỉ còn lại cái xác, cửa ngõ bị hư cũ, tường vách bạc màu, không có bàn ghế, v.v… Thế là Sư cô Hoàng phải bỏ ra công sức và kể cả tài chánh để tái lập bàn ghế, tự tay quét nước vôi lên tường, sửa chữa và sơn phết các cửa.

Đã là trường mẫu giáo, ắt phải có những mẫu vẽ bằng giấy để cho các cháu nhỏ sơn, vẽ, đồ lại trên các mẫu ấy, cũng như phải biết cách điều hành lớp mẫu giáo. Do vậy, Sư cô Minh Hoàng đến các trường tiểu học ở Gia Định để nghiên cứu và học hỏi các cách trông coi và điều hành lớp mẫu giáo. Trong đó có tư cách của vị hiệu trưởng và cách thức dạy bảo các học sinh mẫu giáo của người giáo viên nữa. Trong thời gian nghiên cứu và học hỏi đó, Sư cô Minh Hoàng xin nhiều mẫu con dấu mà các em mẫu giáo đã tô màu xong. Trên đường về, cô Hoàng ghé vào tiệm giày mua một vài miếng cao su cứng dùng để dán giày, rồi dán vào đó. Kế tiếp là dùng một mảng dao lam bén nhọn, khắc lên cao su cho giống y hệt con dấu. Rồi lại đem đến thợ mộc, nhờ họ dán lên, mình lại theo đó khắc lên lần nữa, là lần chót được có những con dấu bằng gỗ, cứ như thế mà đóng vào những giấy vở của các cháu, các cháu theo đó mà tô màu. Công việc tự sáng tác ấy được tiết kiệm cho trường cả mấy chục ngàn, vì một bộ lúc đó mướn thợ làm phải ba ngàn đồng Việt Nam thời đó.

Sau ba tháng, ngôi trường Kiều Đàm mẫu giáo được khang trang mới mẻ, có đủ bàn ghế và các dụng cụ cho các cháu mẫu giáo. Ông Phật tử có trách nhiệm kiến thiết trường ốc lúc đó là Trần Đình Lạc, phải nói là người khó tính, nhưng ông phải nói lời bái phục tài năng sáng tác của Sư cô Hoàng. Ông ta nói rằng; ông là Phật tử lâu năm của tu viện Quảng Hương Già Lam, mà chưa hề thấy có một sư nữ nào có tài năng giỏi nhiều việc như Sư cô Minh Hoàng!

Trường sở vừa được sửa chữa mới mẻ xong, Sư cô Hoàng ra văn thư tuyển chọn giáo viên. Khi các giáo viên được cô nhận đơn và chấp nhận cho dạy, cô không quên huấn luyện cho họ về cách dạy dỗ trẻ em mẫu giáo và điều hành một số việc khác.

Nghe trường sở đổi mới, các cháu đến học, có giáo viên đến dạy, các Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Thích Thiện Minh thỉnh thoảng đến thăm cùng với lời tán thán công đức cô Hoàng và Sư cô phụ tá. Các ôn còn cho quà, khi thì trái cây, khi thì cây bút máy hiệu Pilot, lọ thuốc bổ, vân vân…

Một hôm nọ, thình lình có một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi, ông ấy đi xe lăn vào trường trong lúc Sư cô Hoàng đang loay hoay công việc, khi quay lui, ông ấy chào, rồi nói rằng: “Con định không vô đây, nếu không vô, đi luôn thì nhẫn tâm quá, nên vô. Vô đây để báo cho cô biết; đây là lời thật của con. Năm nay cô có đại tang. Sau này cô không được ở đây nữa và không còn được ở quê hương nữa, cô sẽ đi đến ở một xứ lạ rất là xa.” Nói xong, ông ta chào cô Hoàng, quay xe đi thật mau, Sư cô Hoàng không kịp để hỏi thăm gì nữa. Đến chiều cùng ngày hôm đó, Hòa Thượng Thích Đỗng Minh từ Nha Trang vào, thầy cầm một bó đũa tre khi Sư cô Hoàng và Sư cô phụ tá đang ăn cơm. Thấy Hòa Thượng Đỗng Minh vào, hai Sư cô đứng lên chào. Hòa Thượng liền đưa cho bó đũa rồi nói:

- Mau mà về lại Nha Trang nghe!

- Thưa thầy, ôn Trí Thủ kêu con vô làm việc, sao thầy lại bảo con về?

- Rứa mà phải về đó! Lời Hòa Thượng Thích Đỗng Minh khẳng định.

Mặc dù lời Hòa Thượng Đỗng Minh nói như vậy, nhưng Sư cô Hoàng làm sao về lại Nha Trang, lấy cớ gì, nguyên do gì mà về! Nên cứ ở yên, làm việc như thường lệ.

 

SƯ CÔ HOÀNG VỀ QUÊ THĂM THÂN MẪU ĐAU NẶNG

Đến độ chừng nửa tháng sau, Sư cô Hoàng nhận điện tín của bà chị từ Đà Nẵng đánh vào báo tin bà má đau rất nặng, yêu cầu Sư cô về. Sư cô Hoàng sắp xếp công việc trường cho Sư cô phụ tá coi tạm trong thời gian vắng mặt. Sư cô về Đà Nẵng ở bên bà má được hai tháng, thì bà má qua đời. Sau khi chôn cất bà má xong, cô biết được Hòa Thượng Trí Thủ đã trả trường, không tiếp tục dạy mẫu giáo nữa, vì Sư cô phụ tá không đủ khả năng điều hành công việc, mặc dù chỉ là những lớp mẫu giáo thôi, nhưng lại có nhiều việc khó khăn vất vả, làm cho Sư cô phụ tá bị bối rối, không giải quyết được giữa thời gian Sư cô Hoàng vắng mặt hai tháng.

Sư cô Hoàng về lại Ni viện Nha Trang với tâm trạng nhớ mẹ qua đời, luyến tiếc cho ngôi trường mẫu giáo đã dày công tạo dựng khang trang, chẳng bao lâu đã không còn tồn tại theo định luật vô thường! Do vậy, từ lúc bà má mất cho đến 49 ngày, cô Hoàng không khóc, nhưng sau 49 ngày, những ngày sống ở Ni viện, cô Hoàng bắt đầu nhớ thương mẹ, cô khóc, khóc rỉ rả hoài hoài ngày qua ngày, tháng qua tháng. Thấy vậy, hai ba Sư cô đàn em dẫn Sư cô Hoàng đi thăm các chùa lân cận để cho khuây khỏa.

Trên đường đi xuống phố, ba cô ghé vào chùa Ngô Đồng ở đầu đường Độc Lập cũ. Chùa này là do một nam cư sĩ đã có vợ con rồi, xuất gia tự tạo chùa để tu niệm và thờ phượng ông bà, do vậy chùa không lớn lắm, nhưng mặt tiền khá sáng sủa và hoành tráng. Chùa đã được tồn tại rất lâu, cho nên vị thầy trụ trì ấy cũng đã tự trở thành chức vị Hòa Thượng, tu lâu ắt hẳn lên Sư cụ ở tuổi trên bát tuần. Do vì chùa chỉ có một vị thầy già, không ai trông coi đèn đuốc, hoa quả, nên trong chánh điện có bàn còn đèn sáng, có bàn đèn điện đã bị tắt. Thấy vậy, Sư cô Hoàng hỏi vị Hòa Thượng lý do tại sao đèn đuốc chỗ tắt, chỗ đỏ. Vị Hòa Thượng Ngô Đồng trả lời, là do mấy người thợ điện đến sửa điện, họ đã ăn cắp hết đồ điện, rồi đi đâu mất. Nghe vậy, Sư cô Hoàng mới nhã ý với Hòa Thượng có muốn sửa, làm lại hết tất cả hệ thống dây và cầu chì hay không, thì cô Hoàng sẵn sàng giúp cho. Vị Hòa Thượng bằng lòng ngay. Sau đó Sư cô Hoàng xem xét dây điện, công tắt, cầu chì chỗ nào đứt, chỗ nào còn. Sư cô Hoàng và hai Sư cô kia thả bộ xuống đường Quang Trung gần đó, vào tiệm ông Dương Sanh Phát mua một ít dây và các thứ đồ điện, đem về chùa, rồi tự ra tay sửa lại dây bị đứt, cầu chì bị hỏng, công tắt gãy… tất cả được hoàn chỉnh lại hết. Tất cả bóng đèn đều cháy đỏ sáng rực. Thời gian làm điện từ buổi xế đến tối là xong, làm cho vị Hòa Thượng Ngô Đồng ngạc nhiên và vui mừng. Lúc đó Hòa Thượng Ngô Đồng rất cảm ơn và tôn quý Sư cô Hoàng lắm. Do vậy ngài liền phát tâm cúng lại ngôi chùa đó cho Sư cô Minh Hoàng.

Sư cô Minh Hoàng liền thưa rằng, cô là Ni thuộc về Phật Học Viện, khó có thể nhận chùa. Nếu được như vậy, xin Hòa Thượng viết đơn gởi lên Giáo hội duyệt xét. Duyệt xét xong đưa qua Vụ trưởng Phật Học Viện. Ở đây duyệt rồi đưa xuống ban giám đốc Ni viện. Ban giám đốc Ni viện họp xét, rồi mới ra văn thư bổ nhiệm.

Hồ sơ đi lòng vòng qua nhiều khâu hành chánh với thời gian ba tháng mà chưa có giấy bổ nhiệm. Trong thời gian ấy, Hòa Thượng Ngô Đồng cứ ngày nào, cũng ngồi xích lô lên Ni viện hỏi thăm bao giờ Sư cô Hoàng về nhận chùa.

Một hôm, Hòa Thượng vừa đến Ni viện, được Sư cô quản lý báo cho biết giấy bổ nhiệm Sư cô Hoàng làm trụ trì chùa Ngô Đồng đã về. Hòa Thượng lấy làm vui mừng bằng lời niệm A Di Đà Phật, cùng lời cảm ơn.

 

SƯ CÔ HOÀNG LÀM TRỤ TRÌ CHÙA NGÔ ĐỒNG

Nhận được giấy bổ nhiệm trụ trì, Sư cô Hoàng nhớ lại lời Sư bà Thể Quán thường dặn dò; các Sư cô một khi đi đâu, ngắn ngày hay dài ngày cả năm trở lên, cho công việc hoằng hóa độ sanh, là phải mời một hoặc hai Sư cô em hay chị cùng đi theo, để trợ đạo cho nhau khỏi buồn tẻ cô đơn. Với tình chị em đồng tu, đồng nghiệp xuất gia và cũng là tình mẹ con quá khứ sắc son lâu năm trong Ni viện, Sư cô Hoàng quyết định mời Sư cô mẹ đi theo về ở chùa Ngô Đồng.

Sau ba ngày hiện hữu tại chùa, một hôm vị Hòa Thượng già nói với Sư cô Hoàng là ngài không ở chùa nữa, về ở với mấy người con ngoài phố. Qua lời của Hòa Thượng đòi về ở với con của ngài, Sư cô Hoàng liền thưa rằng; tuổi đời của ngài đáng cha, tuổi đạo thì đáng bậc thầy. Suốt cả cuộc đời tạo dựng ngôi chùa và tu hành ở đó lâu năm, có nhiều kỷ niệm, thì nay Hòa Thượng giao cho cô Hoàng về ở với con, coi sao được. Mặc dù ở với con giàu có, nên được cung phụng sung sướng, nhưng vẫn là cái nhà cư sĩ. Sư cô Hoàng ngỏ lời mời Hòa Thượng ở lại chùa để Sư cô hầu hạ từ nay cho đến lúc ngài về Cực Lạc. Qua lời mời chân thật của Sư cô Hoàng, Hòa Thượng Ngô Đồng bằng lòng ở lại. Ngài Hòa Thượng được Sư cô Hoàng bố trí cho ở riêng một phòng đặc biệt rộng và thanh tịnh ở nhà sau.

Ngay từ sau giờ phút nhậm chức, nhiều bà Phật tử cơ hữu của chùa, cũng như các bà Phật tử chùa hội đều đến. Mấy bà thưa với Sư cô Hoàng là đừng xuống bếp, để các bà đem thức ăn nấu sẵn đến cho Sư cô và vị Hòa Thượng theo chương trình đã được các bà ấn định; sáng ăn món gì, trưa chiều ăn món gì trong vòng một tháng.

Vấn đề ăn sáng, trưa, chiều đối với vị Hòa Thượng và các Sư cô không thể cùng mâm cùng giờ được, phải khác giờ. Vị Hòa Thượng phải ăn trước, các Sư cô ăn sau vì Sư cô Hoàng bận nhiều việc. Cho nên Sư cô Hoàng căn dặn bà công quả là chọn món nào ngon nhất, mềm nhất dọn và mời Hòa Thượng ăn trước. Có mấy lần Hòa Thượng già vào bàn, ngài hỏi ai nấu thức ăn này đây? Bà công quả nói là Sư cô Hoàng nấu. Lần sau ngài hỏi nữa, bà công quả cũng lặp lại “do Sư cô Hoàng nấu”, ngài liền nói bà công quả nói dóc, rồi ngài nói rằng cho ngài ăn những món ăn đó là ăn chực của cô Hoàng. Bên cạnh lời than “ăn chực”, vị Hòa Thượng già còn nói rằng: “hồi xưa sao không thấy Phật tử về chùa nhiều, mà nay sao đông vậy!”

Chùa Ngô Đồng là chùa tư không nằm trong hệ thống giáo hội. Tuy nhiên vẫn có số Phật tử chỉ biết tín ngưỡng về chùa lễ bái, cúng tế cầu phước. Sư cô Hoàng biết hết tất cả  hiện tượng tín ngưỡng cầu phước đó, liền sử dụng phương tiện thắng trí (trí tuệ nhạy bén) của mình qua từng bước tiếp xúc thăm hỏi, mời ở lại tụng kinh, rồi thuyết pháp cho họ nghe. Từ đó, không những chỉ có số Phật tử biết tín ngưỡng, càng lúc càng về đông đủ, mà có cả tập thể nam nữ cư sĩ học Phật tại Nha Trang do đạo hữu Vương Bá làm chúng trưởng cũng về, xin cô Hoàng mở lớp học giáo lý cơ bản và trung cấp, vì đạo tràng của ông Vương Bá là tại tư gia và hơn nữa họ đã biết Sư cô Hoàng có nhiều năng khiếu đa dạng, mà Phật học là hàng đầu sở trường của cô, do đó họ kéo nhau về cung thỉnh cô Hoàng mở lớp và dạy Phật pháp cho họ.  Trước sự việc chẳng đặng đừng, Sư cô Hoàng mời quý thầy bạn cùng lớp, một vài thầy lớp trước về dạy giáo lý cho số Phật tử cơ hữu của chùa Ngô Đồng và tập thể cư sĩ ông Vương Bá. Vô tình chùa Ngô Đồng đã trở thành một trường Phật Học sơ trung.

Lúc đầu mở lớp Phật pháp, Sư cô Hoàng chỉ nghĩ đến cho nam nữ cư sĩ học thôi, nhưng sau đó cô Hoàng liền nghĩ đến một số Tăng Ni bên các tịnh xá, chùa Cổ Sơn Môn từ lâu không có thiện duyên được học Phật pháp, cho nên hằng ngày cứ làm nhang để bán, tối về tụng kinh niệm Phật. Sư cô Hoàng liền đến mời các Tăng Ni ở các tự viện, am cốc ấy về học Phật pháp. Thế là số học viên được có thêm Tăng Ni trên mười vị; còn cư sĩ thì đông lắm, cả trăm người, họ rất đoàn kết sống bằng pháp lục hòa, tương kính nhau, gọi và xưng hô với nhau bằng lời huynh đệ anh, chị, em. Các ngày mười bốn, ba mươi, họ về lạy sám hối và nghe Sư cô Hoàng thuyết pháp các đề tài pháp số cơ bản. Nhân cơ hội này, họ tự động mỗi vị bỏ tiền cúng dường để cho Sư cô Hoàng chi tiêu vào các mục Phật sự của chùa như hoa quả, tiền điện… Cứ nửa tháng là có một lần cúng dường tịnh tài như vậy vào tối 14 và 30 mỗi tháng.

Bằng nghệ thuật lãnh đạo đúng đạo lý dung hòa và tâm lý qua nhận thức ngôn ngữ, tư cách hành xử với mọi tầng lớp nam nữ Phật tử già, trẻ rất là quan trọng, Sư cô Hoàng liền mời một số nam nữ Phật tử có tiếng nói, tập tục văn hóa, nếp sống xưng hô, lễ nghi tiếp đãi của ba miền nam, trung, bắc về chùa để Sư cô học hỏi lời nói nào đẹp nhất, hay nhất, lịch sự nhất. Tuổi nào gọi là cụ ông, cụ bà, ông, bà, anh, chị, cháu trong cách xưng hô, đối đãi nhau để được hài hòa. Bởi vì lúc bấy giờ số đông Phật tử về chùa Ngô Đồng đều có đủ ba miền nam, trung, bắc. Nếu không học hỏi cách xưng hô, lễ nghi, tập tục của ba miền để xưng hô, đối đãi thì dễ bị mích lòng lắm.

Có lẽ do được thấm nhuần các đạo lý vô thường, khổ, không, vô ngã qua vài tháng học Phật pháp, đã có hai thiếu nữ xin quy y và xuất gia với Sư cô Minh Hoàng. Sau lễ quy y, thọ  năm giới, xuất gia, thế phát (cạo tóc), cô thứ nhất có pháp danh Nguyên Minh, cô thứ hai có pháp danh Nguyên Phương. Khi đã được xuất gia rồi, hai cô liền về chùa ở luôn đó, để học kinh nhật tụng và giới luật, tiếp tục học Phật pháp, cũng như lo chấp tác việc chùa. Trong hai Sư cô mới tu, cô Nguyên Minh nhanh trí hơn.

Với tấm lòng thương kính Sư cô mẹ, không muốn mẹ mình sống trong không khí cô đơn, tẻ nhạt, phải được vui vẻ qua lời nói tâm tình với ai đó. Không biết ai hơn, là hai Sư cô mới tu sẽ là đối tượng để cho bà mẹ tâm tình, trong đó có lời dạy dỗ, chỉ bày thêm lối sống có đạo hạnh trong thiền môn, chứ không phải chỉ có thông đạt giáo lý Phật Đà không thôi. Do Sư cô Hoàng quá bận rộn nhiều việc Phật sự hằng ngày, không có giờ tâm tình với hai Sư cô mới tu trong vai trò giáo thọ, bổn sư quy y, để chỉ vẽ cách sống có đạo đức của người Tăng bảo mà cô đã dày kinh nghiệm, nên Sư cô Hoàng quyết định cho hai Sư cô mới tu đó làm đệ tử của Sư cô mẹ.

Sư cô mẹ nhận chịu làm bổn sư cho hai thiếu nữ mới xuất gia, nhưng không nhận dạy dỗ, cho nên Sư cô mẹ nói với Sư cô Hoàng rằng:

- Chị không đủ khả năng để nói lời tâm tình trong việc dạy bảo điều hay lẽ thật, kinh nghiệm làm sư cho hai cô mới tu. Em là sư thúc, em thay chị mà dạy dỗ hai Sư cô mới tu đó đi! Hơn nữa chị sắp về quê rồi!

Sư cô Hoàng nghe Sư cô mẹ nói sắp về quê, liền phát ra âm thanh:

- Hừ! Chị nói thật hay đùa đấy? Chị ở lại giúp em đừng đi về quê sớm, vì con đường tu hành Bồ Tát hóa độ chúng sanh của em còn dài và chông gai lắm!

Quả thật lời Sư cô mẹ nói sắp về quê, không sai tý nào, cho nên một đêm khuya nọ…

 

NHỮNG HIỆN TƯỢNG HIỂN LINH

Tình thầy trò sống với nhau mới được mười bốn ngày kể từ sau giây phút cho hai Sư cô làm đệ tử Sư cô mẹ kiếp trước, thì một đêm khuya nọ, đang trong giấc ngủ say, người thiếu nữ xuất gia có pháp danh Nguyên Minh bỗng nghe có tiếng chân nhiều người đi và nói rì rào trên chánh điện. Cô Nguyên Minh liền lắc tay Sư cô Hoàng và nói khe khẽ:

- Sư chú, sư chú!

- Chuyện chi vậy?

- Con nghe ai đi trên chánh điện nhiều lắm, đông người lắm và nói rì rào.

- Không có gì đâu, chuột chạy đó, về chỗ ngủ đi.

Sư cô Nguyên Minh về nằm lại chỗ cũ là nơi bàn tổ thuộc chánh điện, vì cô thích nằm ngủ ở đó hơn là trên bộ ván ở nhà tăng.

Ngủ một chặp chừng mươi phút, Sư cô Nguyên Minh lại nghe tiếng chân và lời nói của nhiều người. Lần này tiếng chân đi rầm rộ hơn trước, làm cho cô hoảng sợ, chạy xuống lắc tay Sư cô Hoàng, nói:

- Sư chú! Sư chú! Lần này con nghe và thấy rõ nhiều người đi lắm, đông lắm lận, hơn lần trước!

- Đừng mớ nữa mà! Ngủ đi!

Sau đó Sư cô Nguyên Minh sợ quá nên không dám lên nằm trên chánh điện sau bàn tổ nữa, mà vào nằm với Sư cô Nguyên Phương và Sư cô Hoàng nơi bộ ván.

Đến 5 giờ sáng, nghe tiếng đại hồng chung trên Phật Học Viện Hải Đức đánh ngân vang, Sư cô Hoàng tỉnh giấc và hai Sư cô kia cũng dậy luôn. Thấy ba Sư cô dậy sớm, Sư cô mẹ hỏi:

- Sao em dậy sớm vậy?

- Em nghe chuông Hải Đức đánh rồi, em dậy đi công phu.

Xong xuôi các việc vệ sinh, ba Sư cô cột dây chân, đắp y áo lên chánh điện khai chung bản công phu sáng. Thấy vậy, Sư cô mẹ lên chánh điện lấy hai giá kinh đem đến cho hai Sư cô trẻ, rồi quay vô giường nằm lại. Một vài phút sau, Sư cô Hoàng từ chánh điện nghe từ phía sau vọng lên tiếng ú ớ. Sư cô Hoàng đi nhanh vào, thấy Sư cô mẹ đang ngồi, đưa tay chỉ vào cằm với tiếng nói “chụy ụy úng ó ấm ẩu hồi, họi on ốn ễ ỗ ầy”, nghĩa là chị bị trúng gió cấm khẩu rồi gọi con bốn (chị công quả) lể chỗ này.

Mấy tiếng đồng hồ sau, Sư cô mẹ viên tịch (qua đời). Ngày hôm đó là 28 tháng 4, cũng là ngày cúng giỗ giáp năm bà má Sư cô Hoàng. Tức là Sư cô mẹ kiếp trước mất trùng giờ, trùng ngày, trùng tháng với thân mẫu Sư cô Hoàng. Cho nên mỗi lần kỵ giỗ hằng năm cho thân mẫu, Sư cô Hoàng cũng làm lễ cầu siêu cùng lúc cho hai bà mẹ luôn một lần.

Nghe con mình chết, bà má của Sư cô mẹ liền nổi điên, vào nhà bếp chùa lấy cây rựa, cầm trên tay nói một cách hung dữ; đòi chặt Sư cô Hoàng, vì cho rằng con bà chết là do Sư cô Hoàng đem về ở chùa Ngô Đồng.

Sư cô Hoàng lên bàn thờ khấn vái “Chị ơi! Chị có linh thiêng cứu em dùm, em đang làm nhiều việc Phật sự quan trọng thế này, mà bà má hăm chặt em, làm sao em có thể thực hiện được!”

Khấn vái xong, chỉ một phút sau, Sư cô Hoàng đi xuống nhà dưới, thấy bà cụ đem cất cây rựa, rồi riu ríu tự đi vào phòng, đóng cửa lại, ngồi im trong đó.

Qua ngày hôm sau, bà cụ tự nhiên ngồi khóc rồi đòi cô Hiền trả tiền, trả vàng. Sư cô Hoàng lên bàn thờ khấn vái giác linh Sư cô mẹ giúp điềm chỉ cho. Thế là cô Bích tự động dẫn bà cụ đến mở cửa tủ kinh sách ra, mới thấy tiền và vàng cất giữ trong những trang kinh sách. Có lẽ bà cụ gởi cho cô Hiền, cô Hiền đem cất trong những quyển kinh.

 

ĐÁP LỜI BẰNG HIỆN TƯỢNG GIÓ XOÁY

Một buổi chiều, các thầy ở chùa hội Long Sơn lên núi nơi kim thân Phật tổ để ngắm cảnh. Sẵn đó lại thăm mộ Sư cô mẹ mà lúc sáng các thầy đã đào huyệt bị gãy hai lưỡi cuốc và quẹo lưỡi xà beng vì đất đá quá cứng. Trong lúc đứng nhìn lại ngôi mộ mới, một thầy nói”nằm yên đây rồi, hết làm ăn gì được! Bây giờ có giỏi về chào tụi tui cái đi!”. Tự nhiên có một luồn gió từ trên cao thổi mạnh xuống, xoáy tròn gom hết bao nhiêu lá vàng cỏ khô, giấy vụn chung quanh đó tụ lại một chỗ, rồi xoay tròn nhiều đợt, từ chỗ này qua chỗ khác, cất cao lên, hạ xuống đất, tiếp tục xoáy tròn cuồn cuộn chung quanh các thầy.

Các thầy liền nói: “Thôi xin Ni sư, biết rồi, đừng hù tụi này nữa!”. Thế là hết gió, hết xoáy.

 

NHỜ CÁC EM GĐPT VÁC ĐÁ DÙM

Thầy quản lý Phật Học Viện Hải Đức giúp dùm Sư cô Hoàng, là thuê hai ông Phật tử đem mấy trăm viên đá xanh từ dưới dốc lên núi, để xây mộ Sư cô mẹ. Ngân quỹ xây mộ, thuê người vác đá, thợ hồ… đều do Sư cô Hoàng lo hết. Cho nên sáng chủ nhật lên để xem hai ông Phật tử rinh hết đá chưa. Thì thấy hai ông, mỗi ông vác được 3 và 4 viên là đầu hàng, không vác nỗi nữa.

Trước tình cảnh đá còn nhiều, không ai đem lên được mà ngày mai là ngày thợ hồ bắt đầu xây rồi. Sư cô Hoàng bèn đứng trước mộ khấn vái. Vái xong trên đường xuống chùa, bắt gặp 20 em thanh niên GĐPT từ dưới đi lên. Sư cô Hoàng liền nhã ý nhờ các em vác hộ cho. Hai mươi em lực lưỡng liền hoan hỷ trở xuống vác đá. Thế là chưa tới một tiếng, các em đã vác hết đống đá. Trong lúc các em vác đá, Sư cô Hoàng xuống bếp chùa nấu cơm, xào rau, pha nước tương đem lên cho các em ăn. Ăn xong, thầy trò ngồi quây quần ca hát rồi giải tán.

 

SAI SƯ CÔ NGUYÊN MINH XOA BÓP TAY SƯ CÔ HOÀNG

Sau những ngày chôn cất và xây mộ xong, Sư cô Hoàng và hai đệ tử nằm ngủ chung nơi bộ ván lớn được che một cái mùng rộng. Đang lúc ngủ, giữa đêm giác linh Sư cô mẹ về bảo cô đệ tử Nguyên Minh: “Này con, sáng ra con nhớ lấy dầu cù là bóp hai cánh tay và hai vai cho Sư chú con, vì Sư chú con đang bị nhức mỏi rả rời cả thân thể đó”.

Khi thức dậy, hai bàn tay cô Nguyên Minh cứ vẫn còn tự bóp. Sau đó cô Nguyên Minh tường thuật lại cho Sư chú Minh Hoàng nghe. Sư cô Minh Hoàng liền nhận ra lúc đang ngủ nghe có bàn tay ai bóp vai, hai cánh tay, nhưng vì bị mỏi mệt quá không ngồi dậy xem là ai. Bây giờ được khỏe ra rồi.

 

MƯỢN TAY NGƯỜI KHÁC VIẾT THƠ CHO SƯ CÔ HOÀNG

Một bà Phật tử tên Hoa, là cô giáo dạy học. Một đêm nọ đang ngủ, nằm thấy giác linh Sư cô mẹ đến nói rằng: “Chị làm ơn cho tôi mượn cánh tay chị để tôi nói một vài lời cần thiết với em Hoàng tôi”. Khi tỉnh dậy, cô Hoa chẳng để ý gì đến điềm chiêm bao ấy làm chi, cứ lo việc đi đến trường để dự khóa tu nghiệp giáo chức. Khi từ nhà đi là đi đến trường, nhưng khi hết giờ học, trên đường về nhà buổi chiều, tự nhiên cô Hoa sao cứ thấy bước chân của mình cứ đi về hướng chùa, cuối cùng đi vào cổng chùa Ngô Đồng. Vừa đi vào, cô Hoa cảm thấy cánh tay cầm bút của mình tự nhiên bị nhức nhối lạ thường. Cô Hoa liền nhớ lại lời giác linh Sư cô mẹ hiện về nói mượn cánh tay… Lúc đó cô Hoa thấy Sư cô Hoàng đứng sẵn đó, bèn kể hết giấc mộng và nói cánh tay đang bị mỏi. Sư cô liền dẫn cô Hoa ngồi vào bàn, lấy cái gối kê tay, lấy giấy, bút ra đưa cho cô Hoa. Cô Hoa cầm bút đặt xuống tờ giấy. Từ lúc đó bàn tay cô Hoa cứ tự động viết lên giấy những lời:

Câu đầu tiên, xin lỗi chị Hoa. Tôi biết chị đau lắm, nhưng mà không còn nhờ ai được.

Em Minh Hoàng ơi! Chị đi gấp quá, chưa kịp nói với em. Chị đành mượn tay chị Hoa để nói chuyện với em. Chị cảm ơn em đã đưa mẹ chị về ở chung với em, nhưng mẹ chị đã có những người con. Hãy để mẹ chị về ở với những người con của bà, thì đúng nghĩa hơn. Tánh tình mẹ chị không được bình thường, ở chung với em sẽ gây ra buồn phiền cho em. Chị tin chắc mẹ không chịu ở với em đâu. Cảm ơn em đã lo chu toàn tang lễ chôn cất chị.

Sư cô Hoàng hỏi “bây giờ chị đang ở đâu?”

Có những lúc ở trên mộ, có những lúc ở đây (chùa Ngô Đồng), có những lúc ở bên Ni viện. Em cần hỏi gì thêm hãy hỏi nhanh, chứ các bác đang đến chuẩn bị tụng kinh cho chị rồi đó”.

Trong thời gian trước 49 ngày, giác linh Sư cô mẹ lại kêu Sư cô Hoàng lần nữa và nói rằng “Sau 49 ngày, chị sẽ đi rồi. Tuy nhiên em cần cái gì, muốn gặp chị, thì đánh một hồi chuông, thắp nhang khấn thì chị sẽ về. Rồi nói gì thì nói trong vòng 30 phút. Sau đây chị báo tin cho em biết, trong những ngày tháng sắp tới, em sẽ không còn ở chùa Ngô Đồng này nữa”.

 

GIÁC LINH MẸ HÓA BƯỚM

Đến ngày 49, đang giờ phút tụng kinh cầu siêu, thì tự nhiên có một con bướm thật lớn bay đậu ở nơi tay Đức Phật. Khi các thầy làm lễ cúng giác linh, thì con bướm bay qua đậu ở trên đầu khuôn hình tại bàn linh. Khi cúng xong, con bướm bay qua bay lại là đà từ dưới nhà lên lầu, rồi bay là đà từ trên lầu xuống dưới lầu. Bướm bay trước, các huynh đệ (Tăng Ni) đi theo sau con bướm. Khi xuống phòng dưới lầu, bướm bay vào phòng ngủ cũ, rồi bay ra, bay qua chỗ phòng Hòa Thượng đang ở, bay qua thăm chỗ chị bốn công quả và bay qua thăm mấy đứa con Hòa Thượng hôm đó đang có mặt tại chùa. Sau khi thăm đủ chỗ và mọi người xong rồi, bướm bay ra cửa sổ. Lúc đó Sư cô Hoàng và các Sư cô huynh đệ chạy thật lẹ ra ngoài, không thấy bướm đâu cả! Không phải chỉ vài người thấy con bướm hôm đó, mà mười mấy người đều thấy hiện tượng con bướm.

 

TRỞ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA

Tất cả mọi hiện tượng hiện hữu trên đời này được có, là do nhân duyên mà bị dời đổi, đổi thay, tan rả cũng do nhân duyên. Tan chỗ này, nhưng lại hợp chỗ khác, tức là mọi bản thể sự vật không có gì là mất, không có gì là còn. Mất bản thể này lại được hiện hữu ở bản thể khác, đúng theo lý trùng trùng duyên khởi trong Phật giáo.

Cũng như vậy, trên lãnh vực hoằng hóa độ sanh của vô số các cấp Bồ Tát (Tăng Ni) luôn thay đổi môi trường và hoàn cảnh do hết duyên và được duyên, cho nên khi thì ở chỗ này với thời gian dài hay ngắn, khi thì hiện hữu ở nơi khác ngày mai do nhu cầu của chúng sanh hay có khi trở lại môi trường cũ, đều do nhân duyên.

Sư cô Minh Hoàng rời trường trung tiểu học Bồ Đề Vĩnh Thái Nha Trang vào Sài Gòn nhận cơ sở Mẫu giáo Kiều Đàm, do Hòa Thượng Thích Trí Thủ mời gọi, nhưng chỉ vài tháng thì lại ra đi không trở lại bởi do hết duyên. Sư cô Hoàng trở lại Nha Trang xưa. Ở đây, Sư cô Hoàng hành Bồ Tát đạo ở cơ sở mới với chức vụ trụ trì chùa Ngô Đồng bởi nhân duyên vào thăm chùa, được vị Hòa Thượng Ngô Đồng dâng cúng ngôi chùa. Đồng thời cô được trở lại nghiệp vụ cũ là dạy học tại Trung học Bồ Đề Vĩnh Thái Ni viện niên khóa mới 1971.

Trở lại mái trường xưa, lần này, Sư cô Minh Hoàng được nâng cấp dạy học lớp bảy, tám, chín, mười… do cô đậu xong tú tài phần hai ban C (văn chương) trong mùa thi 1969 tại Nha Trang, chứ không phải do có tú tài một và tốt nghiệp Sư phạm cấp tốc năm 1965. Tuy nhiên đó là nền tảng tự động tiến lên nghiệp vụ giáo dục cấp cao do có văn bằng tú tài II ban C.

Tại trường cũ, Sư cô Hoàng không chạy trốn đâu khỏi cái nghiệp thủ trưởng các khâu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao cho học sinh các lớp do biệt tài thiên phú. Tài ấy đã được các giới trưởng ty thanh niên, học chánh, hiệu trưởng công tư thục tỉnh Khánh Hòa Nha Trang biết đến. Do vậy được bà Sơ hiệu trưởng tư thục Thánh Tâm mời đến dạy hát cho một lớp học sinh lớn. Bài hát được phát ra cho tất cả lớp mỗi em một bản, nhưng Sư cô Hoàng còn viết lên bảng đen, rồi gạch một vài chỗ ở bài hát và làm dấu lên cao, xuống thấp, chỗ nào khó nhất, Sư cô đổi dấu, thêm dấu, chẳng hạn đoạn “… trải gan với cùng mưa và sân đá tường rêu …”, cô Hoàng đổi chữ tường ra chữ “tương”, chữ rêu được thêm dấu huyền thành “rều”, tức là tường rêu thành tương rều. Đổi âm như vậy mới không bị khựng, mắc nghẹn khi hát được thông suốt, không bị mất nhiều thời gian. Cô Hoàng tập cho các em hát chỉ mất mười tám phút là xong, trong khi các thầy, các cô ở các lớp khác phải mất ba mươi phút, bốn mươi phút mới xong.

 

DỰ KHÓA HUẤN LUYỆN ĐIỀN KINH

Có một lần ty giáo dục Khánh Hòa mở lớp huấn luyện điền kinh và các môn sinh hoạt cắm trại dành riêng cho các thầy cô tại các trường công, tư thục bậc trung học trong tỉnh về học, để sau đó dạy lại cho học sinh trường mình. Nơi tổ chức khóa huấn luyện là tại trường Thánh Tâm. Số lượng người tham dự là hai mươi chín thầy, cô giáo.

Buổi thi đầu tiên là môn chạy Marathon vừa có nghệ thuật chạy đẹp, vừa làm sao đến đích trước. Chỉ có hai người đạt nghệ thuật chạy đẹp và cùng đến đích trước, đó là Sư cô Hoàng và cô giáo Ngọc Sương. Số còn lại lẹt đẹt ở sau.

Buổi thi kế tiếp là nấu cơm không được bằng nồi niêu, mà lại có cơm chín đàng hoàng. Mấy nhóm các thầy hoảng lên không biết cách nào để nấu, đành đứng cười, chịu thua. Nhóm các cô, trong đó có Sư cô Hoàng; Sư cô Hoàng liền lấy một ống tre tươi, rồi khoét lỗ ở đầu ống, bỏ gạo vào, đổ nước vô, bít lỗ lại, đốt lửa lên, bỏ ống tre vào. Mười lăm phút, chẻ ống tre, lấy cơm ra. Nhóm cô Hoàng được ban quản trại cho bằng khen.

Cuộc thi chót, đó là cắm trại nhanh, dỡ trại nhanh. Lần thi này nhóm Sư cô Hoàng được xếp hạng nhanh thứ hai sau một nhóm của các thầy. Nhóm nữ mà đứng nhì là quá giỏi rồi!

Trong giờ lễ mãn khóa, riêng Sư cô Hoàng được ông trưởng ty giáo dục tặng cho cây đàn guitar. Sau lễ mãn khóa, các thầy, cô ở các quận xa xin về sớm, còn các thầy cô ở thị xã Nha Trang được cô Sơ hiệu trưởng Thánh Tâm mời ở lại dự văn nghệ và tiệc trà. Văn nghệ do học sinh Thánh Tâm trình diễn, nhưng các thầy cô cũng được mời lên hát cho một bài để làm vui. Thế là Sư cô Hoàng được Sơ hiệu trưởng mời lên hát cho một bài. Sư cô Hoàng hát tặng cho Sơ hiệu trưởng bài Đêm Nguyện Cầu của nhạc sĩ Lê Minh Bằng. Hát xong được hằng trăm cử tọa vỗ tay vang dội thật là lâu cả mươi giây mới dứt.

Chương trình ca nhạc còn mươi phút nữa là chấm dứt, cô Sơ hiệu trưởng lên máy ngỏ lời mời tất cả thầy, cô ở lại thêm nữa. Tưởng gì, mời ở lại nhảy đầm (dancing) qua các điệu nhạc Pháp từ cái máy cassette. Nghe nhảy đầm, Sư cô Hoàng chuẩn bị ra về, cô Sơ hiệu trưởng liền đến trước mặt cô Hoàng nài nỉ ở lại, nhưng Sư cô Hoàng vẫn từ chối qua nụ cười và lời cảm ơn, không biết nhảy. Cô Sơ hiệu trưởng bằng lòng trong niềm vui, rồi tiễn chân Sư cô Hoàng ra về.

Hai chữ cuối “ra về” được chấm dứt trên môi, Tuệ Đạo nhìn xuyên qua cây Hoàng Hậu đang trổ những hoa tím đậm nét, sặc sỡ trong im lặng vài giây, đoạn chàng đứng lên chưa bước xuống tầng cấp xi măng, Đăng Triệu cũng đứng lên. Tuệ Đạo liền bước xuống với lời nói “mình ra lễ bái tượng Quán Thế Âm”, Đăng Triệu theo sau. Hai chàng đứng ngắm tượng với lời bình luận về cách kiến tạo các tượng Phật, Bồ Tát của các quốc gia Á Châu. Tượng của Nhật giống nét mặt người Nhật, tượng Thái Lan giống nét mặt người Thái Lan, v.v… Riêng tượng người Việt từ ngàn xưa giống mặt người Việt, nhưng thời nay hết giống, mà lại giống nét mặt người Âu Châu.

Sau lời bình luận, hai chàng chắp tay xá xá ba xá, rồi quay vô ngồi ở tầng cấp trước chánh điện gần ông đại hồng chung. Vừa ngồi xuống, Đăng Triệu hỏi:

- Anh Tuệ Đạo à! Qua nhiều câu chuyện về Sư cô Minh Hoàng mà anh đã kể từ hôm nọ đến nay, tôi thấy Sư cô Minh Hoàng đều được đậu nhất, thắng lớn tối ưu, chưa có thua lần nào. Như vậy, do năng lực nào mà Sư cô Hoàng được chiếm giải nhất, thắng lớn tối ưu?

 

SƯ CÔ MINH HOÀNG DÙNG PHƯƠNG TIỆN TRÍ

- Do được giáo dục trong tu viện qua cố gắng học tập nhiều thứ nghiệp vụ, trong đó văn hóa Phật giáo và dân tộc là cơ bản, rồi xông pha dấn thân giáp mặt với thực tại cuộc đời ở mọi giới mà ra sức làm vô số công việc lớn, nhỏ đầy gian khổ, chông gai cho mục đích cứu khổ ban vui cho con người trong mọi giai cấp. Từ đó có nhiều kinh nghiệm, càng kinh nghiệm càng thành công, thắng lợi lớn, đỗ đạt khoa bảng tối ưu… thật đúng với tư tưởng văn hóa tây phương “giáo dục chỉ có cho con người một kiến thức, nhưng kinh nghiệm cho con người sự khôn ngoan lanh lẹ, nhạy bén, biết dùng phương tiện khéo léo để thành công các việc”.

Sư cô Minh Hoàng đã thành công mỹ mãn về khoa bảng đạo đời, thắng lớn trong vinh dự ở nhiều cuộc tranh tài, tranh giải về văn hóa, nghệ thuật, vân vân… là do cô đã hội đủ những yếu tố quan trọng ấy qua quá trình học hỏi và thực hành những gì đã học vào Phật giáo và thế gian thật là gian khổ, chông gai, nước mắt… nên mới được như vậy, gọi đó là kinh nghiệm, là khôn ngoan, nói như kinh văn “phương tiện thắng trí” (trí tuệ nhạy bén, diệu dụng).

Vai trò của Trưởng tử Như Lai là phải xông pha dấn thân cứu khổ cho đời bằng nhiều cách và ban vui cho đời bằng nhiều cách. Được biết nhiều cách ban vui, nhiều cách cứu khổ, Tăng Ni phải học rất nhiều khoa về Phật học, văn hóa thế gian vì thế gian pháp tức thị Phật pháp. Bởi vì cứu khổ ban vui cho đời không phải chỉ riêng ở kinh Phật mà có cả văn hóa thế gian nữa, khi người Tăng Ni hiện hữu tại thế gian mà gặp phải con người bị bịnh điên, bịnh tà là sử dụng ngay các thần chú Đà La Ni để chữa bịnh điên, tà cho con người. Gặp phải con người bị bịnh tâm thần là sử dụng ngay giáo lý Phật để hóa giải. Gặp ngay con người bị bịnh về cơ thể, liền sử dụng ngay các thứ y dược cùng với lời kinh Phật để chữa trị cho họ. Gặp phải con người buồn khổ, liền sử dụng văn hóa bằng một hài kịch. Khi thấy con người bị tẻ nhạt cô đơn liền sử dụng bài ca, vân vân… Cho nên một Tăng Ni trong vai trò Trưởng tử của Như Lai là phải đóng nhiều vai nhà văn, thi sĩ, kịch sĩ, họa sĩ, kiến trúc sư, thầy lang chữa bịnh, vân vân…

Sư cô Minh Hoàng học nhiều khoa Phật học và văn hóa cũng như một số nghiệp vụ. Vì vậy mà khi cô hiện hữu ở đâu trong tu viện hay ở ngoài xã hội, thấy được người ta buồn, cô tìm cách làm vui, thấy người ta khổ, cô tìm cách cứu khổ, thấy người ta bi quan chán đời, cô tìm cách làm cho người ta hết bi quan, trở lại yêu đời. Đang giảng Phật pháp, thấy Phật tử buồn ngủ, cô kể chuyện vui. Trong tập nhật ký, cô Tịnh Lan Phương có ghi câu chuyện “Ta bà khổ” do Sư cô Hoàng đóng vai bà bụng bầu để cảnh tỉnh các Sư cô chưa vững tâm xuất gia.

 

HÀI KỊCH TA BÀ KHỔ

Một hôm vào ngày chủ nhật, có một cô Phật tử mang bụng bầu khá to, vào lễ Phật và cúng dường tài vật cho Ni chúng Ni viện. Sư cô Hoàng thấy cô Phật tử bụng bầu đang đi từ chánh điện ra phòng khách, cô Hoàng liền chạy vào phòng các Sư cô rồi kêu lớn; “mấy chị, mấy chị ra đây, ra đây coi cái này, mau mau ra coi”. Các Sư cô ở các phòng đều chạy ra. Chừng đó Sư cô Hoàng chỉ cho các Sư cô nhìn cái bụng bầu của cô Phật tử, rồi nói “Ta bà khổ, Ta bà khổ, các chị thấy chưa”. Các Sư cô ai cũng cười ngất.

Chưa hết, những ngày sau đó, vào giờ chỉ tịnh nghỉ trưa, Sư cô Hoàng đi kiếm một cái bong bóng cỡ lớn, độn vào trước bụng, hai bong bóng cỡ nhỏ độn vào sau mông, giả làm bà bụng bầu, lấy hai tấm giấy carton, viết lên đó câu “Ta bà khổ” đeo ở trước ngực một tấm, sau lưng một tấm. Sư cô Hoàng đi ễnh qua ễnh lại vào phòng các Sư cô đang nằm nghỉ. Các Sư cô ai cũng cười rần lên, cười ngất, cười om sòm, cười sằng sặc, cười rũ ra, cười vỡ bụng, làm vang vọng đến tai Sư bà phó giám viện, Ni sư quản lý, tức thì quý ngài xuống các phòng xem xét, bắt được tại trận mấy Sư cô đang cười không nín được, cứ cười khúc khích mãi, cười tủm tỉm hoài trước mặt quý Sư bà, Ni sư. Quý ngài liền ghi tên hết hằng chục Sư cô đang cười và bắt tất cả lên quỳ hương ở chánh điện.

Biết quý Sư bà, Ni sư đang xuống, Sư cô Hoàng chạy lẹ về phòng, cởi bỏ hết bong bóng, hai tấm carton rồi dấu kỹ dưới đi văng, nằm im nhắm mắt như đang ngủ trong khi quý Sư bà, Ni sư đang có mặt tại phòng. Thấy Sư cô Hoàng nằm phớt tỉnh như không hay biết gì, các Sư cô lại cười rũ ra thêm nữa. Tất cả các Sư cô đều bị ghi tên và bị phạt quỳ hương, riêng Sư cô Hoàng không hề bị gì, lại được Sư bà, Ni sư khen ngợi là giữ đúng nội quy, nằm ngủ không cười.

Trước hình ảnh các Sư cô bị phạt quỳ hương, Sư cô mẹ kiếp trước liền vào phòng gặp Sư cô Hoàng, bảo cô Hoàng ra ngoài. Sau đó Sư cô mẹ hỏi cô Hoàng:

- Chắc là do em làm hài, làm hề gì đây rồi, nên chi các chị em cười, để rồi bị phạt quỳ hương! Do em gây ra, phải không?

- Sư cô không thấy, không biết rõ mà sao nói quả quyết do em vậy?

- Chị biết do em, chứ không ai vô đó, do em mà các Sư cô bị phạt hết cả rồi kìa, em thấy chưa? Ai cũng bị phạt quỳ hương, còn em sao không bị phạt, lại còn được quý Sư bà, Ni sư khen là nằm yên, không quấy động, nghĩa là sao? Em ác lắm đó!

- Dạ thưa, không phải em. Em đâu có làm cho các cô bị đau khổ đâu mà cô nói em ác! Ở đây các cô tự hoan hỷ phát tâm cười, em làm sao bịt miệng mấy cô đừng cười được! Các cô tự cười nên bị phạt là đúng rồi!

 

ĐÙA NGHỊCH CỦA TUỔI TRẺ

Sư cô Hoàng không những làm cho các Sư cô cười, mà còn làm cho các Sư cô Ni viện tỉnh ngủ. Cách làm cho tỉnh ngủ ở đây, là như thế này:

Sư cô Hoàng bảo một em nam sinh đi chặt cho cô một cây trúc nhỏ không còn lá và kiếm cho một vài sợi tóc dài cỡ gang tay, rồi cột tóc vào sợi chỉ, cột ở đầu cây trúc lòng thòng xuống. Đến giờ nghỉ trưa, cô Hoàng ra đứng ngoài cửa sổ ở các phòng Sư cô, đưa cây trúc vào, rồi chỉnh chùm tóc được chính xác gần mũi các Sư cô đang ngủ trưa. Sau đó hạ nhè nhẹ xuống, làm cho mấy sợi tóc chạm vào mũi, má các Sư cô. Các Sư cô nghe nhột nhột, tưởng có con ruồi đậu lên má, lên mũi, liền đưa tay lên phủi mạnh, có cô bị nhảy mũi ắt xì, có cô đưa tay gãi gãi, chùi lên mũi lên má. Cứ như thế, Sư cô Hoàng làm hết phòng này qua phòng khác suốt trong giờ chỉ tịnh buổi trưa.

Hôm sau chùm tóc bị mất tìm không ra, cô Hoàng cột muối vào sợi chỉ, đứng ngoài cửa sổ nhìn vô, thấy cô nào nằm ngủ trưa hả miệng, cô Hoàng đưa cây trúc vào, thả mấy hạt muối vô miệng. Có cô bị ắt xì, có cô chắp chắp cái môi, rồi lăn qua nằm co ro. Lúc đó cô Hoàng cảm thấy đắc ý, vui lắm, cười rũ ra một mình. Đó là tánh đùa nghịch của tuổi trẻ!

Hết làm chuyện ấy, có khi đem đàn ra gốc cây Bồ Đề, ngồi đánh nhạc một mình. Có lúc ngồi soạn một số bài văn ngắn nói về buổi văn nghệ, giới thiệu quan khách, khai mạc lễ phát thưởng, tựu trường, đám cưới, hội họp, vân vân…, rồi đọc vào băng cassette có đệm nhạc riu riu thật là văn hóa. Để chi vậy? Để tặng cho các em nam, nữ học sinh ở lớp lớn tập làm MC, xướng ngôn viên khi các em ra trường đời sau này, nếu em nào muốn làm MC, xướng ngôn, thì dựa vào các bài văn đó mà làm sau khi học cho thuộc lòng ở mỗi chủ đề. Có khi làm cả một chương trình ca vũ nhạc kịch đàng hoàng, thật đầy đủ chi tiết, rồi thâu vào băng cassette để tặng cho các em nam, nữ học sinh nào học giỏi, em nào muốn làm văn nghệ sau khi ra trường. Cho nên, hễ có tiền, là Sư cô Hoàng đi mua máy cassette đủ loại, lớn, nhỏ, làm quà khích lệ cho các em học sinh yêu văn nghệ. Đúng là người có tâm hồn nghệ sĩ có khác, như Sư cô Hoàng!

Người có tâm hồn nghệ sĩ thường được có luôn tâm hồn vị tha cho mọi người, nên bất khuất trước vũ lực, không sợ chông gia, hố thẳm, sẵn sàng đi trong lửa đạn, tên bay để cứu người bị đói khổ bởi thiên tai, chiến tranh, bão lụt…

 

SƯ CÔ HOÀNG ĐI TRONG LỬA ĐẠN

Mùa Xuân 1975, đồng bào Phật tử ở Khánh Dương chạy về Nha Trang để lánh nạn chiến tranh, tất cả được đưa vào tạm cư tại trường trung tiểu học Bồ Đề của Ni viện. Học sinh Bồ Đề và hai lớp Phật pháp của cư sĩ tại chùa Ngô Đồng tạm cho nghỉ vô thời hạn. Sư cô Hoàng bắt tay vào chăm lo công việc tiếp cư. Phải nói rằng, không có nơi nào vô trật tự, mất vệ sinh, phức tạp như ở các nơi có người tạm trú tỵ nạn chiến tranh. Ấy thế vậy mà hàng trăm gia đình tạm cư tại trường Bồ Đề Ni viện được ăn uống, ngủ nghỉ, trật tự, vệ sinh… Tất cả do Sư cô Hoàng xông pha, dấn thân túc trực chăm lo cho đồng bào. Được như vậy là do cô Hoàng điều nghiên, lập chương trình theo kế hoạch đã vạch sẵn, trong đó có sử dụng 10 em nam nữ học sinh cơ hữu của cô, như là một lực lượng tổng trừ bị, nên chi gặp việc khó khăn là hiện hữu đông đủ dưới sự chỉ huy của cô Hoàng. Số học sinh đó cùng với Sư cô đào hố bỏ rác, đi tìm ván ép cũ, giấy carton cứng ở các nơi, đem về làm nhà vệ sinh, nhà tắm. Tất cả việc ăn, ở, vệ sinh được tạm đủ, Sư cô Hoàng tập trung hàng trăm trẻ con lại, cô phân phát bánh kẹo, hớt tóc, tập hát bài ca Phật giáo, rồi dẫn chúng đi theo cô lượm rác. Cha mẹ được thấy con mình theo cô lượm rác, thế là không dám xả rác nữa mỗi khi nhìn đến cái bảng có đề “xin đừng xả rác”.

Trong lúc điều hợp tạm cư, Sư cô Hoàng tư duy nhận định về tâm lý con người, một khi bao tử bị đói, khiến cho thân làm loạn, được no thì ngồi yên, sau khi cô xét thấy, các thầy ở chùa tỉnh hội, Sư bà, Ni sư Ni viện hết khả năng tiếp tế gạo, còn mì gói, bánh mì mà đồng bào được nhận từ những ngày đầu đến ở và lai rai sau đó, nay cũng gần hết và cơ sở từ thiện đã mệt mỏi do bởi không khí chiến tranh đang lan tràn vào Nha Trang. Chỉ còn một nơi còn có gạo, đó là kho gạo của tỉnh, có thể xin được. Mặc dù không khí chiến tranh đang áp lực vào ngoại ô thành phố, xã hội xôn xao, đường phố có tiếng súng lác đác của một vài kiêu binh, nhưng tại tòa hành chánh, tiểu khu quân sự Khánh Hòa vẫn còn nhân viên, sĩ quan làm việc. Sư cô Hoàng liền liên lạc xin gạo, họ hoan hỷ cho. Nhận được giấy cho và lời đồng ý qua điện thoại rồi, nhưng cô Hoàng để đó đã, chưa lấy. Đến lúc chợ Đầm bị đốt, đường phố có bạo loạn, súng nổ hàng loạt, Sư cô Hoàng về Ni viện lấy tấm ra trắng, viết dấu hiệu Hồng Thập Tự, vào bến xe đò, nhờ tài xế xe Thuận Thành treo lên và lái chở một số em học sinh cơ hữu của cô và cô đến kho gạo, mở cửa ra lấy gạo bỏ lên xe. Trong lúc xe đi, cũng như lúc về trường học, đều nghe tiếng đạn bay véo véo gần bên xe, ở xa xa. Sư cô bảo các em niệm Phật lên và bảo bác tài xế cứ bình tỉnh lái, đừng sợ. Thế là đồng bào Phật tử được có gạo ăn với thời gian cả mấy tháng.

Tuy nhiên bên cạnh cái bụng được no, đôi chân cũng phải được mang giày, mang dép. Sư cô Hoàng trưng dụng hai xe tải của hai ông anh rễ từ Đà Nẵng đi Sài Gòn mua hàng, biï ở lại Nha Trang. Hai ông anh lái xe chở cô Hoàng và các em học sinh xuống phố để xin giày, dép ở các hiệu bán giày, dép, cho nên xe chạy lần này được xem là nguy hiểm hơn lần đi lấy gạo, vì xe chạy chậm trong lúc nhìn xem tiệm giày, dép nào còn chủ, thì dừng lại, vào đó xin họ cho giày dép, do vậy xe chạy trong tiếng súng và khói lửa. Nhờ Phật độ, hai xe đều chở đầy giày, dép về an toàn. Giày dép được có, nhưng cái khổ nữa, đó là vừa chân và không vừa chân, nên mất nhiều giờ phân phát cho từ người lớn cho đến trẻ con.

Một công việc rất đặc biệt nữa, đó là một số người nữ ở tuổi ba mươi trở lên bốn mươi không có thân nhân, được Sư cô Hoàng tạo niềm vui cho họ bằng cách làm cho họ một cái sạp để buôn bán một vài thứ đồ dùng và thức ăn dễ làm, trong đó làm bánh mì, được Sư cô cung cấp bột và chỉ cách làm, hay kho thịt với trứng, được Sư cô tiếp tế cho đường, bột ngọt, tiêu, ớt… Sư cô vừa tập trung họ lại và đưa ra đề án, vừa cho các em học sinh đi tìm ván, gỗ… đem về đóng sạp ngay liền sau đó. Suốt thời gian tạm cư, số chị em bị thất lạc thân nhân, được buôn bán lặt vặt cho vui, cho khuây khỏa tâm hồn. Khi họ được trở về quê cũ sau 30.4.1975, tất cả đồng bào Phật tử ai cũng nói lời cảm ơn Sư cô Hoàng trong trạng thái vừa vui, vừa rơi nước mắt.

 

NHỮNG DẶM ĐƯỜNG KHÚC KHUỶU

Hoa xuân trong lòng người miền nam Việt Nam vào mùa xuân 1975, bỗng dưng bị đổi màu đỏ rực cho đến nỗi run rẩy, hồi hộp, lo âu, vì biết cuộc đời mình sẽ bị thay đổi sự nghiệp sống còn ở bản thân mai sau, trong đó có Tăng Ni cùng chung số phận với toàn dân, vì Đạo pháp và dân tộc là một, khổ chung hay cùng vui với toàn dân, nhưng Bồ Đề tâm vẫn an nhiên hằng chuyển trên dòng tâm chánh đạo. Chánh đạo ở quá khứ, chánh đạo hiện tại, chánh đạo tương lai, không có gì thay đổi.

Với các bậc Tăng Ni chân tu có văn hóa đích thực dù bản thân ngũ uẩn an trú những nơi đầy bão táp mưa sa, chông gai… vẫn thấy nơi đó là Niết Bàn, Cực Lạc. Sư cô Hoàng an nhiên mỉm cười trước các hiện tượng ký nhi viện, trường trung tiểu học Bồ Đề bị chủ mới đất nước tịch thu, sự nghiệp giáo dục đời, đạo không còn nữa, đúng theo định luật vô thường không thể tránh khỏi. Thôi thì, thay vì trước đó tụng kinh niệm Phật hai thời mỗi ngày tối, khuya, bây giờ sáu thời, thật thú vị!

Sư cô Hoàng vừa tụng xong phẩm Phổ Môn, ra phòng khách để uống trà nóng thay cho bữa điểm tâm để cùng khổ với người dân Nha thành. Cô Phật tử đã ngồi chờ sẵn đó, đứng lên chắp tay thưa:

- Thưa Sư cô. Thượng Tọa Đỗng Minh bảo con xuống đây mời Sư cô lên hãng vị trai ngay sáng nay, để thầy con cần gặp, nói gì đó.

- Cô biết rồi, Thượng Tọa bảo cô lên làm xì dầu đó! Em về trước, cô sẽ đến sau.

Sư cô Hoàng cuốc bộ từ chùa Ngô Đồng hướng về Mã Vòng. chưa tới mười lăm phút, đã có mặt tại hãng vị trai lá Bồ Đề, đúng là người ốm đi mau hơn người mập. Sư cô Hoàng mở cửa bước vào văn phòng, chắp tay, cùng với lời niệm:

-  A Di Đà Phật, thầy gọi con?

- Ừ! Cô giáo bị dứt cháo rồi, về đây làm chức thủ quỹ dùm tôi. Lúc này tôi cần cô làm thủ quỹ, vì cô có trí tuệ diệu dụng biết đối phó, lèo lái việc tài chánh.

Trong kế hoạch đánh tư sản mại bản của cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ, là đến kiểm tra, kiểm kê tài sản của các cơ sở công nghiệp lớn, nhỏ tư nhân hay tập thể (công ty), nếu thấy tiền, vàng liền tịch thu trước tiên.

Qua hơn bốn tháng giữ chức vụ thủ quỹ, trong đó phát lương nhân viên, tính sổ sách xuất và nhập, nhận tiền, cất tiền vào tủ sắt. Một hôm tập đoàn cán bộ nhà nước đột xuất đến hãng vị trai, họ ra lệnh tạm nghỉ việc, cho công nhân về, chỉ còn lại nhân viên. Sư cô Hoàng biết họ đến để kiểm kê hãng vị trai theo kế hoạch đánh tư sản, sau đó sẽ tịch thu cơ xưởng. Cô liền chạy vào phòng mở tủ sắt. Thường ngày mở số mật mã tủ sắt lâu vài phút mới mở được. Sao hôm đó, mở là ra liền rất nhanh, như thể có Bồ Tát Quán Thế Âm mở dùm vậy. Tức thì cô Hoàng ôm hết số tiền cả mấy triệu được gọi kỹ trong bao giấy, tức tốc ném qua phòng một thầy đang làm việc bào chế. Nghe vật gì đụng dưới chân, thầy bào chế nói lớn “Ai quăng gì qua tui vậy?”. Sư cô Hoàng tạo âm điệu “suỵt”. Thầy ấy biết ngay, đá cục tiền vào sâu trong vách, dưới tủ đứng đựng đồ thí nghiệm.

Tốp cán bộ, một vài người đi tới đi lui nhìn những dụng cụ sản xuất, nhìn các nhân viên, nhìn đủ thứ trong im lặng đáng sợ, một vài người đang nói chuyện với Hòa Thượng Đỗng Minh. Sau đó họ nói: “Cho chúng tôi xem tủ sắt tiền”. Sư cô Hoàng đứng gần đó liền lên tiếng một cách hăng hái, vui vẻ và dẫn họ vào phòng, mở tủ sắt ra, họ nhìn vào, thấy tủ trống trơn. Người cán bộ trưởng toán nói: “Xưởng lớn như thế mà tủ sắt không có tiền, là thế nào!”. Sư cô Hoàng đáp lại: “Xưởng lớn, nhưng là xưởng chùa, các nơi nhận bán, ai cũng bán chậm, nhất là từ đầu xuân đến nay gần cả năm trời, không thấy họ gởi tiền cho chúng tôi. Hơn nữa, người dân miền nam thích ăn xì dầu của Pháp, Nhật, Tàu,… gọi là vọng ngoại, không chịu ăn xì dầu do chùa trong nước làm ra”.

Thế là hãng vị trai Lá Bồ Đề của Phật Học Viện Nha Trang thuộc về nhà nước quản lý, nhân viên và công nhân làm chủ. Dĩ nhiên những người chủ trong hãng lúc đó, có người của họ đưa vào giữ chức vụ chủ yếu về tiền, phẩm lượng làm ra, cho nên xì dầu hạng nhất làm ra bị nhà nước thu mua hết, chỉ còn lại hạng nhì, ba cho hãng. Bấy giờ Sư cô Hoàng hết làm thủ quỹ, bắt qua làm kế toán trưởng thay cho thầy Giác Viên. Chức kế toán trưởng là phải đi học. Thật sự, việc học kế toán chỉ là được cấp cho cái giấy hợp pháp thôi. Dựa vào kế toán trưởng, Sư cô Hoàng nhanh ý, biết cách làm lợi cho tất cả nhân viên, công nhân bằng cách đưa vào tài khoản hết, thay vì năm trăm lít số một, cô Hoàng đưa vào một trăm rưởi lít thôi. Số ba trăm rưởi còn lại, giao cho Hòa Thượng Đỗng Minh bán rẻ lại cho các công nhân mỗi người ba, bốn lít để bán ra mà được có chút tiền lời mà nuôi sống gia đình giữa thời buổi gạo châu củi quế ấy, thì xì dầu là nước chấm được có hạng, vì nước mắm rất hiếm, hầu như không còn nữa, có lẽ đã bị chở đi đâu rồi!

Đang làm kế toán trưởng, Sư cô Hoàng nhận lệnh Sư bà Diệu Không bảo rời hãng vị trai để đi hoằng hóa độ sanh đồng bào Phật tử ở xứ người. Nhận được lệnh ấy, Sư cô Hoàng phân vân và bâng khuâng cho chức vụ kế toán hiện tại, nếu vắng đi, sẽ bị truy lùng, bị bắt vào tù còn khổ hơn nữa. Khi đi học kế toán, cũng có một thầy ở Hải Đức cùng đi, hiện đang có mặt tại hãng, vì thế cô Hoàng giả vờ gây lộn với thầy ấy. Để làm gì? Để ra khỏi chức kế toán, và ra khỏi xưởng luôn, thì mới có cớ ra đi. Trong thời gian chưa được rời khỏi chức vụ kế toán, Sư cô Hoàng phải xem xét nhiều văn thơ, giấy tờ hành chánh và ký vào đó.

Sau khi được ra khỏi chức kế toán trưởng, chứ chưa được ra khỏi hãng, làm công nhân. Trong lúc làm công nhân, cô Hoàng không quên chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với Hòa Thượng già ở chùa Ngô Đồng. Cho nên sáng đi, chiều xin về sớm, nói chuyện vui và đọc báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Saigon Giải Phóng cho sư cụ nghe.

Qua cả năm trời, chùa ít Phật tử đến vì sợ công an, nhưng sau đó Phật tử cứ liều mạng về chùa cũng khá đông, để tụng kinh, lễ bái, cúng dường vào các ngày lễ, nghe Sư cô Hoàng thuyết pháp. Vì vậy mà, Sư cô Hoàng bị công an đồn Phương Sài gọi đến làm việc, tra hỏi đến hai ba lần.

Theo thói quen con người phàm tục cõi trần, một khi được có của báu trong tay, họ đều ôm lấy, giữ chặt, sợ kẻ khác đến cướp lấy, hay giành lại. Cho nên sau khi chiếm lấy được miền nam trong tay, người cộng sản Việt Nam giữ kỹ một cách chặt chẽ. Một trong những kế hoạch giữ chặt đó, là gom tất cả người dân ở thành phố, xã, thôn lại từng nhóm, gọi là tổ hợp tác xã để kiểm soát tư tưởng và đường đi nước bước.

Tăng Ni cũng phải gia nhập các tổ chức công nhân, thợ thuyền, hợp tác xã ngành nghề. Ai không có nghề phải đi học nghề để sản xuất. Thế là cơ xưởng hãng vị trai, Hòa Thượng Đỗng Minh cử ba vị đi học ngành thêu, trong đó có cô Hoàng. Sư cô Hoàng vốn không thích cầm kim, sợ cầm kim, cho nên suốt thời gian sống trong Ni viện, được Sư cô mẹ đơm nút áo, khâu vá y áo, kết nút lại, v.v… Sư cô Hoàng đánh liều đi học một trận thử sao, hơn nữa lấy đó làm lá chắn che đậy bước chân ra đi trong những ngày sắp tới.

 

SƯ CÔ HOÀNG HỌC THÊU

Lớp dạy thêu đó là dạy cho những giáo viên vốn đã giỏi tay nghề thêu rồi, được giới thiệu về mặt hàng xuất khẩu, chứ không phải dạy cho người không biết được biết. Do vậy Sư cô Hoàng lấy làm bâng khuâng, vì bị đi học theo danh sách.

Với đức tính vốn sẵn thông minh, được có trí tuệ nhạy bén, cô Hoàng biết tìm cách học hỏi vượt thời gian, để bắt kịp tay nghề với mọi người. Thế là cô Hoàng viết và gởi cho ông thầy dạy thêu một vài lời. Đại ý trong tờ giấy nhỏ nói rằng: “Sau giờ học tôi muốn gặp thầy để trình bày một việc, xin thầy tiếp cho”. Ông thầy dạy thêu là người Nam Hà từ miền Bắc vào. Sau giờ dạy, ông thầy dạy thêu gặp cô Hoàng, ông bảo cô Hoàng cần gì cứ nói. Sư cô Hoàng hỏi ông ấy lãnh lương mỗi tháng bao nhiêu. Ông ta trả lời ba mươi đồng một tháng theo tiêu chuẩn. Sư cô Hoàng nhã ý với ổng, nhờ ổng dạy cấp tốc từ đầu đến cuối để mà theo kịp những người trong lớp. Nếu đồng ý, cô Hoàng sẽ trả cho ổng bốn chục đồng một tháng. Ông ta liền nhận lời dạy một cách vui vẻ. Sư cô Hoàng gởi tiền trước hai mươi đồng, hứa tuần sau sẽ đưa thêm cho đủ bốn chục.

Thế là vào giờ học, Sư cô Hoàng được ông thầy chỉ định ngồi cuối lớp, đưa cho cô một tấm vải, rồi hướng dẫn cô Hoàng đưa bàn tay mặt lên xuống tấm vải giống như người đang thêu trong vòng ba ngày. Sau đó ông ta vẽ ba lỗ trên tấm vải, rồi bảo cô Hoàng cầm kim có chỉ xỏ vào 3 lỗ ấy. Xỏ hết ba lỗ ấy, cô Hoàng tự tạo thêm 3 lỗ khác, rồi 3 lỗ nữa. Xỏ và làm lủng hết tất cả các lỗ. Cuối cùng ông thầy bắt đầu giảng dạy cách thêu. Hai tháng sau, chẳng những bắt kịp, mà còn vượt xa về kỹ thuật thêu, có đường nét rất tinh xảo hơn số người đã rành thêu lâu đời. Lớp học thêu đó, có nhiều hạng người, như nhạc sĩ cũng vào học thêu. Khóa học thêu được nhà nước ấn định 8 tháng. Cô Hoàng mới học 5 tháng đã được sở công nghiệp nhà nước đề cử đi dạy thêu ở tổ hợp của bà Cầm. Hai người nữa được đề cử đi dạy thêu với cô Hoàng. Đó là ông Bùi Khanh, (con ông Bùi Liên) và ông Dầu.

Trong thời gian đi học thêu 5 tháng và ra thêu ở tổ hợp bà Cầm, bị các bà Sơ thân tình lúc trước đi tìm không thấy, nên phao tin Sư cô Hoàng đã ra đời, cỡi áo tu, hết làm Sư cô rồi.

 

CỨU KHỔ CỰU ĐOÀN SINH GĐPT

Đang lúc dạy thêu, Sư cô Hoàng quan sát thấy mẹ của bà Thăng Hy có cái nhà thật rộng, liền khởi lên ý niệm muốn giúp cho các em trong GĐPT, ai muốn học thêu để khỏi bị đi thanh niên xung phong đắp đê, phá rừng, đào mương thủy lợi, thì hay ghi tên. Sau lời thông tri nội bộ đó, Sư cô tiếp nhận danh sách 300 em nam, nữ GĐPT xin học thêu. Tiếp theo danh sách, Sư cô Hoàng đến mẹ bà Thăng Hy nói chuyện mượn ngôi nhà, đồng thời lên trưởng ty thương nghiệp xin mở một lớp dạy thêu cho dân. Ông trưởng ty nói rằng đâu có học viên mà mở lớp. Sư cô Hoàng hỏi ông ta cần số lượng bao nhiêu thì được mở. Ông cho biết hai trăm thì được mở. Sư cô Hoàng chưa đưa danh sách 300 người đang cầm trong tay, rồi hẹn một tuần lễ sau sẽ trở lại. Ông ta khen ngợi “chị làm được cái việc ấy thì hay quá!” Đúng tuần lễ, Sư cô Hoàng đến trao cho ông danh sách 300 học sinh vào ngày đầu tuần thứ hai, ông ta liền ký giấy phép cho mở HTX dạy thêu và cho Sư cô tự đặt tên cơ sở. Cô Hoàng đặt tên HTX thêu xuất khẩu KHÁNH TRANG (Khánh Hòa Nha Trang).

Với tinh thần biết ơn ông thầy cũ dạy thêu, Sư cô Hoàng gởi tặng ông ấy mỗi tháng mười đồng, kể từ sau khi được ty thương nghiệp bổ nhiệm dạy thêu và mở thêm HTX Khánh Trang. Để đáp lại tấm lòng biết ơn cô Hoàng đã giúp thêm chút tiền, ông thầy cũ nhã ý muốn dạy thêm cho cô về cách in mẫu hoa. Sư cô Hoàng bằng lòng đến học. Trong giây phút gặp gỡ trước khi học, ông thầy cũ nói rằng: khi xưa dạy thêu ở Nam Hà, số học sinh đến học cũng khá đông, nhưng rất ít người được thông minh, lanh ý, nhận biết nhanh đường kim mối chỉ như cô Hoàng. Sư cô Hoàng tuổi trẻ sao mà giỏi quá!

Thế là Sư cô Hoàng được có thêm tài nghệ in mẫu hoa. Từ đó Sư cô Hoàng được người ta đưa đến, Sư cô Hoàng có thể vẽ, in những mẫu hoa đủ loại lên rất nhiều tấm hàng khác để cho người khác thêu. Lương được công ty ngoại thương trả cho lúc bấy giờ là một đồng một bộ. Mỗi tháng Sư cô vẽ, in mẫu hoa với số lượng 150 bộ, tức là được 150 đồng mỗi tháng. Trong lúc in và vẽ mẫu hoa như vậy, được công ty ngoại thương đề cử chỉ làm phó thôi, lo đủ thứ việc, còn trưởng là người của đảng lo việc ký giấy và phát lương.

Sau khi in mẫu hoa rồi, họ thêu mặt hàng xong rồi, Sư cô Hoàng có thể thấy chỗ nào bị ố, chỗ nào không ố khi đưa lên trước đèn. Cô Hoàng dùng bút chì vẽ bốn cành hoa ở bốn goác. Mặc dù bị ố ở một góc, nhưng phải vẽ bốn góc cho đều. Vẽ bất cứ loại hoa gì hay vẽ con bướm để cho người ta thêu tiếp lên đó. Vẽ thêm như vậy được ăn mười đồng. Một mặt hàng như vậy có 30 đồng suốt một tháng trời, mà người nào kéo nhẹ sẽ mất cả tháng rưởi. Phải kéo chỉ cho nhanh, bật lên, là bật xuống liền. Tất cả số tiền 150 đồng in mẫu hoa và tiền lương được 60 đồng tháng, về cơ sở lãnh được 83 đồng nữa. Sư cô Hoàng đâu có tiêu xài hết số tiền đó. Sư cô đem bố thí cho một số người trong sở có đông con, cha mẹ già yếu và cho những người thân quen, vì ai cũng bị lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, đói rách.

Cách in và vẽ mẫu hoa rất là công phu, cực nhọc lắm, mất nhiều thì giờ, chứ không phải dễ ăn đâu. Với bản tính kiên nhẫn và thông minh vốn có, và lại quyết chí thực hành cho bằng được để làm lợi ích cho mọi người, Sư cô Hoàng thành công mỹ mãn. Sự khó khăn ấy thường ở các vật dụng. Chẳng hạn phải đi tìm mua giấy plastic, ni lông cũ dùng để liệm xác chết, đem về cắt ra, lấy kim khâu lại thành cây, rồi châm cho ra hình, vân vân…

 

DỰ ĐẠI HỘI VÀ TỔ CHỨC VĂN NGHỆ

Một ngày nọ, đại hội công thương nghiệp xuất khẩu toàn quốc được tổ chức tại Sài Gòn. Sư cô Hoàng được cấp trên đề cử đại diện công nhân viên thương nghiệp xuất khẩu tỉnh Khánh Hòa, làm trưởng phái đoàn, một người phó là ông Dầu, dẫn phái đoàn đi dự đại hội.

Trước khi đi, Sư cô Hoàng đặt ba điều kiện, là phải mặc áo tu, ăn chay và ngủ riêng một mình, họ hoan hỷ chấp nhận.

Họp đại hội về, Sư cô Hoàng tổ chức bảy đêm văn nghệ quần chúng tại thành phố Nha Trang. Sư cô Hoàng làm nhạc trưởng điều khiển 20 em nam, nữ học sinh cũ trường Bồ Đề hát một hợp xướng và một số vũ khúc cũ hồi xưa trước 1975 được đem ra trình diễn, cũng như vở kịch em bé mồ côi và các bài hát quê hương không có màu sắc chính trị được duyệt xét.

Sở dĩ Sư cô Hoàng tích cực làm nhiều việc như vậy, là một cách cố tình làm đắc nhân tâm các cấp cán bộ không còn để ý đến cô nữa, để mà dễ bề liên lạc với các nhóm tổ chức vượt biên sau đó. Trong lúc chờ đợi tháng ngày tốt, trời êm biển lặng mà ra đi. Sư cô Hoàng xin Hòa Thượng Đỗng Minh một ít xì dầu hạng nhất để đem biếu cho họ, cũng như sẵn sàng nhận lời mời của họ đến tham dự thảo luận kinh tế, chính trị, văn hóa và ngay cả tiệc tùng chiêu đãi… để nói cho họ biết rằng “tôi vẫn còn đây không đi đâu hết”. Do vậy, trong lúc giả bịnh đau đầu xin nghỉ hai ngày, ba ngày, rồi bốn ngày, đến sáu ngày, cuối cùng họ cho nghỉ luôn. Sư cô Hoàng được ông trưởng ty thương nghiệp đến tận chùa Ngô Đồng mời dự tiệc và cho biết có sắm sửa một mâm chay cho cô Hoàng. Cô Hoàng nhận lời đến dự.

Tại bửa tiệc, Sư cô Hoàng được một số cán bộ mời rượu, (rượu pha với nước dứa), Sư cô nhất quyết từ chối. Họ ra điều kiện trả lời câu hỏi, nếu đúng thì khỏi uống, bằng không sẽ bị uống. Họ hỏi cô Hoàng: ngày xưa giặc Pháp xâm lăng nước ta, họ đi đến đâu là bắn giết dân ta bất kể là ai, khi họ gặp các nhà sư, họ hỏi anh là ai, trả lời “tôi là thầy chùa”, họ tha cho đi, còn nói “tôi là thầy tu” thì bị họ giết chết, vì sao vậy?

Sư cô Hoàng trả lời “Tôi thấy cái chuyện này là do các ông tự đặt ra thôi, chứ không có ai mà nói như vậy. Làm sao người Pháp mà biết nói lái “thầy tu là thù tây”. Thế là các cán bộ bị thua, Sư cô Hoàng thoát khỏi uống rượu.

Sư cô Hoàng đem chuyện được nghỉ công việc ở lớp thêu HTX Khánh Trang và các tổ hợp khác, trình với Hòa Thượng Đỗng Minh. Cô thưa:

- Kính bạch Hòa Thượng, từ lâu nay con đã tích cực học các ngành nghề và đi làm HTX dạy thêu, để cho người cộng sản không còn lý do nói mình là giai cấp ngồi nhà mát ăn bát vàng nữa. Cũng như con đã toại hạnh nguyện lợi tha cho hàng trăm em GĐPT được học thêu và đã được ra thợ rồi, cho nên con không muốn, không thích đi làm nữa, con phải ở nhà để có thì giờ liên lạc với mối lái ra đi.

 

NHỮNG NGÀY CUỐI TRÊN QUÊ HƯƠNG

Nghe Sư cô Hoàng trình bày lý do nghỉ việc luôn, Hòa Thượng Đỗng Minh nói khe khẽ: “Cô đã xét lại kỹ chưa, coi chừng họ kết tội chống đối. Họ nói việc rút lui công việc của cô là một cách chống đối, nguy hiểm lắm đó. Bứt dây động rừng! Để được giảm bớt nghi ngờ của họ, cô nên về hãng làm việc, vì hãng mình đây bây giờ không còn là sở hữu của mình, do nhà nước quản lý, bắt mình trông coi, gọi là làm chủ. Chủ mà không chủ, có khả năng bị đuổi ra không biết là khi nào! thôi thì cứ yên tâm mà làm việc, được ngày nào hay ngày đó. Tất cả việc chúng ta làm đều đem đến ích lợi vật chất cho tất chúng sanh. Chúng sanh hiền lành hay hung ác gì chúng ta đều độ khắp. Về lại hãng, công việc cũ của cô là kế toán, cô giúp kế toán cho thầy Giác Viên. Mặc dù thầy có đi học cùng khóa với cô, nhưng về kế toán thầy còn chậm lắm và có khi bị sai số. Thầy không lanh lẹ, nhanh ý bằng cô. Cô ở đây làm việc cho đến khi nào ra đi, sẽ tính sau.”

Sư cô Hoàng vâng lời Hòa Thượng Đỗng Minh, trở lại làm việc kế toán với thầy Giác Viên vào khoảng giữa mùa thu 1979. Trong lúc làm việc như vậy, nhưng ý niệm ra đi thôi thúc trong lòng từng giờ từng phút. Các mối lái ra đi, đến hãng giả vờ mua xì dầu, nhưng sau đó gặp cô Hoàng trao đổi chỉ một vài phút thì ra về. Xét thấy mối lái đến, có khả năng bị bại lộ, Sư cô Hoàng giả vờ gây lộn với thầy Giác Viên trong việc kế toán để nghỉ luôn, ra khỏi hãng, chuẩn bị cho việc ra đi. Dĩ nhiên cô Hoàng tự nghỉ luôn việc giúp kế toán, vì chỉ là việc làm phụ thôi. Không làm kế toán, thì làm việc khác trong thời gian từ từ rút lui, chứ chưa ra khỏi hãng liền. Trong thời gian đang làm một vài việc cầm chừng, để sau đó từ từ rút lui hẳn, thì Hòa Thượng Đỗng Minh bị công an đến bắt đi cải tạo, do vì là cựu giám đốc hãng vị trai Lá Bồ Đề, trong kế hoạch đánh tư sản mại bản, nên tất cả hàng giám đốc, cơ sở trưởng của chế độ cũ đều phải vào tù.

Hòa Thượng Thiện Bình được nhà nước chỉ định xử lý thường vụ quản lý trưởng hãng vị trai, để điều hành công việc sản xuất. Trong buổi nhậm chức, Hòa Thượng Thiện Bình nói Sư cô Hoàng là người có nhiều bằng cấp văn hóa, chứng chỉ nghề nghiệp sản xuất, thông minh lanh lẹ, điều hành giỏi, thông thạo mọi việc, có uy tín với các cơ quan nhà nước, thì tại sao hôm nay vô trách nhiệm, bỏ bê tất cả công việc của hãng như vậy?

Sau lời phê phán Sư cô Hoàng, Hòa Thượng Thiện Bình xét lại lương phạn của công nhân trước đây là bậc 4, lương nhân viên là bậc 5, nay Hòa Thượng tuyên bố hạ xuống. Công nhân chỉ còn lương bậc 2 và nhân viên lương bậc 3. Sau khi nghe Hòa Thượng Thiện Bình tuyên bố bậc lương mới, một số công nhân, nhân viên trong phòng họp đưa tay đề nghị Hòa Thượng nâng mức lương cô Hoàng lên bậc 4. Hòa Thượng Thiện Bình liền bác bỏ và kết tội vô trách nhiệm, chỉ được bậc 3 thôi.

Sư cô Minh Hoàng ngồi ngoài phòng, nghe Hòa Thượng Thiện Bình nói mà nực cười trong lòng, vì vài hôm nữa là ra đi rồi. Hành trình ra đi tìm tự do, cô Hoàng giữ rất kín, không dám hé môi cho ai biết cả. Duy chỉ nói nhỏ với Sư cô Hiền. Sư cô Hiền than thở “Huynh Minh Hoàng ơi! Huynh qua bên xứ người cảm thấy cô đơn lắm! Thôi đừng đi nữa, huynh ở lại với chúng em, để chúng em được nụ cười an vui, hạnh phúc mỗi lần thấy chị đóng kịch cười, nghe chị kể chuyện tiếu lâm và được hiểu thêm những đạo lý của những pháp số căn bản mà chỉ đã thường giảng cho chúng em sau mỗi lần học về Duy Thức Học. Chị đi, chúng em buồn lắm, ở lại đi chị!”

Sư cô Hoàng thủ thỉ mấy lời thật trầm buồn, với âm thanh cảm động rằng: vẫn biết đi là để lại một nỗi buồn cho các chị và mình cũng không lấy gì vui, nhưng ra đi là một nghĩa vụ vâng lời của Hòa Thượng Trí Thủ và Sư bà Diệu Không bắt mình đi, dù có bị tù hay vong mạng, cũng phải đi. Lệnh của quý ngài là lệnh của chư vị Bồ Tát. Quý huynh phải hiểu tình trạng của mình, không đi ở lại cũng bị họ bắt đi cải tạo, điển hình như Hòa Thượng Đỗng Minh đã bị họ bắt đi cải tạo rồi đó, các chị thấy chưa?

 

Cuối tập nhật ký, Sư cô Huệ Lan Phương viết mấy câu:

Ngày mai trong số Ni sinh ấy

Có chị còn tu, chị hết tu

Tôi nay sống giữa phương trời mộng

Mộng mãi có ngày sẽ mất tu.

Con chắp tay nguyện cầu lên mười phương chư Phật, Bồ Tát gia hộ cho Sư cô Minh Hoàng còn tu.

NHATRANG vào đông Kỷ Mùi – PL 2523 (1979)

HUỆ LAN PHƯƠNG

 

Tuệ Đạo kể hết lời cuối và mấy câu thơ của Sư cô Huệ Lan Phương trong nhật ký, rồi tuyên bố Người xưa vẫn còn đây, đưa mắt nhìn cây Hoàng Hậu đang khoe hoa tím với tường rêu trong trạng thái suy tư trầm lặng, đoạn chàng cất tiếng nói lời thơ :

Người xưa nhật ký tôi đã tìm

Hoa tím đang cài trên áo lam

Hôm nay kể chuyện Lan Phương viết

Cô ấy còn tu mặc áo phàm.

 

Tuệ đạo vừa nói xong mấy câu thơ, Đăng Triệu nóng lòng muốn biết cô Lan Phương và cô Minh Hoàng đang ở đâu, nên nói lời yêu cầu :

- Theo lời thơ của anh, anh đã được gặp lại Sư cô Huệ Lan Phương. Như vậy cô ấy đang ở đâu và có liên lạc với Sư cô Minh Hoàng không ? Tôi muốn biết thêm nữa về vận hành hoằng dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh của Sư cô Hoàng. Chẳng lẽ, hết sao ! Phải còn nữa chứ, anh?

Tuệ Đạo mỉm cười, đưa tay vỗ nhẹ lên vai Đăng Triệu, nói khẽ :

- Yên chí, còn nhiều pha hấp dẫn lắm về cô Lan Phương và cô Minh Hoàng, tôi sẽ kể tiếp cho nghe.

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG SÁU

 

BÉ MINH HOÀNG NGÀY XƯA VẪN CÒN ĐÂY

 

PHỎNG VẤN

Đăng Triệu đang nói chuyện với Hòa Thượng trụ trì Thích Minh Hồi bên cửa hông phía đông chánh điện, thấy Tuệ Đạo từ ngoài đường đi lững thững vô bên kia hàng trúc vàng, trong dáng điệu tìm kiếm ngơ ngác, liền đưa cánh tay lên, nói lớn tiếng  “đây nè !”  Tuệ Đạo liền đổi hướng, lên cái dốc thoai thoải, tiến tới chỗ Đăng Triệu, dừng lại, nở nụ cười, chắp tay “A Di Đà Phật”.

Bằng tánh tự nhiên, Hòa Thượng Minh Hồi liền đáp lời “A Di Đà Phật” cùng cái chắp tay nhanh lên ngực. Đăng Triệu liền nói lời giới thiệu :

- Thưa Hòa Thượng, đây là Tuệ Đạo, bạn tâm đắc của con, một Ưu Bà Tắc hộ pháp đắc lực. Hôm nay chúng con đến thăm ngôi Tam Bảo Như Lai Thiền Tự, vì hơn một lần đã nghe đến mà chưa có thiện duyên, nay mới được. Ngôi chùa mang sắc thái văn hóa Á Đông rất là hoành tráng !

- Mời hai đạo hữu qua bên phòng khách dùng trà với thầy.

- A Di Đà Phật, chúng con cảm ơn Hòa Thượng, để chúng con tự nhiên thăm viếng và chụp ảnh. Lời Đăng Triệu đáp lại.

- Rồi, hai đạo hữu tự nhiên thăm viếng ! thầy vô làm việc. Lời Hòa Thượng Minh Hồi cáo biệt.

Hai chàng chắp tay xá xá, cùng với lời dạ, dạ, A Di Đà Phật.

Đăng Triệu và Tuệ Đạo đi qua hành lang chùa hướng tây, một nơi có sẵn cái băng gỗ dài và luôn có bóng mát cả ngày, thật là chỗ lý tưởng cho cuộc hàn huyên tâm sự Phật đạo.

Mới ngồi xuống, Tuệ Đạo đang còn chỉnh tư thế ngồi thoải mái, đã được Đăng Triệu hỏi :

- Hôm qua trên đường về, tôi không hiểu ý nghĩa mấy lời thơ   “hoa tím đang cài trên áo lam” và ”còn tu mặc áo phàm”.

- Khoan đã! Chuyện ấy sẽ thấy rõ qua cuộc phỏng vấn giữa tôi và cô Huệ Lan Phương mà tôi sắp tường thuật cho huynh nghe hôm nay.

Tuệ Đạo chưa vội kể, ngồi im lặng như thể dắt dẫn tâm thức Đăng Triệu an trú trong tỉnh thức vào thực tại, là năng lượng làm nghe rõ lời người kể chuyện hay nói pháp, đoạn chàng tằng hắng một cái, rồi bắt đầu nói :

- Cuối mùa xuân năm kia, 2005, trên đường tản bộ đến thương xá Phước Lộc Thọ, tôi dừng chân ở cột đèn bên này đường để chờ đi qua bên kia đường khi hình người trong hộp đèn hiện lên màu trắng bạc.

Nhiều sắc dân đứng chờ đèn như tôi, trong đó có người Việt, hai ông trạc tuổi trên lục tuần, một phụ nữ có vóc dáng hơn năm mươi đứng bên trái tôi. Thân hình nàng không cao lắm, thon thon, vững chãi, nước da trắng theo kiểu Việt, đôi mắt sâu, mũi dọc dừa cao và nhọn hoắc, loại mắt mũi của các cô đầm tây, đôi chân mày lá liễu nguyên thể, tức là không xăm xỉa, đôi môi hoa hồng hàm tiếu, mái tóc sợi ngắn sợi dài, lăng quăng chấm bờ vai lên vải áo vét tông màu xám tro, cái quần tây cũng đồng màu với áo.

Qua hình ảnh của nàng, tiềm thức tôi, nó tự động gọi tên Huệ Lan Phương thầm lặng trong tư tưởng tôi, làm cho tôi nhìn say đắm vào nàng mà quên hẳn khí lạnh mùa xuân tháng năm Cali, nó đang ăn có theo ánh nắng xuân, tỏa lên đôi vai gầy tôi.

Tôi bước theo dòng người qua đường, chân tôi tự nhiên đi nhanh hơn thường lệ, nên tạo bước song hành bên nàng. Vào trong khu Phước Lộc Thọ, nàng đi tới đâu tôi cũng đi đến đó, đứng gần nàng với khoảng cách vài mét, giống như người trinh thám theo dõi đối tượng. Có lẽ nàng biết tôi theo nàng với chủ đích nào đó, nên thỉnh thoảng nàng ngó nghiêng qua tôi để tìm hiểu, hay là nàng cũng đang đào xới tiềm thức nàng để xem có tôi trong đó không, người của quá khứ.

Như để trắc nghiệm tôi là ai, hạng người nào, bằng cách đưa tôi vào một vị trí thực tại để rõ mặt, nàng liền đến ngồi ở bàn của tiệm bán các món giải khát. Tôi cũng làm liều đến ngồi ở cái bàn bên cách bàn của nàng chỉ một mét. Nàng gọi sinh tố, tôi mua một ly cà phê sữa đá. Tôi nhâm nhi từng ngụm, đưa mắt nhìn người qua kẻ lại, nhưng tâm tư thôi thúc muốn hỏi nàng về tên họ, gốc tích ở đâu, còn cái miệng thì cứ nhấp nhổm, sợ không dám mở lời.

Thấy thời gian cũng hơi lâu, nếu không hỏi là mất cơ hội, nàng đứng dậy đi, mình đi theo nữa, thấy kỳ quá. Sau ý nghĩ ấy, tôi liều mạng hỏi :

- Xin lỗi, chị là người Việt?

- Tôi là người Việt chính tông. Anh thấy tôi như thế nào mà hỏi tôi có phải người Việt?

- Tại vì người da vàng, mũi tẹt ở đây, có cả dân Việt và Tàu. Với chị, chị ít giống người Việt, có hơi lai Âu Mỹ. Hồi xưa tôi có quen một Sư cô, cô ấy có một nét giống chị y hệt, nên hỏi để biết có phải Sư cô xưa tôi quen hay không, vì có Sư cô ra hải ngoại hết làm Sư cô, không phải là ít.

- Sư cô mà anh quen hồi xưa, ở tỉnh nào ?

- Sư cô tôi quen, cô ấy gốc ở Đà Nẵng, tên là Huệ Lan Phương.

- Tôi đây nè! Tôi là Huệ Lan Phương. Trời thần ơi! Như vậy anh quen tôi, tôi quen anh. Tôi không nhớ quen anh khi nào !

- Chính cô đã tự tay trao quyển nhật ký mà cô viết về cuộc đời tu học và hành đạo gian lao, cực khổ của Sư cô Minh Hoàng cho tôi tại nhà cô, vào buổi xế mùa thu năm 1979. Cô quên rồi sao ?

- Tôi nhớ chứ! Tôi đưa cuốn nhật ký đó cho thầy Tuệ Đạo. Thầy ấy là giáo sư, không phải thầy tu.

- Tôi là Tuệ Đạo đây!

- Trời ơi! Thầy. Thầy có khỏe không vậy. Đúng là quả đất tròn và nhỏ. Không ngờ được gặp lại thầy ở đây. Thật là vui quá không gì bằng! Hèn chi tôi thấy thầy đi theo sát bên tôi là như vậy. Xin lỗi thầy, tôi nói trong bụng  “anh chàng dê nào cứ theo mình”. Thầy còn trí nhớ tốt lắm, đàn ông có khác!

- Tôi đang còn giữ cuốn nhật ký kỹ lắm. Thỉnh thoảng có các bạn Phật tử lại nhà chơi, tôi đem cho họ xem và kể cho họ nghe về vận hành tu học và hành đạo của Sư cô Hoàng thật là tinh tấn, nhẫn nhục ba la mật trên mọi nẻo đường xông pha, dấn thân làm đủ thứ việc thật là nhọc nhằn, gian khổ và có lúc bị các vị trưởng trên đì, đày, nhưng cô vẫn tươi cười quyết tâm bước tới… quả vị Bồ Đề. Nghe xong, các bạn Phật tử tôi, ai cũng lấy làm cảm động và khâm phục cô Hoàng.

À, cô còn nhớ, cô để một vật kỷ niệm nào ở giữa cuốn nhật ký?

- Hai cánh hoa sim tím, phải không? Lâu  quá, không biết hoa vẫn còn tím hay phai màu rồi!

- Hoa vẫn còn tím, nằm im giữa những trang giấy.

- Thầy Tuệ Đạo biết nguyên nhân nào mà tôi có hai cánh hoa tím đó không?

- Làm sao biết được! Xin cô kể cho nghe.

- Hồi xưa, những Ni sinh chúng tôi, dưới sự hướng dẫn của Sư cô Hoàng đi lấy củi ở cái rẫy vừa đốt rừng xong, tại Phan Rang vào một ngày mưa gió. Nhân lúc nâng một khúc củi cháy lên vai, nhìn thấy bụi hoa sim bị chặt tả tơi, tôi mới hái một chùm hoa sim, gắn vào túi áo vạt hò màu lam, bị lẫn lộn với những vết than đen trên áo. Các Sư cô thấy vậy, ai cũng cười. Sư cô Hoàng liền bảo tôi bỏ vào túi, đem về ép vào sách làm kỷ niệm ngày vác củi nhiều mưa gió. Đó là một cách chơi có văn hóa của thời tuổi trẻ.

- Sau giây phút chào tạm biệt nhau tại nhà cô, cô còn ở lại đó cho đến ngày ra đi hay về lại Nha Trang?

- Tôi về lại Ni viện Diệu Quang Nha Trang, vì mình là dân tạm trú thôi mà, nên phải trở về hộ khẩu chính. Ở tại Ni viện suốt năm 1980. Đến đầu xuân 1981, tôi mới ra khơi. Tôi định không đi, muốn ở lại với thầy tổ, huynh đệ, bà con, đất nước, nhưng con người bị thiên la địa võng hộ khẩu bao vây, không có không khí tự do, làm sao được an tâm mà tu học, hành đạo hoằng dương chánh pháp! Vai trò trưởng tử Như Lai, không lẽ ngồi mãi trong chùa hoài sao, do vậy tôi ra đi. Tôi biết ra ở xứ người, Ni sinh phái yếu của chúng tôi, khó có thể tạo dựng ngôi Tam Bảo tại xứ người cho việc hoằng dương chánh pháp trong vai trò trưởng tử Như Lai. Duy chỉ có vị Ni nào được có bản lĩnh vững mạnh, Bồ Tát nguyện cao độ, văn hóa lớn, trí thức Phật giáo đầy đủ ba nền giáo dục Phật giáo, như Sư cô Minh Hoàng, thì mới dám xông pha, dấn thân trong gian khổ, phiền não, chông gai… nở nụ cười Di Lặc bước tới không sợ hãi mà kiến tạo ngôi Tam Bảo ở xứ người, được người bản xứ biết đến, được nhiều người Việt đến tu học với cô.

 

TU TẠI GIA

Vì thế nên tôi an phận thủ thường, làm người nữ tu tại gia, mặc áo phàm thế gian đi giữa trường đời đầy biển sắc dục tình, nhưng tâm ý xuất gia, không hệ lụy vào mọi thứ sắc tình dục lạc, siêng năng, tinh tấn, chuyên lo tu tập, tụng kinh bái sám và hộ pháp với tinh thần vô ngã theo khả năng mình, cũng sẽ được phước trí vô lậu, là năng lực tiến tới Bồ Đề quả thành Phật, đúng như lời Phật nói, “chúng sanh là Phật sẽ thành qua con đường tu tập”. Ai tu, người ấy được giải thoát thành Phật. Cho nên xuất gia, tại gia có tu tập là có thành Phật một cách bình đẳng. Còn người xuất gia, sống với lý tưởng sự nghiệp đem Phật pháp truyền vào thế gian có tính cách rộng lớn do có đủ ba nền giáo dục ở thân tâm, thì mới đủ sức làm người đại diện cho Phật truyền thừa pháp Phật vào đời, như Sư cô Minh Hoàng, thật là xứng đáng. Bằng không thì thôi, đừng mang thân tướng xuất gia mà rộn đám trong Tăng đoàn của các giáo hội. Nghĩ như vậy, mà tôi quyết định không làm người Tăng bảo nữa, làm người cư sĩ mặc áo phàm.

Tuy rằng thân cư sĩ, nhưng có đầy đủ phẩm chất và phẩm hạnh của một Sa môn. Sa môn là một danh từ chung chỉ cho con người nam hay nữ, tâm đã và đang xa lìa các sắc tình dục lạc thế gian, dấn thân làm các việc cứu khổ, ban vui cho con người, sống an bần, lạc đạo. Các tu sĩ đạo Bà la môn, đạo Phật, hay bất cứ đạo nào khác có đầy đủ phẩm chất đạo hạnh đều được gọi là Sa môn. Đặc biệt trong đạo Phật có thêm danh từ Tỳ kheo để chỉ cho các nam, nữ xuất gia tu hành. Các đạo khác không có danh từ Tỳ kheo.

Tuy rằng, thân mặc áo phàm đi giữa trường đời đầy sắc dục, nhưng tâm không hệ lụy vào tam giới. Tuy làm người cư sĩ tại gia có vợ hay chồng, nhưng thường tu phạm hạnh. Riêng Huệ Lan Phương này sống độc thân vui tính, không lập gia đình từ lúc vượt biên 1981 qua tới nước Mỹ này năm 2005 và mãi mãi độc thân, tâm không hề xa rời ý hướng Phật pháp. Tuy rằng có rông chơi đó đây, nhưng là cơ hội làm nhiều ích lợi vật chất và tinh thần cho chúng sanh. Tuy rằng có lúc đi xem ca múa, nhạc kịch, nhưng tâm đã tỏ ngộ, tất cả chỉ là duyên khởi, vô tướng, vô tác, tánh không thiền định. Tuy rằng làm các việc đời để mưu sinh cho bản thân và quyến thuộc, nhưng lo phụng sự đạo pháp bằng nhiều cách, trong đó tôi đã và đang viết thêm nhật ký về sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của Sư cô Hoàng từ lúc cô ấy xuống tàu ra khơi đến Nhật, qua Mỹ cho đến nay.

- Bằng cách nào mà cô Lan Phương hội đủ những dữ kiện sinh hoạt của Sư cô Hoàng ở các nơi để viết ra ?

- Phải nói rằng tôi rất thích viết nhật ký về Tăng bảo Ni giới thôi. Ni giới có nhiều tài năng đặc biệt như Sư cô Minh Hoàng, chứ không hề viết về cái tôi. Viết về các Sư bà, Ni sư, Sư cô nào được có tài đức, là mục tiêu để lưu truyền lại cho các thế hệ Ni hậu lai, lấy đó mà làm kim chỉ nam cho cuộc đời tu học, đỗ đạt, điều hành giáo vụ, lãnh đạo đào tạo Ni sinh và làm việc cho các giáo hội, v.v… không hở tay, để cách mạng hiện đại hóa Phật giáo mà theo kịp đà văn minh tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của nhân loại, đúng với bản chất pháp môn của Phật, là linh hoạt, sinh động và biến đổi phương tiện, chứ không vô tình như sỏi đá, cỏ cây, phải hằng chuyển, thay đổi cách thức hoằng hóa độ sanh cho phù hợp với mọi căn tính, trình độ, hoàn cảnh của con người trong mọi giai cấp.

Vị Ni đã và đang làm công cuộc cách mạng hóa Phật giáo trên lãnh vực văn hóa bằng sử dụng trí tuệ diệu dụng của mình, để rạo ra nhiều phương tiện tục đế thật sinh động và lưu chuyển để đem chơn đế đến cho mọi tầng lớp Phật tử, đó là Sư cô Minh Hoàng khi cô còn ở trong nước. Bây giờ ra hải ngoại rồi, không viết thì uổng lắm! Vì tài năng của Sư cô Hoàng còn nhiều lắm, gặp môi trường thuận lợi, như ở nước Mỹ, chắc chắn cô đã làm nên sự nghiệp văn hóa Phật giáo và dân tộc rất vẻ vang hơn ở trong nước trước 1975. Do vậy, tôi quyết tâm theo dõi sự sinh hoạt đạo pháp của cô mà viết ra.

- Cô có ở gần Sư cô Minh Hoàng, nếu ở xa làm sao biết hết được sự sinh hoạt cô Hoàng để viết?

- Tôi ở gần Sư cô Hoàng, nhưng không phải gần, mà lại gần. Tức là thỉnh thoảng tôi có đến chùa cô để lễ Phật và cúng dường thôi, không bao giờ gặp, nhưng biết rõ hết mọi việc Đạo pháp cô Hoàng làm. Vì xét thấy mình hết làm Sư cô, đến đó thường, bổn đạo biết được quá khứ của mình là Ni, sẽ gây cho họ có tư tưởng chê bai, ghét bỏ, xỉ vả mình, vô tình mình tạo cho họ cái tâm bỉ thử, chê trách, sân si mà tội cho họ. Mặc dù Sư cô Hoàng có tâm rất từ bi thương người, tôi đến cô sẽ mừng lắm, tiếp đãi nồng hậu, nhưng với tâm lý người Phật tử ưa ghét những người trước đây làm Tăng Ni, nay không thích làm Tăng Ni nữa, nên tôi không đến thường xuyên và không gặp mặt, là như vậy.

Một khi tôi cố quyết tâm viết thêm về cô Hoàng, là tôi có nhiều cách. Những cách đó, dài lắm không thể nói hết ở đây được.

- Trong tập nhật ký cũ, ở phần chót, cô có viết lời nói cuối cùng của Sư cô Hoàng nói với Sư cô Hiền. Vậy Sư cô Hiền, có phải là cô?

- Điều đó cũng được giữ kín, không thể nói ra đây được. Miễn là thầy biết tên tôi là Huệ Lan Phương, là đủ rồi, xin thầy hoan hỷ cho nhé!

- Còn nhiều điều quan trọng nữa, xin hỏi cô. Suốt trong nhật ký, cô dùng “Sư cô Minh Hoàng”, chỉ là cái tên do cha mẹ cô Hoàng đặt cho. Chứ người xuất gia là phải được bổn sư đặt cho pháp danh, pháp tự và pháp hiệu. Vậy cô có thể cho biết cô Hoàng có pháp danh, pháp hiệu gì?

- Điều đó tôi sẽ cho thầy biết sau, khi nào thầy cần, thầy phone cho tôi.

- Theo cô nói, cô đã viết thêm về vận hành tu tập và hoằng hóa độ sanh của cô Hoàng. Vậy cô có thể gởi cho tôi tài liệu đó, được không?

-Vâng, được chứ, dễ thôi. Vì tôi viết ra là mục đích để cho kẻ hậu lai được biết, vì đó là một sử liệu về văn hóa Phật giáo Việt Nam được truyền ra hải ngoại, mà vị Tăng bảo được nhiều giới Phật tử Mỹ Việt biết đến tài đức, văn hóa đạo đời song toàn, lại là một Sư cô, mới đáng nói, đáng viết là chỗ đó.

Tuệ Đạo kể hết cuộc phỏng vấn cô Huệ Lan Phương cho Đăng Triệu nghe. Vừa chấm dứt, Tuệ Đạo hỏi Đăng Triệu :

- Sao, huynh đã rõ ý nghĩa “hoa tím đang cài trên áo lam” và “còn tu mặc áo phàm” rồi chứ?

- Hiểu rõ rồi! Té ra các Sư cô mình cũng có tâm hồn văn hóa ép hoa vào vở!

- Các cô cũng là thân người có đủ tứ đại, năm uẩn như mọi người, làm sao mà không có tâm hồn văn hóa ấy được!

- Như vậy bao giờ anh mới kể tiếp về cuộc đời tu hành hoằng hóa độ sanh của Sư cô Hoàng ở hải ngoại?

- Chặp nữa kể tiếp, bây giờ mình nghỉ giải lao một vài phút.

Tuệ Đạo và Đăng Triệu vào nhà bếp chùa, lấy ly giấy rót nước lạnh từ cái vòi nước lọc, bưng ra đứng bên cạnh dãy trúc vàng, vừa uống vừa nói chuyện chùa cháy năm rồi, đã được sửa chữa cấp thời cho kịp lễ Phật đản. Đang nói, bỗng dưng hai chàng im lặng, là do Hòa Thượng Minh Hồi từ nhà linh tiến ra, đi tới. Ngài đem cho hai chàng mỗi người một trái quýt. Sau lời cảm ơn Hòa Thượng, hai chàng đến dãy ghế ở sát tường, ngồi đó, bóc quýt ăn. Bóc xong quýt, Đăng Triệu đố Tuệ Đạo, hôm nay là ngày gì mà được ăn quýt. Tuệ Đạo nói không biết. Đăng Triệu cho biết đó là thứ bảy, ngày bảy, tháng bảy năm hai ngàn lẻ bảy. Đăng Triệu còn cho biết thêm, cách đây mấy mươi năm, cũng có thứ năm, ngày năm, tháng năm, năm một chín năm năm. Ngày ấy Đăng Triệu được ông nội cho hai đồng bạc Việt Nam khi ông Diệm từ bên Mỹ về nước làm thủ tướng.

Ăn quýt xong, hai chàng trở lại ghế cũ. Tuệ Đạo bắt đầu kể tiếp hành trình hoằng hóa độ sanh của Sư cô Minh Hoàng ở hải ngoại bằng chủ đề:

 

CON THUYỀN BÁT NHÃ ĐẾN BỜ TỰ DO HAY

TẬP NHẬT KÝ THỨ HAI

Tuệ Đạo mở lời:

- Sau hơn mười tiếng đồng hồ (7pm – 5am) ẩn mình ngồi im, không nói trong mái chòi tranh ở nương dâu để chờ lệnh xuất quân. Nên vừa nghe tiếng nói quen thuộc của người tài công ra hiệu mật mã ra bãi, cô Hoàng và mọi người ra khỏi chòi tranh thật nhanh. Sư cô Hoàng không quên quay lui, nói lời tạ ơn các vị thánh thần bổn xứ Đại Lãnh, rồi bước nhanh sau cùng, nhưng đi sau cô Hoàng là người tài công trong vai trò kiểm soát, cũng là người hộ vệ cô Hoàng.

Mới ra khỏi chòi tranh chưa được mười phút, tất cả mọi người có mặt tại rừng dương và lần lượt lên tàu, ổn định chỗ ngồi. Con tàu không lớn lắm, vừa đủ cho trên năm mươi người, bắt đầu ra khơi cùng lúc với những con tàu nhỏ, lớn của người dân đánh cá, đó là điều kiện an toàn ở bãi, được qua mặt công an.

Dưới bầu trời tờ mờ sáng đầy sương mù trên biển khơi của tháng mười một, tháng có biển lặng, trời êm, nhưng không khỏi cái lạnh buổi sáng của biển cả, đang lãng vãng trong con tàu. Cô Hoàng nhìn qua thấy bà già trước mặt đang co ro vì lạnh, cô liền cởi cái khăn nâu choàng cổ, đưa cho bà già. Cô bảo bà choàng đi để cho ấm cổ. Bà già lấy khăn choàng nắm trong lòng tay, đưa mắt nhìn cô Hoàng trong giây lát, bà liền chắp tay, cúi đầu “A Di Đà Phật, con chào Sư cô”. Mọi người ngồi trong tàu từ gần đến xa, đều hướng mặt về cô, rồi chắp tay xá xá. Số người chung quanh gần cô, ai cũng vui mừng! Cái trạng thái vui mừng có tin tưởng được yên ổn suốt cuộc hành trình bởi sự hiện hữu của Sư cô Hoàng, như sự hiện hữu của Bồ Tát Quán Thế Âm, nên có một bà nói với cô Hoàng rằng:

- Chúng con lấy làm an tâm lắm, con tin tưởng con tàu và mọi người không gặp trắc trở, sẽ đến bờ tự do một cách an toàn do có Sư cô cùng đi với chúng con.

Sư cô Hoàng liền A Di Đà Phật và nói:

- Chị à! Tôi không phải thánh thần, như các chị thôi, làm sao có thể bảo đảm sinh mạng của mọi người được! Tuy nhiên tôi đang niệm Phật cầu nguyện cho tất cả mọi người được thoát qua khỏi khổ nạn, đến bờ tự do an toàn. Vậy xin quý vị, ai là Phật tử hãy giữ tâm thanh tịnh mà niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm để nhờ ngài xua tan đi mọi tai ương, khổ nạn.

Kể từ đó, mọi người trong tàu truyền nhau lời của Sư cô Hoàng bảo niệm Phật, nên chi ai cũng ngồi im niệm Phật luôn miệng

Đăng Triệu à! Nói đến đây, tôi còn nhớ câu chuyện của Hòa Thượng Viên Đức nói với một số Phật tử vượt biên sắp lên tàu. Ngài nói rằng: “quý Phật tử an tâm, có thầy đi, thầy bảo đảm sẽ không có trở ngại gì đâu. Tất cả Phật tử sẽ được đến bờ tự do an toàn. ”

Với hàng Phật tử tại gia không dám nói lời ngã mạn, huống hồ chư Tăng Ni lại càng không dám, luôn luôn khiêm nhường, hạ mình vô ngã, thì nhất định được chư Phật, Bồ Tát, Thánh Thần hộ niệm cho. Ngược lại, sẽ bị Thiên ma Ba Tuần quật ngả, chứ không phải do Phật hay Bồ Tát. Cho nên con tàu của Hòa Thượng Viên Đức vừa ra khỏi bờ mới hai cây số, đã bị một con sóng lớn ngẩng đầu lên cao từ xa vươn tới, ụp vào con tàu có cố Hòa Thượng Thích Viên Đức trong đó. Tàu chìm sâu trong lòng đại dương, không còn ai sống sót!

Câu chuyện được một vài người không đi được hôm đó vì tàu quá chật, xét thấy sợ chìm, nên ở lại chờ chuyến sau. Trong lúc ngồi núp công an, họ nhìn theo con tàu không ngớt mắt, thì liền thấy con sóng cất cao áp tới làm cho con tàu chìm. Về đến nhà, họ bàn tán lý do, khi nhớ lại lời nói bảo đảm sinh mạng của Hòa Thượng Viên Đức, ai cũng giật mình và được thấy rõ do tâm ngã mạn của cố Hòa Thượng Viên Đức chính là tai ương làm cho tàu bị chìm.

Các giới xuất gia Tăng Ni, là trưởng tử Như Lai. Đã là trưởng tử của Như Lai, thì tất cả những gì liên quan đến Như Lai không thể bất ly thân, bất ly tâm. Y bát bất ly thân, vô ngã, niệm Phật, từ bi trí tuệ, trì chú bất ly tâm.

Sư cô Minh Hoàng là vị Tăng bảo luôn luôn niệm Phật, trì chú Phật Mẫu Chuẩn Đề và có tâm vô ngã, từ bi, trí tuệ với mọi người. Cho nên cô niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm, trì thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề suốt cả cuộc đời tu hành hoằng dương chánh pháp, chứ không chờ lúc vượt biên mới niệm Phật, trì chú.

Con tàu của cô đi từ bãi rừng dương Đại Lãnh cho đến bờ cảng nước Nhật thật an toàn, không ai bị bệnh tật gì. Thời gian chưa tới một tuần, con tàu đã tới Nhật. Tất cả mọi người được các nhân viên Hồng Thập Tự Nhật ra đón tiếp, đưa về trại tỵ nạn. Trại vốn sẵn có, nay được sửa sang lại thật khang trang, tiện nghi khả dĩ.

Tàu của Sư cô Hoàng vào Nhật, là con tàu đầu tiên. Sau đó có thêm bốn chuyến nữa. Đến chuyến thứ năm, thứ sáu thì không được vào Nhật; chẳng hạn tàu có thầy Thích Nguyên Hồng, nguyên phân khoa trưởng sư phạm đại học Vạn Hạnh. Thầy học ở Nhật, nói tiếng Nhật thông thạo, trình ra đầy đủ giấy tờ có liên quan đến Nhật, ấy thế mà bị cơ quan tỵ nạn của Nhật từ chối không cho lên bờ. Sau đó được tàu Ba Lan dẫn về nộp cho Hà Nội. Thầy Nguyên Hồng vào tù, một vài tuần sau được Hòa Thượng Trí Thủ bảo lãnh về.

 

SƯ CÔ HOÀNG HÀNH HOẠT VĂN HÓA VÀ BỒ TÁT ĐẠO

Trong thời gian tạm trú tại Nhật, Sư cô Hoàng liên lạc với các sinh viên Việt Nam trước 1975 đang học tại Nhật. Liên lạc để thăm và cổ võ tinh thần quốc gia dân tộc và đạo pháp. Tất cả sinh viên Việt gặp Sư cô Hoàng, họ rất vui mừng. Bên cạnh lời thăm hỏi và cổ vũ tinh thần quốc gia, đạo pháp, Sư cô Hoàng giúp cho một vài sinh viên ít tiền để mua máy quay phim, chụp ảnh để sinh hoạt với cộng đồng Phật giáo Việt Nam ở Nhật.

Trong trại tỵ nạn lúc bấy giờ, ở đâu cũng có một vài cá nhân quậy phá. Vì vậy nghe có một Sư cô đang có mặt ở trại, ông đại diện thuyền nhân đến gặp Sư cô và kể thành tích, hành động hung hãn của các thanh niên gốc Hà Nội cướp tàu ra đi vừa vào trại tuần rồi. Trình bày xong, ông ấy thưa rằng: “Con bó tay, không có cách nào dẹp được sự hung bạo của họ, con nhờ Sư cô đến cải hóa họ”ï. Sư cô liền đến gặp, thăm hỏi, nói chuyện với đám thanh niên thật tình cảm, phân tích văn hóa Việt Nam không như vậy, mà phải như vậy, để người xứ Nhật đừng chê cười dân Việt mình. Sau đó các thanh niên Hà Nội rất là ngoan, hết bạo động, đêm ngủ yên, ngày sinh hoạt có trật tự.

Với người Nhật, họ có óc biết tự trọng và tôn trọng người xứ khác, cho nên họ không khắc khe việc người trong trại tỵ nạn ra ngoài thăm chơi, ngoạn cảnh. Vì họ cũng muốn cho người xứ khác được biết đến cảnh đẹp, mọi sự sinh hoạt có trật tự xã hội của họ. Do vậy, các thanh niên Hà Nội vừa được cô Hoàng cải hóa tư tưởng, đến dẫn cô đi dự lễ tại một số chùa Nhật gần đó.

Người Việt trong trại tỵ nạn, ai cũng cảm thấy tù túng, muốn ra ngoài đi làm cho khuây khỏa. Muốn thì muốn, nhưng ít ai được ra ngoài đi làm, nhưng đi chơi thì dễ. Vì hơn nữa, người Nhật không biết người Việt tỵ nạn có khả năng gì, làm sao họ thuê mướn ra làm! Sư cô Hoàng liền tiên phong xin việc. Họ chấp nhận cho cô làm thử. Cô làm được 3 ngày, việc gì họ cũng đưa cho cô Hoàng làm trước. Thấy vậy, sau đó họ mới nhận thêm các ông, các bà người Việt ta vào làm với cô Hoàng. Cơ sở mà cô Hoàng và mọi người được vào làm, đó là xưởng đóng tàu thủy có nhãn hiệu chữ Thiên (xưởng Trời). Tất cả công nhân đều đội mũ cao, mặc áo giáp màu cam. Sau thời gian ngắn được đem số người Việt trong trại tỵ nạn vào làm, Sư cô Hoàng nghỉ, vì còn lo các việc giáo vụ Phật sự với chư Tăng Nhật và các chư tôn đức người Việt đang ở Nhật và đến Nhật.

Số thanh niên đang làm việc tại xưởng đóng tàu, thì có một vài người chạy về trại đập cửa, đi vào khóc lóc nức nở. Sư cô Hoàng hỏi lý do sao khóc, sao đang làm việc lại chạy về. Có đứa nói: thưa cô con nhớ vợ con; có đứa nói: con nhớ bồ con. Thấy vậy, Sư cô pha cà phê cho uống, bắt ngồi im nghe cô giảng Phật pháp. Có nhiều bữa chúng rủ nhau đi đánh lộn ở đâu đó, khi về cô bắt sám hối, xin chừa bỏ đánh nhau.

Một bữa khác, trong ngày nghỉ việc, mười đứa rủ nhau nai nịt theo kiểu đánh lộn, ngồi chờ đứa sắp sửa vào trại tỵ nạn ở chuyến tàu thứ ba vào Nhật. Sư cô biết thế nào cũng có đánh lộn. Cô hỏi lý do nai nịt, một đứa trong bọn trả lời là thằng sắp vào trại, nó đã cùng với các bạn nó xúm nhau bề hội đồng con bồ của một thằng đang có mặt ở đây.

Quả thật, thằng đó mới vào trại chưa được tiếng đồng hồ, đã bị mười thằng ở đây xúm nhau đánh thằng đó tơi bời hoa lá.

Thấy vậy, Sư cô Hoàng liền vào can ngăn, cô bảo đánh cô chứ đừng đánh thằng đó nữa. Nhờ vậy mà mọi người được an ổn.

Qua việc cứu xét cho đi định cư, tất cả những thanh thiếu niên Việt Nam có hành vi bạo động đó, được ban tỵ nạn Liên Hiệp Quốc cho đi Na Uy.

Nghe chúng sắp đi, Sư cô Hoàng đóng cửa nhập thất, vì biết chúng nó sẽ đem cho nhiều thứ vật dụng. Tất cả không có đứa nào được gặp Sư cô Hoàng, do vậy có đứa bực tức khóc lóc, nói lời nhắn chúc cô ở lại bình an; có đứa quăng đồ đạc từ tầng trên xuống đất, bị bễ tứ tung.

 

CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤ NỮ CÓ BẦU BỊ BỊNH LAO PHỔI

Trong số người đi chung tàu, ở cùng trại tỵ nạn với Sư cô Hoàng, có một chị mang bầu trên ba tháng bị bịnh lao phổi, lại gặp phải mùa đông đang về đem cái lạnh trên xứ Phù Tang. Người bị bịnh phổi rất là khổ vì lạnh. Nếu không uống, không chích thuốc lao phổi, bịnh sẽ phát triển mau, có cơ bị vong thân. Cần phải uống và chích các thứ thuốc trụ sinh hạng nặng. Với đàn bà có thai bị bịnh lao phổi, mà chích và uống thuốc lao phổi, thai trong bụng bị hư, sanh ra quái thai, có khi bị chết, trong bụng mẹ, làm cho bà mẹ bị chết theo luôn. Tốt hơn hết phải trục thai ra, để cứu sống bà mẹ, bằng không có thể bị chết cả hai, hoặc không chết, mẹ sanh con ra, con là một quái thai, còn đau khổ hơn.

Chị có thai bị bịnh lao phổi ấy, được bác sĩ khuyên nên trục thai ra, để mẹ còn sống, có cơ hội mang bầu đứa khác sau khi hết bịnh. Với tấm lòng quá ư thương đứa con trong bụng, chị ấy không chịu trục thai, nhưng lại chịu chích và uống thuốc lao phổi. Uống và chích thuốc lao phổi sẽ bị hư thai.

Trước sự việc nan giải ấy, các bác sĩ mời Sư cô Hoàng đến, nhờ Sư cô Hoàng giải thích với chị có bầu về lợi hại uống thuốc, trục thai, không trục thai…

Cô Hoàng nói nếu chị không trục thai ra, thì sau này sanh đứa con ra, mà ôm giữ cái thân thể tàn tật của nó, thì khổ lắm suốt đời, không đi đâu được, không làm gì được. Thà rằng để cho họ trục ra mà cứu được chị hết bệnh lao. Khi chị khỏe rồi, sau này chị sẽ sanh con tiếp tục.

Sư cô Hoàng lãnh việc cầu siêu cho vong linh hài nhi bị trục ra suốt 49 ngày liền, để cho nó được siêu thoát mà đầu thai lại kiếp người. Nghe lời Sư cô Hoàng giải thích đúng lý, chị ấy liền để cho bác sĩ trục thai ra. Bắt đầu từ lúc đó, Sư cô Hoàng tụng kinh cầu siêu hằng ngày, cho đến 49 ngày mới hết.

Sư cô Hoàng nói với mọi người, việc làm trục thai như vậy không phải là sát sinh, mà là việc độ nhân. Độ cho mẹ được lành bịnh khỏi chết, khỏi bị nuôi con quái thai, độ cho vong linh thai kia được siêu thoát mà tái sinh trở lại kiếp người, sau này hoàn hảo hơn.

Thời gian đang ở trong trại tỵ nạn như vậy, gặp mùa Phật đản, Sư cô Hoàng tổ chức lễ Phật đản, mùa Vu Lan tổ chức lễ Vu Lan gắn hoa hồng cho đồng bào Phật tử trong và ngoài trại vào tham dự.

Bên cạnh các việc lặt vặt giúp đồng bào trong đời sống, Sư cô Hoàng còn thông dịch cho Hồng Thập Tự khi đồng bào ta đến khám sức khỏe và trị các thứ bịnh trước khi được Ủy Ban Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc xét hồ sơ để cho đi định cư ở nước thứ ba. Nhờ biết chữ Nho (chữ Hán) liền viết ra giấy sau khi hiểu ý bác sĩ, y tá nói gì và có khi chen thêm vài tiếng Nhật mà cô đã học nhanh từ lúc mới vào trại, tiếp xúc với các giới Nhật và các sinh viên Việt đang học ở Nhật.

 

SƯ CÔ HOÀNG ĐƯỢC CÁC GIỚI QUAN TÂM GIÚP ĐỠ

Người đại diện cho chính phủ Nhật về việc tỵ nạn, đó là ông Mi-Sê, ông ấy rất tôn kính và thân thiện với Sư cô Hoàng, cho nên bất cứ việc gì liên quan đến người Việt tỵ nạn đều nhờ cô Hoàng lo hết. Nhờ vậy mà hồ sơ của cô Hoàng nằm bên đi định cư ở Pháp, được ông Mi-Sê chọn lại và đề nghị ủy ban duyệt xét cho đi Mỹ một cách cấp thời, trước khi trao cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Chứ hồ sơ một khi đã chọn cho đi định cư ở Pháp, Anh, Na Uy rồi, thì khó mà được Hoa Kỳ nhận cho qua Mỹ.

Trước khi lấy hồ sơ cô Hoàng lại và vận động cho đi Mỹ, ông Mi-Sê nói với cô Hoàng là đừng đi Pháp vì nước Pháp nghèo, kinh tế khó khăn, vả lại đang có nhiều cán bộ cộng sản Việt Nam bên đó. Nói xong, ông Mi-Sê còn cho cô Hoàng được biết là ông đã vận động với ủy ban cho hồ sơ cô đi Mỹ rồi.

Trong lúc ở Nhật, Sư cô Hoàng được đứa con gái của ông Tân Tăng trụ trì ngôi chùa ở Tokyo chở cho đi thăm cảnh để trao đổi về học hỏi. Cô ấy học tiếng Anh với cô Hoàng, cô Hoàng học tiếng Nhật với cô ấy. Nhờ đó việc thông dịch được pha trộn hai thứ tiếng Anh, Nhật.

Người Việt tại Nhật lúc đó có ông Trần Đức Giang xuất gia tu hành tại một chùa thuộc phái Tào Động. Ông Giang đến gặp ông SINOHARA, yêu cầu ông ấy để cho Sư cô Hoàng ở lại Nhật. Sau đó ông SINOHARA đến gặp cô Hoàng và nói rằng ; sư phụ ổng muốn mời Sư cô Hoàng ở lại Nhật cỡ 3 tháng để học tiếng Nhật. Học xong, cô Hoàng sẽ được ông Hòa Thượng, là sư phụ của ông SINOHARA mời cô Hoàng làm trụ trì tại một ngôi chùa lớn. Ông Hòa Thượng đó hứa với ông Giang sẽ cho toàn thể người Việt đi cùng chuyến tàu với cô Hoàng được ở lại Nhật sinh sống làm ăn. Lần sau, ông Giang lại đến mời cô Hoàng ở lại Nhật lần nữa. Sư cô Hoàng nói rằng; chưa có thể trả lời được. Một vài tuần lễ sau, Hòa Thượng Thích Trí Thủ từ Việt Nam qua Nhật để dự đại hội Phật Giáo thế giới. Sư cô Hoàng liền đến thăm. Hòa Thượng Trí Thủ mừng lắm. Thế là thầy trò nói hết Phật sự của Tăng Ni hiện tại và mai sau ở xứ mình, xứ người. Cuối cùng Hòa Thượng bảo Sư cô Hoàng nên định cư ở Mỹ, vì nơi đó có nhiều Phật tử Việt Nam hơn đâu hết. Ngài xác định vai trò của Tăng Ni với cô Hoàng: ”Con cần phải đi theo người Việt, gần gũi với họ để chăm sóc đời sống tâm linh cho họ về việc tu niệm mà giải thoát sinh tử, luân hồi. Con không cần ở lại Nhật, vì Phật giáo Nhật đã được đầy đủ hết cả rồi. Số Phật tử Việt Nam ở Nhật, họ được sinh hoạt chín chắn theo với Phật tử Nhật rồi. Ở các nước Âu Mỹ, Phật giáo còn non nớt, cho nên con phải qua đó để hướng dẫn đồng bào Phật tử Việt Nam và cho cả người Mỹ nữa trên bước đường tu tập.

 

CON THUYỀN BÁT NHÃ ĐẾN HOA KỲ

Sư cô Minh Hoàng đã đến định cư tại Mỹ vào giữa năm 1981. Đến Mỹ, Sư cô Hoàng biết rõ Mỹ là một quốc gia có nền văn minh khoa học, kỹ thuật cao nhất thế giới, cho nên chính phủ Mỹ chủ trương đào tạo nhân tài chuyên nghiệp, chứ không phải chọn nhân tài như Việt Nam xưa và nay. Vì thế Sư cô Hoàng khởi tâm định đi học ít nhất mười năm để lấy PhD chuyên ngành giáo dục, sử học hay xã hội, nhưng sau nhiều ngày tư duy, thấy được người trưởng tử Như Lai không phải vì bằng cấp, mà vì trên cầu thành Phật, dưới hóa độ chúng sanh theo sở học Phật của mình, nếu không nói là chuyên lo đọc lại kinh văn trong tam tạng giáo điển, tạo dựng ngôi Tam bảo, là nơi cửu trụ và phát triển chánh pháp, là nền tảng đem dòng suối pháp tưới mát vào lòng người Phật tử Việt Nam ở xứ người, được ấm lòng, che chở hồn dân tộc, đúng như lời Hòa Thượng Trí Thủ giáo chỉ cho Sư cô Hoàng, khi ngài gặp Sư cô Hoàng tại Nhật nhân dịp qua dự đại hội Phật giáo quốc tế. Đó là tâm thức có sự hiểu biết rộng lớn, trong đó y giáo phụng hành lời dặn dò rất tâm huyết của bậc minh sư mình, nên chi cô Hoàng dừng lại ý tưởng lấy bằng PhD, quyết tâm xông pha dấn thân tạo dựng ngôi Tam bảo để hóa độ cho đồng bào Phật tử, là đối tượng cần phải độ, chứ không làm cái việc đào tạo Tăng tài về Ni tại xứ người, vì rất là khó thực hiện, chứ không phải là thiếu khả năng. Điển hình rõ nét, tại hải ngoại này, đã và đang có một số tu viện, nhưng chỉ có nhất sư nhất viện, hành đạo bằng nghề thầy cúng cầu siêu. Do vậy, khi đến Mỹ, cô Hoàng đến thăm Hòa Thượng Thích Mãn Giác, được Hòa Thượng giới thiệu về chùa Di Đà của Hòa Thượng Thích Thiên Ân sẽ thành lập Phật Học Ni Viện. Chùa đang có một vài Sư cô đang ở, trong đó có bạn cùng lớp với cô Hoàng, đó là Sư cô Diệu Điền. Mặc dù Hòa Thượng Mãn Giác chưa có lời mời Sư cô Hoàng làm giám viện trông coi việc đào tạo Tăng tài bên Ni, nhưng Sư cô Hoàng biết thâm ý của Hòa Thượng Mãn Giác sẽ có văn thư mời sau, nếu cô Hoàng hưởng ứng. Sư cô Hoàng liền tác bạch :

- Kính bạch Hòa Thượng, con thấy con có thể làm được theo lời Hòa Thượng dạy bảo, nhưng chùa Di Đà từ trước đến nay đã như vậy rồi, mà con đến, con đổi hẳn đi nếp sống sinh hoạt cũ, thay vào đó nhiều thứ mới, thì sẽ làm cho các cô buồn lòng.

Hòa Thượng Mãn Giác nói :

- Tại chùa Di Đà, thầy chưa tấn phong ai cả.

- Kính bạch Hòa Thượng, mặc dù Hòa Thượng chưa tấn phong ai hết, khi chùa cần thì có họ, Hòa Thượng phải nghĩ về điều đó, cho nên con không thể thực hiện được việc thành lập Phật Học Ni Viện.

Hòa Thượng Mãn Giác tiếp lời:

- Thầy biết điều đó, cô vốn có sự hiểu biết về văn hóa, có bằng cấp Phật Học và quốc gia ở ngành sư phạm và lâu trong nghề dạy học, mà không mở được Phật Học Ni Viện ở đây, thì đáng tiếc cho khả năng của cô.

- Bạch Hòa Thượng, cho con một tuần suy nghĩ đã.

Mới có 3 ngày, Sư cô Hoàng đã gọi phone cho Hòa Thượng nói thẳng là không thể làm công việc thành lập Phật Học Ni Viện ở chùa Di Đà, bởi vì các Sư cô đang ở ngon lành, tự dưng đổi ra Phật Học Viện, làm cho mất tình huynh đệ, rồi làm chức vụ viện trưởng, là cấp chỉ huy huynh đệ, thấy khó coi, cho nên Sư cô Hoàng từ chối là đúng.

 

ĐÔI CHÂN BỒ ĐỀ ĐI TRONG PHIỀN NÃO

Sư cô Minh Hoàng về thủ phủ Cali Sacramento, thuê một phòng mà ba huynh đệ cùng ở. Ba huynh đệ quyết chí đi học tại College, để được nói và hiểu thêm Anh ngữ cho việc sinh hoạt trong xã hội Mỹ, cho nên không bắt điện thoại, sống âm thầm suốt ba năm học ở College. Lúc đó thầy trụ trì ở chùa Kim Quang là người đến trước được có cơ sở do Phật tử kiến tạo gọi là chùa hội. Thầy tìm đến ba Sư cô, nhã ý bắt buộc các cô phải chịu dưới sự điều khiển của thầy, nếu về ở chùa Kim Quang hay không, đều phải phục tùng theo sự chỉ huy giáo vụ của thầy.

Thật sự lúc ở Việt Nam, vị thầy ấy chưa có chùa, chưa có đệ tử, trong khi đó cô Hoàng đã có chùa, đã làm trụ trì, đã có đệ tử xuất gia, tại gia. Chẳng lẽ qua xứ Mỹ này lại ở chung chùa với thầy, coi sao được. Nhất hạng là lời của Phật tử khi mời thỉnh, thì họ sử dụng lời thỉnh như thế nào! Chẳng hạn họ nói: ”Chúng con đê đầu đãnh lễ kính mời quý thầy, quý Sư cô vào hậu liêu để nghỉ ngơi”, như thế, nghe có đặng không? Dĩ nhiên không đặng, do đó Sư cô Hoàng dứt khoát không vâng lời làm theo. Vì thế mà Sư cô Hoàng bị ông thầy trụ trì chùa Kim Quang tìm đủ cách hạ bệ cô Hoàng.

Đang ở tại Apartment chung cư, thì có mấy Phật tử đến thăm và nói rằng: các Sư cô ở đây nguy hiểm lắm đó, vì chung quanh đây toàn là Mỹ đen không thôi. Sư cô Hoàng trả lời: Mỹ đen mặc kệ họ, họ sống theo lối sống của họ, mình sinh hoạt theo lối sống người Việt của mình, mình đừng có hành động, lời nói gì có tính cách khiêu khích với họ, thì mới sợ bị họ đối lại. Mình cứ sống và đi học trong an bình và hơn nữa mình nhớ lo niệm Phật cầu gia hộ, thì đâu sợ gì chướng duyên!

Lần sau nữa, mấy ông Phật tử lại đến thăm và nhã ý muốn mấy Sư cô ra mướn nhà để làm thành chùa mà hướng dẫn Phật tử tu học. Sư cô Hoàng quyết định ở chung cư, vì chưa thuận duyên ra mở chùa.

Thấy Sư cô Hoàng cứng rắn quá, mới cho các bà đến, trước thăm, sau nhã ý mời Sư cô ra mướn nhà làm chùa để hướng dẫn Phật tử tu học.

Khi mấy Sư cô học về, thấy mười mấy bà ngồi sẵn ở Parking để chờ cô Hoàng học về mà thưa về việc thuê nhà làm chùa, gọi là cải gia chi tự. Bởi vì người Phật tử Việt Nam đến định cư ở các nước hải ngoại, nói riêng ở Mỹ lúc đó (1980-1981), là giai đoạn chưa có chùa Phật giáo Việt Nam nhiều, chỉ có Tăng Ni, nhưng đều ở trong chung cư để đi học, hoặc không đi học, cứ ở vậy. Cho nên Phật tử, họ rất khao khát được có chùa, có Tăng Ni trong đo, để họ được có một đời sống đạo pháp ở tâm linh.

 

CHƯ PHẬT ĐỒNG Ý CHO LẬP CHÙA

Trước lòng khao khát được có chùa của hàng Phật tử, Sư cô Hoàng không cầm lòng được, bèn xin Phật, Bồ Tát Quán Thế Âm giáo chỉ cho quyết định, bỏ trong chuông,  mới vừa thảy lên tấm giấy mang mấy chữ “Đồng ý ra lập chùa để hoằng hóa độ sanh”, liền vọt lên cao, giống như búng vậy. Thế là Sư cô Hoàng cầm miếng giấy Phật cho phép đó đi tạo lập chùa để hoằng pháp độ sanh, xếp bút nghiên theo việc mõ chuông, kinh tạng, không học nữa, bỏ dở việc học.

Giai đoạn đầu tiên khởi móng làm chùa, cho tới lúc đang xây cất, vị thầy trụ trì chùa Kim Quang ra sức chống phá công việc làm chùa của các huynh đệ Sư cô Minh Hoàng. Với người nam, một khi mà quyết tâm đánh phá ai đó, họ có nhiều chiêu độc ác, không có bút mực nào kể cho hết được. Mặc dù thế, Sư cô Hoàng vẫn nhẫn nhục, an tâm niệm Phật cầu nguyện, tiến bước trên đường xây dựng ngôi Tam Bảo trước nhiều lời, nhiều cách đánh phá của vị thầy trụ trì chùa Kim Quang.

Suốt tám năm trời, các huynh đệ Sư cô Hoàng còng lưng dưới ánh sáng thiêu đốt mùa hè, giá lạnh mùa đông thật tái tê của xứ Sacramento.

Trong lúc làm các việc cho ngôi chùa chưa hoàn thành, các Sư cô mướn một căn nhà ba phòng có chu vi cũng khá rộng, có sân sau, sân trước, cho nên để một cô giữ trẻ. Chừng đó, các Phật tử đem con đến, cả thảy tám em, mỗi em trả cho Sư cô bốn trăm mỗi tháng. Nhờ đó mà các Sư cô trang trải cho bao nhiêu việc của thuở ban đầu làm chùa, còn bản thân của các cô thì cơm tương, rau luộc, ngày hai bữa. Có lúc chỉ ăn mì gói, một gói bẻ hai cho mỗi người. Về y áo, các cô mặc hoài những y áo mang theo suốt mấy năm liền khi giáp mặt xuống đất, đưa lưng lên trời quần thảo với đất đá, đào xới gốc cây từ mờ sáng, cho tới tối lúc nửa đêm mới vào ngủ. Ngủ mới vài giờ là thức dậy công phu khuya, rồi ra làm việc cất chùa.

Số tiền đầu, tiền giữ trẻ được có, lấy ra một phần nhỏ xíu cho các việc sinh hoạt của các huynh đệ, còn lại gởi về cho Sư bà.

Những đứa trẻ được gởi đến chùa, hơn một nửa là con cháu của Phật tử Việt Nam, còn lại là của các gia đình Thiên Chúa giáo, Tin Lành. Lúc đầu mới tới, chúng ngơ ngác, phá phách, khóc la om sòm, dần dần đứa nào cũng ngoan ngoãn, hiền lành, lễ phép, biết vòng tay vâng lời, cúi đầu chào các cô, trong đó có một cháu gái người Việt mới hai tuổi, nhỏ con, rất đẹp một cách kỳ lạ, nó thường đưa mắt nhìn chăm bẵm Sư cô Hoàng rồi nói “I love you”, có đứa nói “con chào Sư cô, con thương Sư cô lắm”. Khi đến, chúng vui mừng, đứa nào cũng chạy lại ôm Sư cô, khi về chúng tỏ ra trạng thái trìu mến, có em nói “good bye cô”, có đứa về đến nhà, bắt bố mẹ gọi phone để cho nó nói chuyện với Sư cô (call Sư cô for me). Tại nhà nó, nó bắt cả nhà chắp tay niệm Phật trước khi ăn. Lúc đầu tại chùa, chúng ngạc nhiên khi các Sư cô bắt chúng chắp tay niệm Phật trước khi ăn. Chúng liền nói ”what’s mean”. Sau đó chúng quen dần, mỗi lần ngồi vào bàn ăn, chúng tự động chắp tay, có đứa quên, được đứa bên cạnh nắm tay lên ngực, tất cả niệm Phật thật đều đặn.

Có một em trai Việt Nam mới mười một tháng, mẹ nó chết do bác sĩ cho uống lộn thuốc. Thay vì cho uống thuốc mệt tim lại cho uống thuốc đau bụng. Do vậy cha nó đem đến cho các Sư cô nuôi, vì bận rộn công việc làm ăn không nuôi được. Các Sư cô nuôi dùm, không lấy tiền. Khi em đó lớn lên mười mấy tuổi, tuổi có khả năng lo lấy mọi việc trong nhà, các Sư cô giao nó về ở lại với cha nó.

Cha cậu bé đó là một Phật tử, nên có tấm lòng mong đợi cơ sở bảo hiểm của ông bác sĩ cho uống lộn thuốc sẽ đền bù một số tiền lớn, mà trích ra để cúng dường các Sư cô cho việc xây dựng chùa, nhưng cuối cùng chẳng được bao nhiêu, chỉ được trăm ngàn, trong đó luật sư đã chia một nửa. Mặc dù số tiền còn ít, ông ấy vẫn đến xin cúng ba chục ngàn để xây chùa, Sư cô Hoàng rất cảm động không lấy, chỉ xin mượn năm ngàn xây chùa, sau này sẽ trả lại.

Trong thời gian vừa lao động nhiều việc ở mảnh đất để chuẩn bị xây chùa, lại vừa giữ trẻ, nuôi đứa bé mười một tháng, thật là nhọc nhằn, vất vả, cực khổ ở bản thân, chưa từng thấy, nhưng các Sư cô vẫn vui tươi, tịnh lạc ở tâm hồn.

Với tình đồng đạo, cùng đệ tử Phật, chung lý tưởng hoằng truyền chánh pháp Như Lai, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên và chư Tăng, Ni bên Giáo Hội Phật Giáo Khất Sĩ Việt Nam đến thăm và khuyến khích các Sư cô xây chùa cho mau, mà hoằng hóa độ sanh Phật tử người Việt tại xứ người. Trong khi đó, cùng là một bậc Tỳ kheo cùng cà sa giáo hội Bắc tông, thầy trụ trì chùa Kim Quang lại khởi tâm đố kỵ ra lời, rêu rao rằng: không phải là Sư cô, chẳng phải là Ni, không gì cả, chỉ là những người đi chiếm đất. Rồi lại cho rằng: nơi ấy là chỗ cộng sản Việt Nam đang  đặc công vào cộng đồng người Việt. Thời gian ấy, chủ tịch Hiệp Hội Người Việt tỵ nạn là ông cựu đại tá Liễu. Ông Liễu dựa theo lời ông Sư trụ trì chùa Kim Quang nói các Sư cô đang xây chùa đó là tổ chức của cộng sản. Vì thế, Sư cô Hoàng và các Sư cô đâu có dám thành lập Gia Đình Phật Tử. Mặc dù thế, các con em Phật tử ở lứa tuổi ấu niên, thiếu niên, thanh niên nam nữ về ngôi chùa tạm, sinh hoạt với các Sư cô rất đông, cả trăm em, vào ngày chủ nhật, trong đó các em đào gốc cây, nạy đá tản, bang đất, hốt cỏ, vân vân… Tuy nhiên, Sư cô Hoàng phải đặt tên cho tập thể thanh thiếu niên Phật tử ấy là ”LIÊN ĐOÀN SINH VIÊN THANH NIÊN PHẬT TỬ”.

Để được có thêm chút ít tiền phụ vào ngân quỹ xây dựng chùa, cứ đến giờ bãi sở, các Sư cô đến các tòa nhà làm công việc quét dọn, lau chùi bàn ghế, restroom. Sau đó về lại chùa, nai nịt ra vùng đất mà cuốc, đào gốc cây, bang đất, nạy đá, khiêng cỏ rác, lấp hố sâu, vân vân… từ chạng vạng cho đến đỏ đèn và gần khuya mới vào an nghỉ. Giấc ngủ chưa tròn, đã thức dậy công phu, tụng niệm kinh chú. Sáng ra, mỗi cô ăn nửa gói mì bằng nước sôi đổ vào tô, đậy nắp lại. Ăn xong lại ra hiện trường lao động làm đất xây chùa. Cứ như thế, xoay vần như con thoi ngày qua tháng lại suốt mấy năm trời.

Chỗ đất làm chùa, là một vùng trũng, nên hễ có trời mưa nhỏ nước đọng thành vũng, mưa lớn như ao, lớn nữa như hồ, nước tràn lênh láng vào nhà. Dưới trũng có nhiều loại cây lớn, nhỏ, cỏ hoang, đá cục, đá tảng…, cần phải thanh toán sạch hết tất cả, sau đó mới tính đến chuyện làm sao cho được mặt bằng.

 

CHƯ BỒ TÁT TÙNG ĐỊA DÕNG XUẤT GIA HỘ

Vừa dọn sạch xong, đang còn mỏi mệt, các Sư cô khởi lòng bâng khuâng làm sao được có đất làm đầy chỗ trũng để có mặt bằng xây chùa. Đang suy tư về việc ấy, thì liền có một toán công chánh đem xe đến đào hào sâu gần đó để đặt ống nước. Họ qua chùa hỏi các Sư cô có cần đất lấp chỗ trũng không. Cần bao nhiêu họ đổ cho bấy nhiêu. Các Sư cô vui mừng bằng lòng, thế là qua ba ngày, chỗ trũng đã thành gò. Rồi họ đem xe ban đất đến ban thật bằng phẳng. Những người theo đạo Thiên Chúa và Tin Lành chung quanh đó thấy vậy, họ sanh lòng ganh ghét, tỵ hiềm, liền đem máy chụp hình qua chụp, rồi làm đơn khiếu nại lên county, nhưng họ bị thất bại. Vì  cơ quan công chánh là chủ quyền đem đất đi đổ. Sở dĩ họ kiện tụng, là vì họ xin các ông tài xế cho họ đất, nhưng các ông tài xế làm ngơ, cứ đem đổ cho các Sư cô, nên họ sanh lòng bực tức và kỳ thị.

Trước tình hình chưa bị hàng xóm kỳ thị, công chánh đã hứa sẽ chăm sóc, bảo đảm cho các Sư cô về nền chùa. Cũng như trước đó cả năm trời, Sư cô Hoàng đã làm đơn lên county xin xây chùa, được county duyệt xét, chấp thuận, cấp cho giấy phép được xây chùa, không cần ra “hearing” hàng xóm.

Sau lễ đặt đá xong, và những công việc xây chùa bắt đầu, như đào móng, vân vân… tại vùng đất mới được bằng phẳng, dân Thiên Chúa và Tin Lành chung quanh lại kéo nhau lên county khiếu nại lần nữa. Lần thứ hai này, họ bịa đặt ra là nhìn thấy các Sư cô chạy phía sau vườn nhà họ. County hỏi chạy vào giờ nào, họ nói lúc khuya. Hỏi chạy mùa nào, họ nói mùa đông. County hỏi, khi các Sư cô chạy như vậy, cửa sổ nhà quý vị mở hay đóng, họ nói đóng. County nói, quý vị đóng cửa, làm sao quý vị thấy các Sư cô chạy ở ngoài. Họ trả lời, là nghe tiếng chân chạy. Thế là họ bị county bác bỏ, cho là bịa đặt, có ý đồ kỳ thị.

 

QUA KHỎI CÁC CHƯỚNG NGẠI NGOẠI ĐẠO

Cuối cùng county ra quyết định các Sư cô được hợp pháp sinh hoạt, bên khiếu nại bị thua. Tuy vậy, county bảo họ, nếu họ muốn khiếu nại nữa thì cho thời gian 10 ngày. Sau đó mở phiên tòa khác, mọi chi phí họ phải tự lo trả tiền. County còn cho biết sẽ phê “no”, không phê “yes” và cho gia hạn hai năm kế tiếp, muốn kiện nữa thì kiện tiếp. Qua 10 ngày họ nín luôn, không dám mở phiên tòa. Rồi hai năm trôi qua cũng im luôn. Chẳng những không ai kiện tụng khiếu nại, mà county lại cấp giấy phép cho các Sư cô được sinh hoạt Phật sự vĩnh viễn, không còn “renewal” hai năm một lần. Được biết rõ như vậy, là do chính quyền địa phương mở ra cuộc họp về chuyện các Sư cô xây chùa. Khi họp, họ được biết county đã chứng thực và cấp giấy phép sinh hoạt vĩnh viễn rồi. Chừng đó, tất cả nhân viên chính quyền địa phương đều đồng ý cho thông qua. Từ đó công việc xây chùa được danh chính ngôn thuận.

 

NGÔI TAM BẢO HIỆN HỮU

Biết được có giấy phép xây chùa, các Sư cô thấy không gian đất trời vốn đã rộng bao la, nay càng rộng hơn và nghe pháp âm của chư vị Bồ Tát Tùng Địa Dõng Xuất nơi thủ phủ Cali cất cao lời mời thỉnh các cô mau ra quân, bắt tay vào công việc xây dựng một Phật quốc độ cho mình, cho chúng sanh. Các Sư cô liền dốc hết thần lực tinh tấn thân tâm, nhẫn nhục thiền định ý tưởng, mà xông pha, dấn thân lao tác nhiều công việc lớn, nhỏ khác nhau không hở tay, luôn quần quật từ sáng sớm tinh sương lúc rạng đông, cho đến chạng vạng màn đêm phủ xuống, vẫn còn làm, đến lúc nghe sương đêm thấm trên vai áo vải nâu sồng, mới vào ăn uống, nghỉ ngơi và ngủ.

Bản thân áo vải nâu sồng của các cô cứ hiện hữu ngay thực tại ở công trường xây cất, bất cứ giờ giấc nào cũng thấy các cô ở đó cúi mặt xuống đất, đưa lưng lên trời, hai tay đào xới, khi thì vai mang, tay xách các vật, lúc thì khuân vác tới lui một cách bận rộn, làm cho người  bản xứ đi qua đó lúc sáng sớm, trưa, xế chiều và tối đều thấy các cô làm việc một cách tích cực, cho đến nỗi họ phải đến tận nơi nói lời khen ngợi chung và nhìn Sư cô Hoàng nói cô này là “super lady”. Trong số người Mỹ nhìn thấy và nói “super lady” đó, có ông chủ hãng DND. Cho nên ông khởi lòng mong muốn được có bà vợ Việt Nam. Sau đó ông nhờ người đàn ông Việt Nam cùng sở với ông đi tìm dùm cho ông một bà vợ Việt, nhưng không tìm được. Ông bèn kết hôn với một phụ nữ Philippine. Bà này không hiền lành, đã ăn xài hết tiền của ông. Thật là tội cho ông, vì ông cứ tưởng rằng đàn bà Á Châu ai cũng hiền, cũng chịu khó, nên chi ông đã lầm to và đau khổ.  Sau này ông ta mới biết được đàn bà Việt Nam, đa số hiền lành và đảm đang, nhưng phải là người theo đạo Phật, mới có đạo đức, hiền lành, đôn hậu, đảm đang. Do đó ông ta đến nhờ các Sư cô giới thiệu cho ông một nữ Phật tử. Sư cô Hoàng trả lời: những Phật tử đa số lớn tuổi, họ đã lập gia đình, còn lại thì quá nhỏ ở tuổi thiếu niên đang đi học. Hơn nữa, người xuất gia không thể làm chuyện mai mối.

 

SƯ CÔ HOÀNG ĐƯỢC BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN HÌNH PHỎNG VẤN

Lúc bấy giờ trong cọâng đồng người Việt tại Sacramento ai cũng hết lòng cảm phục đức tính kiên nhẫn, tinh tấn tích cực làm việc bằng chân tay của các Sư cô. Có lẽ do vậy, mà tờ báo Sacramento Bee đến phỏng vấn Sư cô Minh Hoàng. Trước khi đến xin phỏng vấn, họ nhờ cô Mai Phạm làm ở đài truyền hình số 10 dẫn họ đến gặp Sư cô Hoàng. Sư cô Hoàng không đồng ý cho phỏng vấn, bởi vì Sư cô bận việc lắm, xin hẹn tháng sau. Tháng sau, còn vài ngày nữa, cô Hoàng từ chối luôn. Họ liền hỏi lý do vì sao không cho họ phỏng vấn. Sư cô Hoàng trả lời rằng, số người Việt tại đây có nhiều tôn giáo, Tin Lành, Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và Phật giáo, thì tại sao đột nhiên phỏng vấn một mình Sư cô. Họ nghe Sư cô Hoàng nói như vậy, tức thì họ qua chùa Kim Quang phỏng vấn thầy trụ trì Thích Thiện Trì, qua nhà thờ Tin Lành, Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Mỗi nơi như vậy họ phỏng vấn 45 phút. Sau đó, những người trong tờ báo Sacramento Bee đến phỏng vấn Sư cô Hoàng từ 11 giờ a.m. cho đến 6 giờ p.m. Họ hỏi nhiều chuyện về thực tại rồi quá khứ qua hành trình đi tu, học vấn, văn hóa, chức vị, từ thiện xã hội, phụng sự đạo pháp, nhất là sau 30.4.1975. Cuộc phỏng vấn dài hơn cuộc phỏng vấn của những nơi khác. Hôm sau họ lại đến phỏng vấn cô Hoàng một lần nữa vào lúc 5 giờ p.m., họ lại quay phim và chụp nhiều hình. Sau đó họ có gởi hình lại tặng cô Hoàng. Cũng thời gian đó, họ đi chụp hình về sự sinh hoạt cộng đồng người Việt, như ca hát, vui chơi, nhảy đầm, v.v… Tất cả hình sinh hoạt của cộng đồng Việt đều đăng trên tuần báo Sacramento Bee, trong đó có hình Sư cô Hoàng đang làm việc cực nhọc ở vùng đất mới để xây chùa. Nhờ đó mà hầu hết người Mỹ ở thủ phủ Cali biết đến chùa, biết đến các Sư cô, biết các sinh hoạt của Phật giáo. Có nhiều người Mỹ đến xin quy y với Sư cô Hoàng, trong đó có một ông luật sư. Họ thường về chùa tu tập.

 

SƯ CÔ HOÀNG ĐƯỢC QUÝ NHƠN GIÚP ĐỠ

Trong lúc xây dựng chùa, có nhiều hồ sơ, giấy tờ bằng tiếng Anh, Sư cô Hoàng không biết làm sao, Sư cô liền cầu nguyện lên Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm xin gia hộ. Tức thì sau đó có một ông tên là Đỗ Đức Tiến, đậu tiến sĩ, làm việc tại Mỹ lâu năm. Một hôm nọ, ông Tiến tự nhiên đến gõ cửa, gặp cô Hoàng, ông ta liền  “A Di Đà Phật, bạch sư thầy, con là Tiến, con đang làm việc ở city, cơ quan chính phủ. Bây giờ con bị thất nghiệp rồi, do con bốp tai người manager, nên bị city cho nghỉ việc”. Cô Hoàng hỏi vì sao lại bốp tai ông ấy. Ông Tiến cho biết là ông làm việc có hơi sai một tý, mà người manager dám cả gan nói  “người Việt Nam mày làm như thế đó hả”. Trong lúc nghỉ việc và đi kiện, ông đến hỏi Sư cô có cần ông giúp về việc giấy tờ, ông sẵn sàng giúp cho. Sư cô Hoàng đem hết hồ sơ, nhiều thứ giấy tờ làm chùa ra, giao cho ông Tiến. Nhờ đó mà suốt thời gian làm chùa hai năm trời, mọi việc được hanh thông. Giữa thời gian xây dựng ngôi Tam Bảo cũng sắp hoàn tất, thì việc kiện tụng của ông Tiến được kết thúc. Ông Tiến thắng kiện, được county bồi hoàn số tiền lương hai năm ông không đi làm và mời ông trở lại làm việc cho city. Qua đây cho ta thấy rằng, làm việc cho Tam Bảo hết lòng, tận lực, là được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm cho được may mắn. Hành động đánh người, ai cũng nói ông Tiến sẽ thua kiện do ông bị lỗi, nhưng ông lại thắng kiện.

Khi được giấy phép làm chùa, chẳng may ngôi chùa nằm ở ngay giữa đường bay lên, xuống của máy bay B52, cho nên có lúc đang tụng niệm, chỉ nghe tiếng rú của phản lực cơ B52 cất cánh, hạ cánh. Không biết cách nào để tránh khỏi âm thanh chát chúa của B52. Ông Tiến liền vào tận trong phi trường gặp vị chỉ huy trưởng phi trường. Ông chỉ huy trưởng phi trường hứa sẽ giúp đỡ cho bằng nhiều cách, trong đó có thể cơ sở phi trường mua lại chùa với số tiền lớn để cho các Sư cô đi mua đất chỗ khác mà làm chùa, vì phi trường có trước, chùa có sau, chỉ có cách đó thôi. Nghe vậy, các Sư cô nghĩ lại việc xây dựng ngôi Tam Bảo rất là cực nhọc bản thân, nay gần hoàn thành, lại có cơ dời đi. Các Sư cô lo lắng lắm. Thôi thì cứ niệm Phật, Bồ Tát Quán Thế Âm, cầu xin quý ngài gia hộ cho. Sau đó không lâu, họ gởi giấy báo đến cho Sư cô Hoàng biết phi trường B52 sẽ dời về Florida theo kế hoạch mới của chính phủ Hoa Kỳ. Qua đó cho ta thấy được sự mầu nhiệm trong việc hết lòng niệm Phật cầu nguyện về việc gì, đều được có kết quả.

Vai trò của người xuất gia Tăng, Ni, là đem dòng suối pháp tươi mát vào thế gian, để cho chúng sanh ở bất cứ nơi đâu cũng được tắm mát trong dòng suối pháp giải thoát, là việc làm chung, không riêng bên Ni, bên Tăng. Ai cũng phải có trách nhiệm đó, không thể ngăn cản Phật sự của nhau, phải đoàn kết cổ vũ nhau, khuyến khích nhau, tán thán công đức của nhau, vận động đồng bào Phật tử đến cúng dường, giúp đỡ vị Tăng, Ni nào ở bước đầu xây dựng ngôi Tam Bảo bị thiếu thốn phương tiện vật chất, vân vân… Đó mới đích thực là bậc chân tu, là trưởng tử Như Lai. Thì, tại sao, Thượng Tọa Thích Thiện Trì trụ trì chùa Kim Quang lại tìm đủ cách rất độc ác ngăn chặn công việc xây dựng ngôi Tam Bảo của Sư cô Minh Hoàng, đánh phá Phật sự hoằng hóa độ sanh của Sư cô Hoàng. Cho nên thầy đã nhận chịu hình phạt từ toà án nhân quả nơi tâm thầy phạt thầy ngồi xe lăn, khổ thân, khổ tâm, rồi qua đời.

 

MƯU ĐỒ CỦA NHỮNG KẺ ÁC ĐÃ THẤT BẠI

Trước hiện tình thầy Thiện Trì tìm đủ cách đánh phá, Sư cô Hoàng rất ngạc nhiên, lấy làm lạ rằng: thầy Thiện Trì với Sư cô Hoàng cùng thờ một Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, cùng chiếc áo cà sa, cùng huynh đệ trong đại gia đình Phật giáo, cùng xuất gia, Tỳ kheo, cùng đầu trọc với nhau, sao thầy lại nhẫn tâm đánh phá Sư cô bằng nhiều chiêu độc ác như vậy. Vì thế Sư cô Hoàng mời Thượng Tọa Thích Minh Đạt, Thượng Tọa (nay là Hòa Thượng) Thích Tịnh Từ về chùa, để Sư cô hỏi lý do vì sao. Sư cô thưa :

- Thưa các thầy, tại Sacramento này, chỉ có hai cái đầu trọc, mà thầy Thiện Trì không hòa được, làm sao bảo Phật tử hòa với nhau. Nếu Minh Hoàng có lỗi gì đó, cứ nói. Thậm chí đánh đòn Minh Hoàng, đóng cửa lại đánh. Khi ra ngoài làm việc độ tha cho Phật tử, thì đừng nên đánh phá nhau bằng lời lẽ bán rao xấu ác, bịa đặt, chụp mũ cộng sản...

Sư cô Hoàng nói trước mặt quý thầy Minh Đạt, Tịnh Từ rằng: Minh Hoàng là người phụ nữ có miệng lép xép, thì thầy Thiện Trì không thể lép xép bằng Minh Hoàng đâu, nhưng mà Minh Hoàng không bao giờ lép xép. Trong khi thầy Thiện Trì là người xuất gia, đường đường một đấng Tăng già, tại sao thầy lại lép xép, nói năng không chánh pháp, có nhiều hành động đánh phá cực kỳ tàn ác, thật không biết nói sao!

Thượng Tọa Tịnh Từ ngỏ lời với Thượng Tọa Thích Minh Đạt, là vị Yết Ma, nên tìm hiểu Sư cô Minh Hoàng có lỗi gì không?

Thầy Minh Đạt nói:

- Sư cô Minh Hoàng không có lỗi gì cả! Chẳng qua thầy Thiện Trì không chịu đối diện với cô Hoàng để tìm hiểu, lại cứ để trong lòng mà sanh ra sự hiểu lầm mà thôi.

Sau khi hai Tăng già ấy về lại bổn tự, thầy Thiện Trì vẫn tiếp tục rêu rao chuyện không có nói có, nói xấu, đánh phá công việc xây dựng ngôi Tam Bảo của Sư cô Hoàng. Ngày mà Sư cô Hoàng đi hoằng hóa độ sanh ở Chicago là ngày Thượng Tọa Thiện Trì bị ngồi xe lăn từ đó cho đến khi qua đời. Đó là kết quả của nghiệp ác khẩu do từ tâm khởi lên, mà không đem tâm sám hối, nên tội còn nguyên, tội không tiêu, tội làm cho thân bị bệnh và chết, là một quy luật nhân quả.

Với người Việt tỵ nạn cộng sản, ai cũng có tâm oán hờn và sợ cộng sản, cho nên đồng bào Phật tử Việt Nam ở Sacramento sau khi nghe thầy Thiện Trì phao lên các Sư cô đang cất chùa đó không phải là Sư cô, đó là cộng sản, ai cũng lấy làm lạ, rồi nói rằng, cộng sản ở đâu sẵn mà có mặt ở xứ Mỹ này mau vậy. Do đó số đồng bào quen biết các Sư cô, đều đến để tìm hiểu hư thật thế nào. Cho nên ngày nào cũng có nam nữ Phật tử đến các Sư cô và hỏi công việc xây chùa, trong đó có ẩn ý muốn biết sự thật về sự hiện hữu của công trình xây dựng ngôi Tam Bảo của các Sư cô, mà họ đã nghe thiên hạ ngoài Phật giáo đồn đãi là cộng sản, do nghe từ Thượng Tọa Thiện Trì là người trong đại gia đình Phật giáo nói ra. Được Sư cô Minh Hoàng tiếp chuyện, sau đó họ thở phào nhẹ nhỏm trong lòng và vui mừng, vì chỉ thấy trước mắt công việc xây chùa của các cô, những phần xây dựng cơ bản là do các kỹ sư thợ chính đảm trách, còn các phần phụ như thợ vịn, khuân vác gạch ngói, đào đất, đào rãnh, lót gạch đường đi, làm hoa sen cho hàng rào, sơn tường, sơn cửa, vân vân… đều do các cô phụ trách hết, suốt ngày lẫn đêm.

Ngôi chùa được xây cất trên hai năm mới hoàn thành. Suốt trong thời gian lao tác công việc xây dựng đó, thường có những Phật tử gốc quân đội VNCH đến thăm dò, theo dõi các Sư cô, xem có phải là người của cộng sản Việt Nam hay không. Cuối cùng, chẳng những họ tự đến mà còn đưa vợ con, quyến thuộc, bạn hữu đến chùa lễ Phật, thăm viếng, cúng dường, tụng kinh, bái sám và làm công quả Phật sự…, do sau thời gian theo dõi, điều tra các Sư cô, không thấy gì là cộng sản cả, đều là các bậc chân tu, lo việc hoằng dương chánh pháp. Vả lại được biết rõ phe ta đánh phe mình, tức là sau thời gian thầy Thiện Trì ra sức thuyết phục, bắt Sư cô Hoàng phải vâng lời tuân thủ theo sự chỉ huy độc đoán của thầy mà làm việc Phật sự, xét ra không đúng cách, Sư cô Hoàng không tuân thủ hợp tác, hành đạo riêng lẻ theo khả năng văn hóa của cô, phải cất chùa sinh hoạt theo giới luật của Tỳ kheo Ni. Tăng Ni không thể sinh hoạt chung chạ. Do vậy, thầy Thiện Trì ra sức nói xấu, bịa đặt, vu khống, chụp mũ cộng sản, quyết tâm đánh phá nhiều chiêu ác độc, ganh tỵ khi ngôi chùa được hoàn thành, Phật tử về đông tu học nghe pháp tại chùa mới của Sư cô Hoàng.

 

NGÔI TAM BẢO ĐƯỢC THÀNH TỰU VIÊN MÃN

Qua những năm dài tháng rộng cực thân xây chùa, không cực lòng, nên chi các Sư cô đã đem lại cho hàng Phật tử Việt Nam các giới được có ngôi chùa tại xứ người. Ngôi chùa không lớn, không nhỏ, nó có vóc dáng dịu dàng, nhưng vững chãi, thanh thoát, thiền vị, đúng là ngôi chùa của các Tỳ kheo Ni.

Chưa có chùa, các Sư cô chịu khổ thân để được có chùa, thì nay tiếp tục khổ thân cho các việc có chùa. Nếu không nói là những vật dụng bản thân, tâm linh tinh thần cho Phật tử Việt Nam, đều là những hình ảnh quê hương yêu dấu ngàn đời không quên, mà Sư cô Minh Hoàng ra đi đã mang theo trong tâm tư, nay có dịp thể hiện ra để phục vụ cho dân tộc ở xứ người. Đó là ngôi chùa có mái cong cong che chở hồn dân tộc, ông đại hồng chung ngân vang thức tỉnh lòng người, cái trống thúc giục lòng dân tộc nhớ về tổ quốc khi cúng tế, cái mõ, chuông đồng, lư nhang, bức hoành hoa văn, hương án thờ Phật, thờ tổ, chư vị anh linh tổ quốc, tiền nhân, ông bà tổ tiên, những lời thơ, bài ca, tiếng nhạc, vân vân… đã đang hiệu hữu nơi ngôi chùa, phải được các Sư cô chăm lo thực hiện đúng văn hóa dân tộc và đạo pháp Việt Nam.

Chưa hết, còn khổ thân dài dài, vì có khổ thân mới nên thân, tâm mới được giác ngộ chân lý vô ngã một khi bản thân trực nhận vào thực tại quán chiếu vào mọi hiện tượng hiện hữu, không thể hành đạo nơi tu viện có kín cổng, cao tường u tịch. Người hành Bồ Tát đạo phải hiệu hữu giữa cuộc đời đầy đau khổ, để lao tác đem lại các điều ích lợi cho chúng sanh trước, thì sau đó mới nói đến chuyện no lòng, đúng với lời tổ xưa đã nói: “Người tu hành, một ngày không làm việc, là ngày đó không ăn” (Nhứt nhựt bất tác, nhứt nhựt bất thực). Sư cô Minh Hoàng, vị Tỳ kheo Ni, được có trí tuệ diệu dụng (thắng trí) nên thường tư duy nhận thức về các hình ảnh văn hóa Phật giáo rất cần hiện hữu ở bất cứ nơi đâu tại cõi trần, là phương tiện dắt dẫn tâm thức người phàm phu bước vào dòng suối pháp Phật, mà tắm mát thân tâm. Từ đó con người được an vui, hết mọi ưu phiền, tan biến tật bệnh, sau nữa được giác ngộ chân lý vô ngã giải thoát của Đạo Phật. Những hình ảnh văn hóa Phật giáo quen thuộc được thấy ở các vị Tăng, Ni có kiến thức văn hóa, đã thường làm, đó là Quan Âm Các, các bài ca, nhạc Phật giáo, văn thơ dân tộc đượm màu sắc thiền vị. Chứ không phải chỉ có ngôi chùa có tiếng tụng kinh, cầu an, cầu siêu, thuyết pháp không mà thôi.

 

QUAN ÂM CÁC

Sinh mệnh sống chết của người Phật tử nói riêng, nhân loại nói chung, luôn được gắn liền với chư vị Bồ Tát quen thuộc, đó là Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Đại Hạnh Phổ Hiền và Địa Tạng Vương vân vân…

Gắn liền đời sống thực tại con người, một khi con người nhất tâm, quyết chí niệm lời cầu nguyện lên quý ngài xin được bình an, thoát khỏi tai ương bệnh tật, tức thì quý ngài hiện hữu cứu khổ.

Gắn liền bên cõi chết, một khi con người lúc sống trên đời không làm các điều ác, luôn làm các điều thiện và luôn giữ tâm hồn thanh tịnh, sẽ được quý ngài hiện hữu hướng dẫn thần thức được thấy con đường sáng về các cõi Phật.

Vị Bồ Tát gần nhất với con người, đó là Quán Thế Âm, được nhân loại biết đến hạnh nguyện Bồ Tát cứu khổ chúng sanh trên nhiều lãnh vực của ngài.

Cho nên quý vị Tăng Ni và các hàng Phật tử nào được có hạnh nguyện Bồ Tát cứu khổ con người trên nhiều lãnh vực như Bồ Tát Quán Thế Âm, đều luôn thường hằng chuyên trì hộ niệm danh hiệu ngài để cầu nguyện ngài gia hộ cho mình, cho mọi người được hanh thông các việc, thoát khỏi tai ách, khổ nạn, an vui hạnh phúc, Phật sự viên thành. Qua đây, cho ta thấy Sư cô Minh Hoàng, vị Tỳ kheo Ni, có hạnh nguyện cứu khổ như Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên suốt cả cuộc đời tu hành, phụng sự đạo pháp, dù ở hoàn cảnh nào sướng, khổ… Sư cô Hoàng luôn nhớ trì tụng Phật Mẫu Chuẩn Đề và niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Không những chỉ niệm, mà còn xây dựng ngôi viện Quán Âm Các để thờ phượng Bồ Tát Quán Thế Âm, như thờ người mẹ đẻ của mình.

 

NHỮNG HIỆN TƯỢNG MẦU NHIỆM

Công việc xây dựng Quán Âm Các, từ vật liệu, đến các việc làm giống như việc xây chùa. Từ lúc khởi công, Sư cô Hoàng và các Sư cô huynh đệ, ai cũng nhất tâm thanh tịnh vừa niệm Phật, vừa tích cực lao động mọi việc, do đó Quán Âm Các được thành tựu rất hoành tráng và thật nhiệm mầu.

Mầu nhiệm hơn hết được thấy rõ qua công việc đào hồ thả sen trước Quán Âm Các, mới đáng nói, đáng viết vào nhật ký để cho mọi người được biết đến tha lực do cầu nguyện.

Xây xong Quán Âm Các, Sư cô Hoàng nói với các Sư cô huynh đệ và Phật tử rằng, Quán Âm Các, là phải có cái hồ thả sen trước mặt dù nhỏ, hay lớn thì mới đúng cách.

Trước khi bắt tay vào đào hồ, Sư cô Hoàng nói chỗ đất sắp đào hồ, là vùng đất cứng, phải vất vả lắm, mới được thành cái hồ theo ý muốn. Tuy nhiên chúng ta ai cũng phải nhất tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thường xuyên lúc đào hay lúc giải lao, sẽ được ngài hộ niệm cho.

Thế là các Sư cô, các em thanh niên, sinh viên Phật tử đem các dụng cụ, nào xà beng, cuốc, xẻng, vân vân… rồi bắt đầu đào. Trước khi đào, Sư cô Hoàng bảo mọi người đem nước đổ vào đó vào ban ngày để cho đất mềm, ban đêm mới đào. Tại chỗ đào được ba chiếc xe nổ máy, dụm đầu lại, chiếu đèn vào cho sáng để thấy chỗ đào. Sáng ra thấy đất sụp.

Các thanh niên, sinh viên Phật tử thấy đất sụp, các em không tin đức Quán Thế Âm gia hộ, các em mới lấy cây sắt đóng vô, lấy ván ép be lại, vì không muốn đào chỗ đó, rồi thưa các Sư cô đừng đụng tới, để yên, khi lấy ván ép ra, là đất sụp. Sư cô Hoàng bảo chỗ nào sụp, thì theo đó mà cuốc, mà vét đất lên, đừng be, đừng ngăn nữa. Té ra ngài Quán Thế Âm đã tạo cho hình dáng cái hồ theo ý ngài rồi, cho nên đất sụp bao quanh, đến lúc hết sụp là hình dáng cái hồ hiện ra không lớn lắm, nhỏ lắm, thật là lý tưởng, linh ứng mầu nhiệm vô cùng!

Một hôm, mọi người đang làm việc đào hồ, ông Quảng Trọng tự nhiên nghe tiếng người gọi “Ni sư, Ni sư…” Ông Trọng liền gọi vói từ ngoài vào, “thầy, thầy, có ai kêu thầy kìa!”. Sư cô Hoàng biết Bồ Tát Quán Thế Âm gọi, nên cô mỉm cười, thấy niềm vui chạy khắp cả tâm hồn.

 

ĐỨC QUAN THẾ ÂM HỘ NIỆM CHO ÔNG THỢ LÀM HÀNG RÀO

Ông thợ làm hàng rào, ông ấy là người theo đạo Thiên Chúa La Mã. Vấn đề làm hàng rào là phải dùng máy khoan xi măng. Thứ khoan ấy rất mạnh và lưỡi khoan bén nhọn vững chắc, không bao giờ gãy, trở ngại cho việc khoan lỗ ở mặt xi măng dù xi măng cứng đến đâu, cả đất cứng có sỏi đá cũng không ăn thua gì đến nó. Ấy thế vậy mà máy của ông  đã bị gãy lưỡi khoan. Gãy lưỡi thứ nhất, ông thay vào lưỡi mới, khoan xuống liền bị gãy. Ông thay vào lưỡi khác, cũng bị gãy nốt. Thế là cả thảy ba lưỡi bị gãy. Ông bèn đi mua cái khoan cỡ lớn hơn, lưỡi khoan cũng lớn, đem về khoan, lưỡi khoan vẫn bị gãy, do dưới đất có tảng đá quá lớn, làm cho ông thợ bị bối rối tư tưởng, không biết tính sao, ông liền nghĩ đến sự cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm xin gia hộ cho ông. Cho nên ông vào gặp Sư cô trụ trì để trình bày sự cố xin Sư cô cầu nguyện cho. Ông thưa rằng:

- Thưa Ni sư, không biết ở dưới đất có đá tảng hay không, mà máy khoan đã bị gãy ba lưỡi nhỏ của máy nhỏ và một lưỡi lớn của máy lớn. Vậy, con kính xin Ni sư cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cho con.

Ni sư trụ trì đáp lời:

- Bác là người chính làm công việc hàng rào, bác tự thầm cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm, sẽ được có hiệu lực gia hộ hơn hết. Vậy bác hãy đem tâm chí thành nói lời cầu nguyện lên ngài, xin ngài gia hộ cho.

Ông thợ hàng rào nghỉ tay, uống xong ngụm nước, sửa cổ áo ngay thẳng, xoa tay, vuốt mặt, vòng tay lên ngực, đi tới đi lui thật chậm dọc theo chỗ làm, đưa mắt nhìn lên không trung, đoạn dừng chân, cúi mặt cùng với đôi môi nhóp nhép trong giây lát. Sau đó ông trở lại chỗ làm với vẻ mặt tươi vui, đưa tay nắm lấy máy khoan lên, cho máy nổ, đặt xuống lỗ khoan dở dang. Tiếng máy nổ thật đều, máy khoan di động xuống dần, xuống dần một cách nhẹ nhàng, như khoan vào thân cây chuối, vũng bùn. Bỗng dưng ông dừng tay, rút máy lên, đưa mắt nhìn xuống cái lỗ, rồi ông gật đầu hai ba lần, tắt máy khoan, để nó xuống đất. Ông nắm hai bàn tay lại theo kiểu cúc cung, đặt lên ngực, nhìn lên không trung, như nói thầm lời tạ ơn Bồ Tát Quán Thế Âm.

Như để xem công việc của ông thợ hàng rào đi đến đâu rồi, Ni sư trụ trì đi ra chỗ làm. Vừa thấy Ni sư đi tới, ông thợ liền đứng lên mở lời:

- Con định đi vào cho Ni sư hay, là máy khoan nó xuống thật ư là nhẹ nhàng, làm cho con cảm thấy như khoan vào thân cây chuối vậy đó! Con thật không ngờ lời cầu nguyện của con lại được linh ứng đến thế, làm cho ngài Bồ Tát Quán Thế Âm nghe đến, mà cứu giúp cho lưỡi khoan của con thông suốt xuống thật sâu. Nếu không nhờ ngài cứu giúp cho, con sẽ bó tay, chịu thua thôi!

Ni sư trụ trì nở nụ cười, nói:

- Cho nên tôi mới bảo bác hãy tự nói lời cầu nguyện, là như vậy! Không ai nói lời cầu nguyện được linh ứng bằng chính mình nói.

 

LONG THIÊN HỘ PHÁP TRỪNG PHẠT CẢNH CÁO

Ông Cẩm từ San Diego lên làm công quả. Ông nằm ngủ ở chỗ riêng dành cho nam Phật tử. Chỗ nằm ấy cách xa restroom cỡ ba trăm mét, cho nên đến khuya, ông Cẩm không đến restroom, len lén ra một chỗ gần đó mà làm cái việc tiểu giải. Sáng ra cánh tay phải của ông bị sưng vù lên, nhức nhối kinh khủng. Ông Cẩm vội đi về em ông, sau đó đến bác sĩ, được bác sĩ cho uống thuốc tây, nhưng không bớt. Ông lại đến đông y sĩ, được đông y sĩ cho trong uống, ngoài xoa bóp, cũng không hết đau. Ông Cẩm ngồi suy tư để tìm nguyên nhân làm cho cánh tay bị sưng. Ông liền nhận ra, là do hành động tiểu giải bậy, không đúng cách làm ô uế nơi đất Phật, nên chi bị Long Thiên Hộ Pháp trừng phạt cảnh cáo. Sau cái quyết định do nguyên nhân đó, không còn gì khác hơn! Ông liền ra giữa trời, chắp tay hướng về chùa Sư cô Minh Hoàng và Quán Âm Các, nói lời tạ tội, xin sám hối, ăn năn chừa bỏ hành động không hợp vệ sinh đó. Kể từ sau đó, cánh tay ông từ từ bớt đau, dần dần bớt sưng rồi dứt hẳn, trở lại bình thường.

Ông liền đi mua hoa, trái cây, về chùa để cúng tạ.

Sư cô Minh Hoàng thấy ông Cẩm và đứa cháu trai, tay xách, nách mang hoa quả, bèn hỏi:

- Bác Cẩm, mấy hôm nay đi đâu vắng, sao nay lại đến sớm chi vậy?

- Dạ thưa Ni sư viện chủ, con đi tạ lễ, sám hối. Một đời con, từ nhỏ đến lớn, chưa một lần bị sưng cánh tay, đau nhức như mấy ngày vừa rồi. Uống đủ thứ thuốc tây, thuốc bắc, trong uống ngoài xoa bóp, mà chả hết. Chỉ có lời xin ăn năn, sám hối, tạ tội thì mới hết hẳn.

Ni sư Minh Hoàng liền hỏi:

- Bác Cẩm tạo tội gì mà bị sưng tay, đau nhức đến như vậy?

Ông Cẩm tuần tự kể hết từ đầu đến cuối cho Ni sư Minh Hoàng nghe, Ni sư liền nói:

-Đúng rồi, chư Thiên, Long Thần Hộ Pháp phạt bác, chứ chư Phật, Bồ Tát không phạt bác đâu. Vì vai trò của chư vị chư Thiên, Long Thần Hộ Pháp là bảo vệ kinh điển, chùa, tháp Phật, cho nên người phàm và kể cả Tăng Ni, Phật tử, ai có hành động phá hoại, làm ô uế nơi kinh Phật, chùa, tháp, là bị quý ngài đó trừng phạt ngay.

 

BỒ TÁT ĐỊA TẠNG HIỆN HỮU

Tại điện Quán Âm Các, kể từ sau khi hoàn thành ngôi điện thờ có tượng Quán Thế Âm và có hồ sen, thì thỉnh thoảng có những tia sáng buổi sáng sớm, khi thì vào buổi trưa, xế chiều, các Phật tử ra về chùa lễ Phật, ra lễ Bồ Tát Quán Thế Âm nơi Quán Âm Các, liền thấy có hình Bồ Tát Địa Tạng đội mão Tỳ Lư (mão hình hoa sen có 8 cánh dựng đứng chung quanh, ở giữa có vải cứng tròn và một cái núm màu đỏ), tay cầm tích trượng, ngồi trên con Thiên cẩu, bên cạnh Quán Âm Các. Thấy vậy, các Phật tử liền đến lễ bái ngài Địa Tạng. Khi đến nơi thì không thấy đâu cả! Trong lúc ra về, quay lui, thì lại nhìn thấy rõ ràng hình ngài Địa Tạng. Lúc bấy giờ còn thấy rõ có 6 con lân đứng chầu chung quanh ngài.

Một lần khác, vào buổi trưa, các Phật tử về chùa lễ Phật, ra chiêm bái điện Quán Thế Âm, các Phật tử nhìn lên đỉnh Quán Âm Các, thấy có một con rồng nằm ngang qua trên đỉnh Quán Âm Các, liền chụp hình, nhưng chỉ thấy nhiều màu sắc tổng hợp không thôi.

 

ĐĂNG TRIỆU YÊU CẦU TUỆ ĐẠO

Tuệ Đạo kể xong hai câu chuyện Bồ Tát Địa Tạng, sáu con kỳ lân chầu bên ngài và con rồng nằm ngang trên đỉnh Quán Âm Các, chàng ngưng trong mấy giây, rồi nhìn qua Đăng Triệu như muốn hỏi gì, thì Đăng Triệu chụp thời cơ trước, mở lời hỏi:

- Hình như, nếu tôi không lầm, cô Huệ Lan Phương có hứa với anh, là sẽ nói pháp danh, pháp hiệu, pháp tự của Sư cô Hoàng cho anh được biết, bất cứ khi nào anh cần, cô ấy sẽ nói ngay, có phải vậy không?

- Ờ hễ! Anh nhắc tôi mới nhớ. Đúng rồi, cô Lan Phương có nói với tôi, khi nào cần biết đến pháp danh hay pháp hiệu của Sư cô Minh Hoàng, thì gọi phone cho cô, cô sẽ cho biết ngay.

- Như vậy, anh gọi phone hỏi cô Lan Phương ngay hôm nay đi! Vì kể chuyện hay viết chuyện về người Tăng bảo (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni) là phải dùng pháp danh, pháp hiệu thì mới được phù hợp với câu chuyện, giống như người ta vẽ, điêu khắc, đắp, đúc các tượng Phật, Bồ Tát ở các thế ngồi, đứng, không thể không có hoa sen tức là ngồi trên hoa sen, đứng trên hoa sen.

- Đăng Triệu nói rất đúng lý về kể hay viết chuyện về Tăng bảo, là phải dùng pháp danh, pháp hiệu. Lời Tuệ Đạo xác định.

Nói xong lời xác định, Tuệ Đạo lấy cái phone di động từ trong túi quần ra, bấm số phone cô Lan Phương, rồi đặt cái phone bé nhỏ kề tai phải, trong trạng thái im lặng đợi chờ. Chẳng mấy chốc, Tuệ Đạo nở nụ cười, cùng cất tiếng:

- A lô, a lô! Tuệ Đạo đây. A Di Đà Phật, kính chào cô Lan Phương. Cô khỏe không, cô đang ở đâu?

- Tôi đang ở tiệm tóc. Thầy khỏe không?

- Cảm ơn cô, tôi khỏe. Chao ôi! Người xuất gia tâm, thân mặc áo phàm tu tại gia, mà còn thích làm tóc cho đẹp nữa!

- Không, tôi đang làm tóc cho một bà Mỹ trắng, vì tôi là thợ tóc và cũng là chủ tiệm. Tiệm có ba bàn, mướn hai cô thợ Việt. Hôm nay là thứ bảy, nên chi hơi bận rộn. Bận thì bận, vẫn nói chuyện được, chừng vài phút nữa là xong. Vừa rồi, thầy nói tu tại gia mà còn thích làm đẹp. Đẹp là một quy luật sống. Đẹp là văn hóa, sống đẹp là sống có văn hóa, văn hóa là đẹp. Người xưa có nói: “nhập thế cục bất khả vô văn”. Văn ở đây là nét đẹp được đọc trại từ chữ “vân”. Thầy nên nhớ cho, đời ưa chọn hình thức. Dĩ nhiên là hình thức đẹp. Hình thức có văn hóa, là lực quyến rũ con người (khách trần). Sống trên đời này, ai cũng phải có nét đẹp ở bản thân. Thân tướng người xuất gia có nét đẹp văn hóa của người xuất gia, thân tướng người tu tại gia có nét đẹp văn hóa tại gia, không thể ăn mặc, tóc tai xuềnh xoàng được. Phải phục sức đứng đắn, trang nghiêm, tươm tất, không cần lòe loẹt, chính là cái lực trợ giúp cho lời nói của mình trước mọi người, được hiệu quả hơn, khi con người quan tâm nghe lời nói của mình. Nếu không nói, đó là cái nghĩa trang nghiêm thân tâm. Cả thân và tâm cùng trang nghiêm, chứ không phải chỉ ở tâm, hay chỉ ở thân không. Tôi được học hỏi tư tưởng này từ nơi Sư cô Minh Hoàng. A lô, thầy còn đó?

- Vâng, Tuệ Đạo đang nghe cô đây!

- Vậy mà tôi tưởng phone thầy bị rớt rồi, chớ!

- Làm sao mà bị rớt được. Tôi đang chăm chú nghe cô, để học hỏi đây.

- Sorry thầy nghe, tôi nói cái nét đẹp phục sức hơi lâu. Tại vì thầy nói người nữ tu tại gia mà còn làm tóc đẹp, nên chi phải nói dài để thầy biết thêm bản chất của người phụ nữ là ưa tô vẽ bản thân, nhất là khi đi ra xã hội.

- Tôi biết điều đó chứ, sở dĩ nói là chọc quê cô thôi. Cho tôi xin lỗi cô nhé!

- Không có chi, huynh đệ đồng môn với nhau mà! Sao, thầy đã kể đến câu chuyện nào rồi ở đề mục lớn “Con Thuyền Bát Nhã của cô Minh Hoàng đến bờ tự do”?

- Tôi đã kể nhiều đề mục rồi, hiện đang kể ở đề mục “Bồ Tát Địa Tạng bên cạnh Quán Âm Các, có sáu con kỳ lân chầu hai bên và con rồng nằm ngang trên đỉnh Quán Âm Các”. Trước khi kể tiếp về “Ba đóa hoa lài Mỹ màu trắng, tự biến thành màu vàng cà sa, sau khi để cúng trên bàn Phật”, tôi cần cô Lan Phương nói cho tôi biết về pháp danh hay pháp hiệu của Sư cô Minh Hoàng, đúng như đã hứa. Được không ạ?

- Vấn đề đó, dễ thôi! Bởi vì khi kể hay viết truyện về chư vị tổ sư, chư tôn giáo phẩm PGVN (Tăng, Ni), là phải dùng pháp hiệu hay pháp danh của quý ngài, không thể dùng thế danh được. Mỗi vị Tăng Ni, đều có hai pháp hiệu và pháp tự, được dùng khi ra làm việc, ít khi dùng pháp danh. Hai pháp hiệu và pháp tự, được dùng một trong hai, do vị ấy chọn một. Có khi được các chư tôn đức gọi cả hai. Chẳng hạn, hồi xưa chư tôn đức thường gọi Hòa Thượng Thích Thiện Minh, và có khi gọi Hòa Thượng Thích Trí Nghiễm. Một vị khác nữa, cũng được quý chư tôn đức gọi cả hai, khi thì gọi Hòa Thượng Thích Trí Đức, có lúc gọi Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, v.v… Tuy nhiên, đa số quý ngài chỉ dùng một pháp hiệu hay pháp tự, thỉnh thoảng có vị dùng pháp danh.

 

CÔ HUỆ LAN PHƯƠNG CHO BIẾT PHÁP HIỆU SƯ CÔ MINH HOÀNG

Sở dĩ trong nhật ký tập một và tập hai, tôi chỉ dùng Minh Hoàng, không dùng pháp hiệu, pháp tự của Sư cô Hoàng, là vì có nhiều lý do. Thứ nhất, nhật ký là một lá thư dài (trường thư) vô tận của một người viết cho một người, trong đó chứa đựng tâm tư tình cảm thật nồng nàn và sâu đậm, cho nên dùng tên cha mẹ đặt để được thú vị hơn và nói lên cả một tấm lòng. Thứ đến, đã là nhật ký, được ghi hết tất cả mọi việc vui, buồn, hạnh phúc, khổ đau, thất bại, thành công… của mình, hay của người, nếu không nói là kín đáo trong thực tại, nhất hạng là trong một tập thể, lại càng kín đáo hơn, cho nên không dùng pháp hiệu, pháp tự, chỉ dùng Minh Hoàng, vì lỡ ra bị rơi rớt đâu đó, người ta nhặt được, đọc đến, cũng khó mà biết được Minh Hoàng là ai. Trong tu viện Ni, đa số chỉ biết pháp hiệu, pháp tự với nhau, ít khi được biết tên đời (thế danh) của từng người. Nhờ vậy mà, Sư cô Hoàng không bị các Sư bà phát hiện là thủ phạm giả làm bà bầu chọc thiên hạ cười, là như thế này: Sau một trận các Sư cô bị quỳ hương lả đầu gối do vì cười quá độ bởi nhìn thấy hình ảnh cô Hoàng giả bà bầu, không khí Ni viện trở lại yên tịnh, một số Sư cô chúng tôi chơi thân với nhau, cũng là nhóm đàn em của Sư cô Hoàng, mới ngồi lại trong phòng học để ôn bài, thì chúng tôi kể lại chuyện cũ cô Hoàng giả làm bà bầu Ta bà khổ. Trong lúc đang nói với nhau về chuyện ấy, thình lình Sư cô thư ký của Sư bà phó giám viện đi vào ngồi làm sổ sách, nhưng chúng tôi vẫn nói một cách tự nhiên không ngợ, không ngừng, cứ việc nói tên Minh Hoàng, thỉnh thoảng nói “bà Hoàng”, rồi lại nói “chị Hoàng” giữa câu chuyện, chứ đâu dám nói pháp hiệu DT của cô Hoàng đâu. Ấy thế vậy mà, cô thư ký dừng bút, nghiêng đầu lắng nghe. Nếu nói pháp hiệu DT, tức khắc bà Hoàng sẽ bị cô thư ký báo cáo lên Sư bà phó giám viện, chừng đó bà DT nhà ta sẽ bị các Sư bà, Ni sư cấp trên phạt cho te tua.

Tuệ Đạo vừa nghe cô Lan Phương nói pháp hiệu của Sư cô Hoàng là DT, liền lên tiếng:

- A lô, cô Lan Phương!

- Tôi nghe đây. Cô Lan Phương đáp lời.

- Như vậy, cô đã cho tôi biết pháp hiệu của cô Hoàng là DT, DT nghĩa là gì?

- Khoan đã! Tôi chỉ mới nói tắt thôi mà, chưa nói trọn (full) pháp hiệu. Vậy thầy hãy nói thử trước DT nghĩa là gì?

- D là Diệu. T là Tâm, Thủy, Tường, Tịnh, Tánh, Thường… tức là Diệu Tâm, Diệu Thủy, Diệu Tường, Diệu Tịnh, Diệu Tánh, Diệu Thường… đã trúng chưa?

- Chưa trúng, còn xa lắm! Thầy nên biết rằng, Phật tử chúng ta, ai cũng phải lo tu tập, bốn tấm lòng rộng lớn, đó là Từ, Bi, Hỷ, Xả, mà cứ tu lòng vòng ở ngoài!

- A lô, cô Lan Phương, tôi biết rồi!

- Thầy biết sao, nói thử có đúng không!

- D là Diệu, đi trước chữ Từ, Bi, Hỷ và Xả. Không ai đặt pháp hiệu là Diệu Bi hay Diệu Xả, mà phải đặt pháp hiệu Diệu Từ, Diệu Hỷ. Diệu Hỷ thường là của các Tăng, còn Diệu Từ là của Ni. Vậy pháp hiệu của Sư cô Minh Hoàng là DIỆU TỪ, đúng rồi, phải không?

- Right! Đúng ngay rồi. Theo kinh nghiệm cho tôi thấy, tâm như thế nào, tên đời, tên đạo như thế đó, rất được ăn khớp với nhau một cách nhiệm mầu, khó mà nghĩ ngợi được (nan tư nghì)! Nếu không nói đó là một quy luật “thử hữu cố bỉ hữu”, có cái này là có cái kia. Trong tâm vốn có bản tánh gì, khi sanh ra, khiến cho cha mẹ đặt tên được ăn khớp với tánh vốn có. Nếu đi xuất gia tu hành, được bổn sư đặt cho pháp danh, pháp hiệu, pháp tự được ăn khớp với bản tánh vốn có. Cho nên pháp hiệu Diệu Từ thật đúng với bản tánh từ bi vốn có của cô Diệu Từ. Đúng như vậy, phải không, hỡi thầy Tuệ Đạo?

- Thật, không sai tý nào! Sư cô Diệu Từ, khi sanh ra, được cha mẹ đặt tên Minh Hoàng. Cái tên được biểu thị cho cái tâm, tâm như thế nào, hành động như thế đó, cho nên lúc lên tám, chín tuổi, cô đã biết thương người ăn xin, bạn cùng lớp bị túng thiếu vật chất, liền bố thí cho cơm áo, tiền bạc. Lúc xuất gia tu hành, sống trong Ni viện, quyết tâm học và tu tập Phật pháp, hành trì giới luật nghiêm minh, ra sức tinh tấn làm nhiều việc khó nhọc trong và ngoài Ni viện, vững tâm nhẫn nhục trước nhiều lời nói và hành động ganh tỵ, đọa đày, chèn ép của các Sư bà, Ni sư lãnh đạo, điều hành trong Ni viện. Mặc dù đang chịu nhiều khổ lụy ở thân tâm, Sư cô Diệu Từ vẫn làm tròn vai trò trưởng tử Như Lai trên nhiều lãnh vực, trong đó có thực hành hạnh bố thí cúng dường cho các Sư cô bạn bị túng thiếu bằng vật chất như tiền bạc, mì gói, dưa hấu, dứa và tạo niềm vui cho đại chúng bằng kể chuyện hay hài kịch, vân vân… đúng như cô Lan Phương đã ghi chép thật đầy đủ trong tập nhật ký số một, mà cô đã trao tận tay cho tôi vào buổi xế chiều mùa thu 1979 ấy tại nhà cô, chắc cô còn nhớ rõ chứ?

- Vâng, làm sao tôi quên được, vì là nhân chứng sống, sống chung với Sư cô Diệu Từ trong Ni viện, nên tôi phải viết ra, thấy nghe những điều gì nơi Sư cô Diệu Từ, tôi viết theo những điều đó một cách chính xác. Ra tới hải ngoại Cali này, tôi cố sức tìm kiếm cô Diệu Từ định cư ở đâu. Tìm được rồi, tôi luôn theo dõi vận hành hoằng hóa độ sanh của cô. Theo dõi đến đâu, viết đến đó vào tập nhật ký số hai rất đầy đủ những tiết mục giáo vụ. Tiết mục nào, cũng chứa đựng những phương tiện giáo dục rất sinh động, để hướng dẫn cho các giới Phật tử tu tập, mà chuyển hóa tâm ác thành thiện và giữ tâm hồn luôn thanh tịnh. Mặc dù có những phương tiện sử dụng lời thơ, âm nhạc, lời ca hay là kể chuyện vui, tất cả đều có đạo lý giáo dục trong đó.

Dĩ nhiên, người ngoài thế gian và người trong Phật giáo, đó là Tăng Ni, Phật tử, ai đó được có tài đức song toàn, họ luôn được thành công lớn trên nhiều lãnh vực văn hóa, thi ca, khoa học, kỹ thuật, bằng cấp khoa bảng, v.v… được quần chúng biết đến và hâm mộ, ca ngợi, tán dương tài đức, tức thì bị những người không tài, không đức nói ra lời ganh tỵ, rồi tìm cách đánh phá bằng nhiều chiêu độc ác. Dĩ nhiên, ở đâu có chánh pháp, ở đó có ma vương đánh phá. Ở đâu có đại nhân quân tử, ở đó có tiểu nhân rình rập ganh tỵ, nói xấu. Vì thế tập nhật ký số hai này, tôi vẫn dùng tên Minh Hoàng, như thầy đã đọc và đang kể cho ông bạn thầy nghe, do vậy ông bạn thầy đã thắc mắc, tại sao kể chuyện Sư cô mà không có pháp danh, pháp hiệu, pháp tự, là thắc mắc đúng. A lô, thầy Tuệ Đạo có nghe rõ tôi nói?

- Vâng, tôi đang nghe, xin cô cứ tiếp tục.

- Vậy kể từ hôm nay trở về sau, thầy cứ việc sử dụng pháp hiệu Diệu Từ, tức là Sư bà Diệu Từ trong lúc kể chuyện về sự nghiệp tu hành, hoằng hóa độ sanh của Sư bà cho mọi người nghe, không dùng thế danh Minh Hoàng nữa. Bởi vì hằng ngàn Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước đã và đang quan tâm, ngưỡng mộ đến công trình cách mạng hiện đại hóa sinh hoạt Phật giáo của Sư bà Diệu Từ bằng nhiều phương tiện diệu dụng văn hóa dân tộc, nên rất thành công ở các mặt giáo vụ thuyết pháp, học Phật, tu tập, phụng sự đạo pháp, văn hóa Phật giáo qua thi ca, thơ, nhạc, tổ chức lễ nghi cúng tế… vào đại chúng Phật tử tại gia, cũng như các việc Phật sự đối với chư tôn đức trong giáo hội và phát triển đại tạng kinh. Tất cả đều mang sắc thái sinh động, linh hoạt, nhưng rất trang nghiêm, tịnh giới và thiền định, thật đúng với bản chất của pháp môn tu là biến đổi phương tiện, linh động phù hợp với căn cơ chúng sanh trong mọi thời đại, chứ không thể cứng đơ như sỏi đá.

Vấn đề hành Bồ Tát đạo cứu bạt chúng sanh của Sư bà Diệu Từ trên quê hương trong quá khứ và hiện nay tại hải ngoại, mà Lan Phương đã viết ra, thiết nghĩ nhiều lắm rồi, đủ phẩm lượng chánh đạo để cho kẻ hậu lai noi gương hành đạo đúng chánh pháp. Như Sư bà Diệu Từ đã từng tu hành rất cực nhọc bản thân, nên mới có được sự nghiệp văn hóa Phật giáo và dân tộc rất vẻ vang hôm nay. Vậy tôi xin ngừng ở đây, nếu thầy muốn biết gì thêm về Sư bà Diệu Từ, thầy cứ phone cho tôi, thầy nhé! Chúc thầy thân tâm an lạc, Phật sự, Phật đạo viên thành.

- Tuệ Đạo cũng xin chúc cô Lan Phương như vậy. Trân trọng xin cảm ơn và chào cô.

 

Tuệ Đạo đậy nắp cell phone, bỏ vào túi, quay qua Đăng Triệu, vừa cười vừa hỏi:

- Nãy giờ, chắc là huynh đã nghe rõ lý do tại sao cô Lan Phương phải sử dụng tên Sư cô Minh Hoàng khi viết nhựt ký, rồi phải không?

- Nghe rõ rồi! Như vậy, từ nay mình chấm dứt gọi tên Sư cô Minh Hoàng, mà phải gọi bằng pháp hiệu Thích Nữ Diệu Từ, phải không?

- Đúng rồi! Khi nói về các vị Tăng Ni, chúng ta không nói tên đời, mà phải gọi bằng pháp hiệu, pháp tự hay pháp danh của quý ngài và kể cả nói tên chùa của quý ngài nữa. Chẳng hạn, Phật tử thường gọi Hòa Thượng Báo Quốc tức là Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Hòa Thượng Từ Đàm, tức là Hòa Thượng Thiện Siêu, Sư bà Linh Phong tức là Sư bà Thích Nữ Từ Hương, Sư bà Diệu Quang, tức là Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, vân vân… Bây giờ Tuệ Đạo xin kể cho huynh nghe tiếp mấy mẫu chuyện sau đây:

 

BA ĐÓA HOA LÀI MẦU NHIỆM

Nói đến hoa lài của Mỹ hay của Việt Nam, chỉ có một màu trắng duy nhất, không có hồng hay vàng như hoa hồng. Hoa lài của Mỹ thì to gấp ba lần hoa lài xứ Việt.

Một bữa nọ, Sư bà Diệu Từ được một nữ Phật tử đem cho ba cái hoa lài Mỹ tại chùa Diệu Quang ở Orange County trong giờ phút chuẩn bị lên xe đi lên chùa Diệu Quang Sacramento. Những nữ Phật tử đi theo như cô Quảng Từ, Quảng Hiền, vân vân… đã nhìn thấy ba đóa hoa lài Mỹ đó nằm trong thẩu nước. Sau khi đến chùa Diệu Quang Sacramento, Sư bà Diệu Từ lấy ra bỏ ba đóa hoa lài vào cái dĩa, để lên cúng ở bàn Phật. Cúng xong, mấy tiếng đồng hồ sau, đem dĩa hoa xuống, tất cả Sư cô, Sư bà và nam nữ Phật tử đều cùng thấy ba cái hoa lài Mỹ đó đã trở thành màu vàng áo cà sa của Tăng Ni. Màu vàng sậm tươi với thời gian đến mấy ngày sau, rồi từ từ khô, vẫn là màu vàng theo màu khô, chứ không vì úa.

Các Phật tử về lại Orange County, trong đó cô Quảng Hiền đã hái ba hoa lài Mỹ mà cô trồng ở trước nhà, rồi cũng đem bỏ vào nước vài giờ, sau đó bỏ vào dĩa, đem lên cúng trên bàn Phật qua mấy tiếng đồng hồ, cô Quảng Hiền vào bàn Phật để xem hoa có được đổi màu vàng hay không. Ba đóa hoa lài trắng, vẫn trắng nằm im trong lòng dĩa, và trắng mãi cho đến lúc héo khô vẫn màu trắng khô héo.

Hiện tượng ba đóa hoa lài trắng cúng trên bàn Phật được đổi màu trắng thành màu vàng y cà sa của Phật, là một trong vô số hiện tượng chứng thực hay còn gọi là sự thọ, sựï ký của chư Phật, Bồ Tát, đối với người Tăng bảo nào chơn tu có tâm đại bi, đại trí, biết thương chúng sanh, biết phụng trì đạo pháp được luôn trường tồn tại thế gian suốt cuộc đời tu hành không ngừng nghỉ, tức thì sẽ được chư Phật, Bồ Tát thọ ký qua hình thái mầu nhiệm. Vấn đề có những hiện tượng lạ và mầu nhiệm trong các chùa, nơi người Tăng bảo trong đạo Phật đang tu tập, rất phổ biến từ ngàn xưa cho tới nay. Chẳng hạn, cách đây vài năm, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, được vẽ trên vách trong một chùa ở Nam Hàn, thì ở chung quanh hình của ngài có những cái hoa đá mọc ra với năm màu sắc (xanh-vàng-đỏ-trắng-hồng) được hàng ngàn Phật tử đến hành hương chiêm bái. Với người tu hành trong Phật giáo, chỉ sợ rằng không có chơn tâm, đại bi, đại trí… chứ đừng sợ rằng không được chư Phật, Bồ Tát chứng tri, thọ ký bằng các hiện tượng mầu nhiệm.

 

CON CHÓ TU ĐI

Một ngày nọ, Sư bà Diệu Từ xuống San Jose thăm Sư bà Đàm Lựu, được Sư bà cho con chó loại berger. Trước khi nó chạy vào chùa Sư bà Đàm Lựu, nó ở lang thang, không nhà, không chủ. Sư bà Diệu Từ đem về nuôi, chỉ cỡ một tháng, nó lớn thấy rõ. Nó càng lớn, càng có cử chỉ hiền lành, dễ thương, biết vâng lời, biết làm theo các việc qua lời nói của các Sư cô khi nói với nó. Sau đó nó nhớ và thi hành đúng điều các Sư cô nói. Chẳng hạn, trong lúc đang xây dựng Quán Âm Các, có những việc cần làm liền như lót gạch, trồng hoa, thả sen, v.v… Sư bà Diệu Từ dậy sớm vào giờ khuya gần sáng, ra Quán Âm Các để làm, thì con chó Tu Đi chạy theo, cắt góc, đứng trước mặt, chận không cho đi. Sư bà bèn nói: con à, công việc còn nhiều lắm, không làm lúc này thì không thể xong việc đâu, con để cho thầy đi làm, nghe không! Nó liền tránh ra. Sư bà đi vài bước, nó lại cắt góc chận lại nữa. Sư bà nói: sao mà con lì quá vậy! Thầy buồn ngủ lắm lận, nhưng mà phải làm mẫu trước, để sáng mai cho các cô thấy, biết theo đó mà làm theo. Thế là con Tu Đi giận bỏ đi một cách riu ríu. Khoảng năm bảy phút sau, nó trở lại.

Bữa nào Sư bà Diệu Từ cảm thấy buồn trong lòng, Sư bà nói với nó: Tu Đi à, thầy buồn quá đi thôi! Nó liền nằm đưa mặt sát đất, nhắm mắt lim dim một vài phút, rồi mở mắt nhìn lên Sư bà. Thỉnh thoảng Sư bà hỏi nó: thầy nói con có hiểu không? Nếu con hiểu, con ngoắc đuôi. Nó liền ngoắc đuôi.

Con Tu Đi nó khôn và ngoan lắm, nó luôn luôn bảo vệ phòng của Sư bà Diệu Từ. Những cách bảo vệ đó, là đứng chận trước cửa phòng, không cho người nam Phật tử hay Tăng vào phòng. Chẳng những đứng chận, mà còn lên tiếng ứ, ừ, ứ, ừ… trong miệng, như thể nói rằng: xin các thầy đừng vào phòng Sư bà con. Mặc dù có lúc các thầy đứng trước cửa phòng để hỏi việc và được Sư bà chỉ việc, con Tu Đi vẫn đứng chận và ra lời ứ, ừ! Ngay cả bé Quảng Chơn mới hai tuổi, cũng bị Tu Đi chận không cho đứng trước cửa phòng Sư bà.

Có mấy lần Sư bà đi công chuyện không cho nó biết, nó chạy chung quanh tìm kiếm Sư bà không thấy đâu cả, nó bèn nằm buồn thiu nơi trước thềm nhà Tăng. Khi nó nghe các Sư cô trong chùa nói chuyện với nhau là Sư bà Diệu Từ sắp về và qua trạng thái quét dọn sạch sẻ, nấu thức ăn, rửa bình, pha trà. Nó biết hết, nó liền chạy ra nằm chờ ở cửa tam quan để đón Sư bà về. Khi nó nghe có tiếng xe Sư bà về, nó liền đứng lên, ngước mặt tới. Sau khi thấy rõ xe có Sư bà ngồi trong đó, đang tới cửa tam quan, nó liền quay đi trong trạng thái giận hờn, không mừng rỡ gì hết, vì khi đi Sư bà không cho nó biết. Sau đó Sư bà đem cho thứ gì, nó không thèm ăn, nằm im với nét mặt buồn thiu. Thấy vậy, Sư bà nói: thầy xin lỗi Tu Đi nghe! Tại vì thầy không muốn Tu Đi nằm chờ ngoài hiên, ngoài cửa mà bị mưa gió, lạnh lẽo, sanh bịnh khổ lắm! Chứ đâu thầy không muốn nói với con đâu! Thầy xin lỗi con nghe! Con có tha lỗi cho thầy không? Có tha thì ngoắc đuôi đi! Nó liền ngoắc đuôi.

 

SÁU CON MÈO CON

Một buổi sáng sớm, không biết ai đem bỏ sáu con mèo con ở cửa tam quan. Sáu con mèo con dắt nhau đi từ cửa tam quan vào chùa. Chúng vừa đi vừa kêu meo, meo. Sư bà Diệu Từ gọi con chó Tu Đi lại, rồi nói với nó rằng: Tu Đi ơi, thầy không biết nuôi mấy con mèo này. Con nuôi mấy con mèo này dùm thầy. Thế là con Tu Đi nuôi 6 con mèo bằng cách chận mấy con mèo vào một góc, nằm yên đó ban ngày lẫn ban đêm, không cho mèo đi đâu cả. Thức ăn thì do các Sư cô cho ăn rồi. Khi các con mèo nằm trong cái rổ có lót khăn, chúng kêu inh ỏi. Nghe mèo kêu om sòm, Sư bà nói: Tu Đi ơi, con dỗ mấy con mèo cho hết kêu dùm thầy, chứ kêu ồn quá! Con Tu Đi nghe xong lời của Sư bà, nó liền đến cái rổ, đưa mỏ hất hất cái rổ, làm cho mấy con mèo không ra được, nằm im trong rổ. Nhờ đó mà mấy con mèo lớn lên, con nào cũng được có một bộ lông láng mướt, xinh đẹp, chạy nhảy lanh lẹ. Con nào có bộ lông đẹp tam thể, được các Phật tử xin về nuôi, con nào không có lông tam thể ở lại chùa.

Đến mấy năm sau, con Tu Đi bị bịnh sơ mà lại qua đời xả bỏ báo thân súc sinh. Cái chết của nó một cách êm ái, nhẹ nhàng thanh thoát, được chứng tỏ nó sẽ được thát sinh lên kiếp người. Sự ra đi vĩnh biệt cõi súc sinh của nó, làm cho tất cả Sư cô, Sư bà, ai cũng thương tiếc, nên hết lòng tụng kinh cầu siêu và an táng cho nó đàng hoàng.

Tuệ Đạo kể xong ba câu chuyện hoa lài, con chó Tu Đi, sáu con mèo, chàng ngồi im trong mấy sát na, rồi nhìn Đăng Triệu, cất lời hỏi:

- Huynh có biết nhân duyên nào làm cho ba đóa hoa lài trắng thành màu vàng, con chó Tu Đi trở nên ngoan ngoãn vâng lời và nhiều việc làm chùa của Sư bà Diệu Từ, từ chỗ bị chướng duyên đến được thuận duyên, hanh thông, có các quý nhơn đến giúp đỡ, vân vân… biết không?

- Biết chớ! Điều đó đâu có gì là khó! Lấy cái chìa khóa “Chơn tâm chuyển vật” ra mà mở, là sẽ thấy biết hết.

- Chìa khóa đó như thế nào, Đăng Triệu kể cho mình nghe để được biết thêm.

- Vâng, tôi nghĩ rằng anh dư biết, tuy nhiên anh yêu cầu, tôi xin kể.

 

CHƠN TÂM CHUYỂN VẬT

Cụm từ Chơn Tâm Chuyển Vật, rất phổ cập trong Phật giáo, vì đó là một đạo lý vô ngã không gì khác hơn. Những người tu hành trong đạo Phật cần có chơn tâm vô ngã thì mới đạt được tất cả những gì mong cầu: như mong sao được giải thoát, cầu xin chư Phật Bồ Tát gia hộ tha lực, mong các việc hóa độ chúng sanh được thành tựu viên mãn, mong sao chúng sanh hiểu lời pháp mình nói ra, vân vân…

Con người muốn có chơn tâm vô ngã, ắt phải học và tu tập Phật pháp thì mới có tâm vô ngã. Có tâm vô ngã thì mới có chơn tâm. Chơn tâm là vô ngã, vô ngã trong ba đời quá khứ vô ngã, hiện tại vô ngã và tương lai vô ngã. Quá khứ gần, như vừa thức dậy sáng sớm, tâm an trú vô ngã, trưa vô ngã, chiều vô ngã trong mọi sinh hoạt đời sống và thực hành các pháp bố thí, cúng dường, giúp người bị khó khăn, vân vân… đều vượt thoát mọi ý niệm về ngã. Rồi luôn luôn nuôi, đừng cho mất  ý niệm vô ngã qua ngày, tháng, năm, suốt đời sống ở kiếp này, đến kiếp sau. Cứ như thế mà liên tiếp vô ngã, nên gọi là ba đời vô ngã. Con người vốn được có chơn tâm vô ngã của kiếp trước cho nên sinh ra làm người kiếp này, họ có ngay tâm từ bi rộng lớn biết thương người, ra tay giúp đỡ vật chất, được mọi người đến giúp đỡ lại, rồi xông pha dấn thân làm các việc từ thiện cho chúng sanh, được chúng sanh khởi tâm tôn kính mà xông pha dấn thân đến hộ giúp các việc. Tâm con người vốn có chơn tâm vô ngã luôn luôn được chư Phật, Bồ Tát thấy biết, đến giúp đỡ bằng nhiều cách hữu vi và vô vi. Cho nên chơn tâm vô ngã là đạo cảm thông với chư Phật, Bồ Tát rất là vi diệu, khó mà diễn tả được (Đạo cảm thông nan tư nghì).

Qua vô số việc tu hành, Phật sự, phụng trì đạo pháp, hoằng hóa độ sanh của Sư bà Diệu Từ mà cô Huệ Lan Phương đã ghi chép vào nhựt ký, rồi anh Tuệ Đạo đã kể cho tôi nghe, làm cho tôi nhớ lại cái chìa khóa “CHƠN TÂM CHUYỂN VẬT”. Tôi nghĩ rằng: các bậc đạo sư chơn tu trong Phật giáo ai cũng phải có. Nếu không có, làm sao có thể chuyển hóa được tâm tánh vô minh, si mê, ác trược, tham sân, chấp ngã… của chúng sanh nói chung, được trở lại tánh Phật. Cho nên Sư bà Diệu Từ vốn có chơn tâm vô ngã, đó là một quy luật, nói theo quy luật của Hoa Nghiêm “thử hữu cố bỉ hữu”, cái này có, cái kia có, chứ không phải nói xua nịnh. Vì thế Sư bà được chư Bồ Tát Quán Thế Âm, Địa Tạng, Tùng địa dõng xuất và quý nhân đến giúp đỡ qua nhiều cách, nhiều việc được thành tựu viên mãn.

Để rõ thêm cái lý của chìa khóa CHƠN TÂM CHUYỂN VẬT, tôi mạo muội cắt nghĩa:

Chơn tâm, là cái tâm giác ngộ (trung hay đại) thanh tịnh, vô ngã Niết Bàn tịch diệt, đại bi và đại trí tuệ ba la mật.

Chuyển vật, là làm thay đổi vị trí môi trường, thay hình đổi dạng các vật thể vô tình như cỏ, cây, hoa, lá… và màu sắc. Chẳng hạn ba đóa hoa lài màu trắng thành màu vàng. Làm chuyển đổi tâm tánh hung dữ, ác độc của con người và súc vật được bớt đi, giảm dần, rồi trở thành hiền lành, ngoan ngoãn, tuân phục… bởi chơn tâm vô ngã có đại từ bi, đại trí tuệ, chứ không do sử dụng vũ lực, dao búa, gậy gộc để bắt ép gọi là huấn luyện thuần thục, vâng lời làm theo, như những người nài huấn luyện voi, cọp cho thuần thục để làm xiếc lấy tiền du khách đến xem coi. Do vậy, một vài nơi, người điều khiển voi, cọp làm xiếc đã bị voi cọp nổi điên quật chết. Chẳng hạn vừa rồi (năm 2007) ở Đắc Lắc (Buông Mê Thuộc) tại chỗ voi làm xiếc, người hướng dẫn du lịch đã bị con voi dẫm chết. Tại Las Vegas Hoa Kỳ, người điều khiển con cọp làm xiếc đã bị con cọp vồ chết.

Chỉ có chơn tâm vô ngã biết thương yêu con người và loài vật, vì tâm không còn các chủng tử tham sân, chấp ngã, sát hại. Đó là năng lực khiến cho mọi người đến mình, các thú dữ đến mình một cách hiền lành như bạn thân thương và kể cả tự tình nguyện giúp đỡ. Như lúc Đức Phật tu dưới cội Bồ Đề bị trời mưa lớn, tức thì có con rắn thần đến phía sai lưng ngài, dương cao cái đầu lên, xòe mang ra che mưa cho ngài, cũng như những con khỉ đến dâng cúng trái cây cho Ngài. Sau khi thành đạo, trên đường hoằng hóa độ sanh, Đức Phật bị vua A Xà Thế ám hại bằng cách cho bầy voi uống rượu, rồi xua voi ra cửa thành để hại Phật, nhưng tất cả những con voi trong bầy đều tự quỳ xuống, cúi mặt, đưa vòi sát đất một cách im lặng. Từ đó về sau, không những hết tìm cách hại Phật, vua A Xà Thế còn tìm đến Phật để xin ăn năn hối lỗi và xin quy y theo Phật.

Ngay cả trên quê hương Việt Nam trong quá khứ, có hai vị đạo sư chơn tu được các thú dữ đến làm thân và tu theo hai ngài, đó có cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm và vị tổ chùa Trà Cú trên núi Trà Cú ở Phan Thiết.

Vị tổ chùa Trà Cú Phan Thiết, người Phú Yên vào Phan Thiết, rồi nhắm hướng tây mà đi đến dưới chân núi Trà Cú, sau đó ngài leo lên tới đỉnh, tự mưu sinh một mình ở đó bằng trồng trọt bắp, khoai và dùng cái hang sâu làm chùa để tu. Do ngài có tâm chơn tu, vô ngã, biết thương yêu loài vật, cho nên có hai con cọp một trắng, một đen đến lân la bên ngài, ngày đi kiếm ăn, tối về nằm trước hang. Sáng ra, ngài cuốc đất trồng khoai, hai con cọp cũng đến bới đất với ngài. Có khi ngài ngồi nghỉ mệt, chúng nằm bên ngài như hai đứa trẻ con. Suốt khoảng thời gian ngài không ra hang, do thiền định để xả bỏ báo thân về cõi Phật, hai con cọp cứ nằm ngòai hang mãi, không đi kiếm ăn, qua nhiều ngày tháng, chúng đã qua đời, xả bỏ báo thân súc sinh.

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, nguyên giáo thọ Phật Học Viện Huệ Nghiêm Sài Gòn. Trước 30.4.1975, ngài lên Đại Ninh, cất cốc tu thiền và niệm Phật. Cái am Thiền của ngài tọa lạc trên vùng đất của quyến thuộc rắn, do vậy khi ngài ngồi tụng kinh trước bàn Phật, là có vài con rắn lớn, nhỏ bò từ ngoài cửa vào, nằm gần đó một cách im lặng. Tụng kinh xong, ngài nói: “Các con về đi, để thầy ngủ”. Chúng liền bò đi hết. Có khi giữa đêm, ngài Thiền Tâm bước xuống đơn (giường), chân ngài dẫm lên thân con rắn thật to, nhưng nó vẫn nằm im. Suốt bao nhiêu năm tháng tu hành tại am cốc ở Đại Ninh, Hòa Thượng Thiền Tâm, lúc nào cũng có những con rắn đến, rồi đi, đi rồi đến hằng ngày, hằng đêm trong trạng thái hiền lành riu ríu. Có lẽ chúng có cảm thương Hòa Thượng, cho nên lúc Hòa Thượng viên tịch, số rắn về chùa ngài nhiều hơn lúc trước. Đến khi chư Tăng Ni và Phật tử làm lễ nhập kim quan vào tháp, chung quanh gần đó có nhiều con rắn nhỏ, lớn nằm la liệt, hướng mặt vào tháp. Xong lễ, chúng bò đi hết. Từ đó về sau, chư Tăng Ni Phật tử về tụng kinh tại am cốc của Hòa Thượng, không thấy rắn xuất hiện nữa.

Ba câu chuyện: bầy voi say rượu quỳ rạp trước Phật, hai con cọp trắng đen nằm trước hang vị tổ chùa Trà Cú và dòng họ rắn vào am thiền Hòa Thượng Thiền Tâm ở Đại Ninh ĐàLạt, là ba câu chuyện chơn tâm chuyển vật hữu tình chúng sanh. Sau đây Đăng Triệu kể tiếp câu chuyện chơn tâm chuyển vật vô tình. Anh Tuệ Đạo muốn nghe nữa không?

- Muốn chứ sao không! Lời xác định của Tuệ Đạo.

- Rồi, tôi xin kể tiếp. Tại tỉnh Phú Yên, xã Phú Thứ, cố Hòa Thượng Hương Tích (chùa của ngài là Hương Tích). Hòa Thượng Hương Tích là một bậc chơn tu, được toàn dân Phú Yên biết đến đạo hạnh chơn tu của ngài. Pháp môn tu của ngài là trì thần chú Đà La Ni và niệm Phật A Di Đà. Do tích cực công phu trì chú, niệm Phật một cách thường hằng trong chánh định, nên tâm ngài luôn luôn không loạn động (bất loạn). Tâm chánh định, bất loạn, là năng lực làm chuyển đổi vật vô tình. Vật vô tình được chuyển, đó là nước. Một ly nước lạnh được để trên bàn Phật, trước mặt ngài suốt thời gian một ngày đêm, ngài nhìn vào ly nước cùng với miệng và tâm ngài trì chú Đại Bi, Chuẩn Đề, Tiêu Tai Kiết Tường, v.v… Sau đó ly nước có độ nóng trên 40 độ. Ngài đem ly nước đó cho những người dân trong xã gần và xa bị bất cứ các thứ bịnh, uống vào liền làm cho cơn bịnh từ từ được thuyên giảm và hết hẳn.

Các đạo sư Tăng Ni chơn tu, không những sử dụng “thần dược chơn tâm” để chuyển vật vô tình mà còn để chuyển vật vô hình nữa; như các con bệnh điên, bệnh tà và nan y như phong cùi, lở lói trong xương tủy, trên da thịt, nội tạng của con người, tức là chữa trị các thứ bịnh ấy được dứt hẳn. Từ chỗ này, tôi có một nhận thức, các thứ bệnh trong bản thân con người, chính là những vong linh đột nhập vào để trả oán, do bị người ấy (người bị bịnh…) sát hại ở kiếp trước, như Triệu

Thố đã bị Viên Án xử chết oan, nên đã nhập vào bản thân Viên Án ở kiếp sau là Ngộ Đạt quốc sư, để báo oán bằng thân hình mụn ghẻ mặt người ở đầu gối ngài Ngộ Đạt thật ghê rợn!

Anh Tuệ Đạo có ý kiến gì qua câu chuyện “Chơn Tâm Chuyển Vật” tôi vừa kể?

- Anh Đăng Triệu, theo tôi thấy đó là một đạo lý, được xem rất là mới, tuy rằng “chơn tâm” lâu nay ai cũng biết, nhưng chưa có ai tìm ra tính chất chơn tâm, chính là một thần dược có năng lực chữa trị được tất cả các thứ thân bịnh, tâm bịnh, việc nan giải, chướng duyên, trắc trở, khó khăn, âm mưu, thủ đoạn, vu oan, vu khống, ganh tỵ, vân vân… đều hết bịnh, hanh thông, thành tựu, kết quả tốt, thắng lợi… thì nay, huynh Đăng Triệu đã tìm ra như vậy, thật là đáng tôn vinh bậc thầy.

Nghe Tuệ Đạo tôn vinh bậc thầy, Đăng Triệu nhìn Tuệ Đạo, nghiêm nét mặt cùng với lời hỏi:

- Ngài tôn vinh tôi thật hay xạo, hởi ngài?

- Thật chứ, làm sao xạo được! Bởi vì câu chuyện Đăng Triệu kể là một đạo lý hiển nhiên vô giá, như tôi đã khẳng định, làm sao xạo được! Tại vì huynh khiêm nhường nên không muốn tôn vinh, đúng chưa?

- Đúng như vậy. Tôn vinh thật, tôi cũng không dám nhận. Bởi vì tôi đâu có tài cáng gì? Sở dĩ tôi thấy được chơn tâm của các vị Tăng bảo chơn tu như là một thần dược, là do được nghe chư Tăng kể và đọc qua những tài liệu nói về các bậc đạo sư chơn tu thường có chơn tâm chuyển được vật vô tình, hữu tình, như tôi vừa trình bày cho huynh nghe. Cũng như do được huynh kể cho nghe hằng trăm mẫu chuyện của Sư bà Diệu Từ khi còn ở tuổi ấu niên, thiếu niên, đã có tâm biết thương người nghèo khổ túng thiếu vật chất, mà đem bố thí vật chất, biết thương kính Tăng bảo ăn chay cực khổ, liền phát tâm cúng dường tịnh tài, cũng như biết chúng sanh (con người) là Phật sẽ thành, bằng quyết chí học và tu tập Phật pháp, cho nên Sư bà Diệu Từ đã quyết chí xuất gia ở tuổi thiếu niên và tích cực học tập Phật pháp bằng hành Bồ Tát đạo trong nhiều lãnh vực, mà pháp bố thí cúng dường được đặt lên hàng đầu một cách liên tục không ngừng nghỉ trong mọi môi trường Ni viện, ngoài xã hội trường đời, qua nhiều hoàn cảnh nghịch duyên, nghịch cảnh, thuận duyên, nhưng tâm vẫn an bình thị đạo tiến bước trên vận hành Bồ Tát đạo. Được như vậy, là do cái đầu tàu bố thí cúng dường, luôn được có pháp hỷ sung mãn, là năng lực kéo theo năm toa: Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định và Trí tuệ ba la mật đa, tức là tiến mãi và tiến mãi tới bờ giác cho người, cho mình. Vì thế mà con tàu Sáu Pháp Qua Bờ của Sư bà được chạy xuyên suốt qua các đoạn đường đầy bão tố phong ba cảnh giới thế gian, phiền não khách trần trong và ngoài Ni viện trên quê hương thuở xưa và hôm nay ở hải ngoại, chưa hề có lần nào con tàu Bồ Tát đạo của Sư bà bị dừng lại bởi những cái mô chướng duyên hay phiền não nào cả. Từ chỗ này, tôi nhận ra: Sư bà Diệu Từ là một bậc đạo sư chơn tu, vì Sư bà đã chuyển những chướng ngại, chướng duyên được hanh thông, thuận duyên, thận lợi, các âm mưu đánh phá tự tan biến, các quý nhơn đến giúp đỡ, con Tu Đi nhận biết lời dạy bảo của Sư bà nên nó ngoan ngoãn, tuân lời làm theo, vân vân… giống y như những bậc đạo sư chơn tu có chơn tâm chuyển vật vô tình, hữu tình như tôi đã vừa kể cho huynh nghe đó. Ngoài chuyển vật hữu tình, vô tình, chướng duyên thành thuận duyên ra, Sư bà còn chuyển vật gì khác nữa không, anh Tuệ Đạo?

- Có, Sư bà có chuyển được nhiều căn bịnh của các Phật tử được lành bịnh.

- Như vậy, anh Tuệ Đạo kể luôn bây giờ cho tôi nghe, được không? Lời yêu cầu của Đăng Triệu.

- Chưa có thể kể hôm nay được, để kỳ tới đi. Tụi mình còn nhiều ngày ở đây mà, lo gì! Bây giờ tôi xin kể tiếp ngày khánh thành Quan Âm Các.

 

KHÁNH THÀNH QUAN ÂM CÁC

Đến ngày 6 tháng 4 năm 1997, nhằm ngày 29 tháng 2 năm Đinh Sửu, là ngày Sư bà chọn tổ chức lễ khánh thành Quan Âm Các. Sáng hôm ấy, không gian Sacramento ở vào giữa xuân, nên có nắng ấm, do vậy mới sáng sớm 6 giờ AM, hàng ngàn nam nữ Phật tử các giới ở khắp mọi nơi vân tập về chùa Diệu Quang thật đông đảo, thật chân tình thân thương với nhau trong giờ phút đợi chờ hành lễ.

Ngày đại lễ khánh thành Quan Âm Các thật là đông đúc Phật tử các nơi về tham dự với số lượng trên hai ngàn người, trong đó Phật tử chiếm hơn một nửa, còn lại là quan khách và chính quyền địa phương. Cho nên không ai bảo ai, tất cả mọi người, kể cả các quan khách chính quyền về tham dự là người Mỹ đều tự động đứng, ngồi vào vị trí hành lễ thật im lặng và trang nghiêm, chắp tay hướng lên lễ đài nơi có hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm và chư Tăng Ni tụng niệm, phát biểu, ban huấn từ…

 

HÀO QUANG NĂM SẮC TRÊN ĐỈNH QUAN ÂM CÁC

Giữa giờ phút trang nghiêm thanh tịnh ấy, không gian chung quanh chùa Diệu Quang bỗng nhiên nổi gió không mạnh lắm, đủ làm cho cây cối, hoa lá lắc lư. Rồi không lâu sau đó, vòm trời thủ phủ đang trong sáng, lại từ từ đổi sang màu xám chứa đựng không khí êm dịu,  mát rợi, khác hẳn bầu trời chuyển mưa. Kế đó, các quan khách và hàng ngàn Phật tử đang trong trạng thái nghiêm trang dự lễ, lại đổi sang trạng thái xôn xao nói với nhau: “ô kìa Phật hiện, Phật hiện trên nóc Quan Âm Các, hãy nhìn lên, nhìn lên!”

Những tiếng gọi nhau “hãy nhìn lên” đang thì thầm chung quanh tôi. Tôi, Huệ Lan Phương, liền nhìn lên, tôi đã thấy rõ tận mắt luồng ánh sáng tổng hợp nhiều màu sắc xanh, đỏ, cam, vàng, tím, hồng từ không trung chiếu thẳng tắp xuống ngay đỉnh Quan Âm Các. Khi tôi nhìn lại chung quanh tôi, tôi thấy một số Phật tử đứng trước và hai bên trái phải của tôi đang quỳ xuống và lạy một cách chí thành.

Vì thế cho nên, hàng ngàn Phật tử, các quan khách, trong đó có ông Thị Trưởng thành phố Sacramento, tất cả ai cũng nhìn thấy ánh hào quang 5 sắc trên hư không ở giữa đỉnh Quan Âm Các trong giờ hành lễ khánh thành một cách im lặng, trật tự, kể cả những người quay phim, chụp hình hướng lên không trung đều giữ im lặng trong lúc di động đôi chân.

Thời gian những tia sáng nhiều màu sắc chiếu rọi trên đỉnh Quan Âm Các không lâu, chừng hơn nửa giờ là hết.

 

HÌNH ẢNH BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRÊN BẦU TRỜI

Một thú vị tuyệt vời hơn hết, đó là ánh hào quang năm sắc rộng lớn xuất hiện trên không trung ngay giữa nóc Quán Âm Các và hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát cao lớn trắng xóa xuất hiện giữa bầu trời ngoài không gian chùa cách xa độ năm, sáu miles trong buổi lễ khánh thành hôm ấy lúc giờ ngọ.

Ánh hào quang năm sắc trên đỉnh Quan Âm Các được Phật tử phát hiện và quay phim giữa lúc hành lễ. Còn hình Bồ Tát Quán Thế Âm cao lớn, trắng trong bầu trời được một gia đình Công giáo đang đi xe van trên xa lộ thấy được liền quay thành phim, sau đó họ đem đến kính tặng cho Sư bà để làm tài liệu chứng minh cho thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong ngày đại lễ khánh thành Quan Âm Các.

Cả hai hình thái Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện được Phật tử chùa Diệu Quang Sacramento góp lại thành phim để cho Phật tử xa gần được biết sự xuất hiện của Bồ Tát Quán Thế Âm bằng nhiều cách. Ngay trong ngày lễ khánh thành, mà ta đã thấy Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện hai cách hào quang năm sắc chiếu rọi rõ ràng và hình tượng trắng như tuyết trên hư không với thời gian hơn một giờ ba mươi phút mới từ từ lặn trong không gian vô tận.

Là Phật tử nói riêng, nếu ai không tin, không thấy hiện tượng hào quang 5 sắc của Bồ Tát Quán Thế Âm hiện hữu trên hư không ở giữa đỉnh Quán Âm Các trước đây, hãy hỏi Phật tử ở Sacramento, đa số vẫn còn in đậm trong tâm thức sự hiện hữu của Bồ Tát Quán Thế Âm bằng hào quang 5 sắc, không bao giờ quên vì đã nhìn thấy tận mắt trong giờ hành lễ khánh thành.

Vấn đề hào quang 5 sắc giữa hư không trên đỉnh Quán Âm Các chùa Diệu Quang trong giờ hành lễ, là hiện tượng mầu nhiệm của chư Phật, Bồ Tát ứng hiện ra để gia trì hộ niệm cho những ai trong đạo Phật có quyết tâm tu hành, cầu nguyện, niệm Phật, trì tụng kinh chú Đà La Ni, như Sư bà Diệu Từ đã từng cầu nguyện. Đó là điều rất phổ biến đối với Tăng Ni và Phật tử trong Phật giáo từ ngàn xưa và hôm nay.

Với hàng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong nước và hải ngoại, ai cũng dư biết sự thị hiện của chư Phật, Bồ Tát bằng hào quang năm sắc hay một sắc để gia trì hộ niệm cho các hành giả nào được có chơn tâm thanh tịnh, là năng lực giao cảm với chư Phật và Bồ Tát, mà Sư bà Diệu Từ, được điển hình rõ nét.

Qua thời gian lễ khánh thành, sau đó một vài tháng, vào một sáng chủ nhật, Sư bà và Ni sư Tịnh Lạc cùng chư Phật tử đang làm lễ như thường lệ hằng tuần. Lễ vừa xong, bầu trời đang sáng, bỗng dưng âm u và một ngọn gió không mạnh lắm thổi qua cây lá. Thấy vậy, Sư bà, Ni sư Tịnh Lạc và các Sư cô, cùng Phật tử ra xem. Khi nhìn sang Quán Âm Các, mọi người đều thấy rõ trên đỉnh Quán Âm Các đang có một vòng cầu ánh sáng bảy màu rực rỡ.

 

BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM GIÁO CHỈ SƯ BÀ DIỆU TỪ

Qua hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện tại không gian Diệu Quang ở thủ phủ Cali trong ngày lễ khánh thành Quán Âm Các, cho ta thấy rõ ràng sinh mệnh sống còn và sự nghiệp phụng trì chánh pháp Như Lai của Sư bà Diệu Từ, luôn luôn được gắn liền với Bồ Tát Quán Thế Âm cửu trụ ngàn đời như đứa con thơ được mẹ hiền quan tâm dìu dắt, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần. Để chứng minh sinh mệnh của Sư bà Diệu Từ luôn được gắn liền với Bồ Tát Quán Thế Âm qua lời giáo chỉ của Bồ Tát Quán Thế Âm sau đây:

Một chiều nọ, sau khi xong lễ vài ngày, Sư bà đứng nhìn lên toàn bộ Quán Âm Các để thưởng thức thành quả mẹ hiền Quán Thế Âm ban cho, thì phía sau lưng Sư bà có tiếng nói: “Xong chỗ này nên đi mở rộng chỗ khác”. Tiếng nói có âm điệu của bà già Việt Nam. Sư bà Diệu Từ liền quay lui, quả thật thấy hình bóng của một bà già có thân tướng Việt Nam, phục sức màu nâu sồng bước ra cổng chùa, rồi mất dạng trong bóng chiều hoàng hôn đang lên dần.

Quả thật không lâu sau lễ khánh thành Quán Âm Các được hơn hai tháng, có một số phái đoàn hành hương từ Houston, Boston, Virginia, Arizona, Orange County đến hành hương chiêm bái Quán Âm Các. Nếu không nói, đó là một duyên lành để lập chùa Diệu Quang và Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Diệu Không ở Orange County. Quả thật, sau đó phái đoàn Phật tử từ Orange County lên cung thỉnh Sư bà về lập đạo tràng tu học cho họ. Trước lời cầu thỉnh của Phật tử, Sư bà không lấy gì làm mừng, vì không muốn có nhiều cơ sở, chỉ muốn một hải đảo tịnh độ Diệu Không chùa Diệu Quang tại Sacramento là đủ rồi. Nhưng Phật tử Orange County lại lên nữa, đem hết lòng thành mong muốn Sư bà về với họ, để họ được tắm mát trong dòng cam lồ pháp vũ Quán Thế Âm mà Sư bà đang có. Trước tấm lòng thiết tha vì Đạo pháp của hàng Phật tử Orange County, Sư bà Diêu Từ nhận lời.

Ngôi Tam bảo Diệu Quang 2 càng lúc càng phát triển trên nhiều mặt tu học, từ thiện, văn hóa, thi ca, cũng như quang cảnh được trong sáng thiền môn an định. Tất cả đều do Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện gia trì tha lực hộ niệm cho, nên mới được thành tựu ngay từ thuở chân ướt chân ráo mới về cho đến hôm nay, vẫn tiếp tục phát triển dưới ánh hào quang chiếu rọi của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Cho nên nói đến Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, là ta thấy ngay hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lúc nào cũng hiện hữu ở hai ngôi Tam bảo Diệu Quang. Hay nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta thấy ngay người mẹ hiền của Sư bà Diệu Từ. Sư bà Diệu Từ là người con trưởng nữ của Bồ Tát Quán Thế Âm có tài đức Phật giáo và dân tộc, vì thế được Bồ Tát Quán Thế Âm thương yêu, thường hằng quan tâm thị hiện gia hộ một cách mầu nhiệm qua hình ảnh hữu vi và vô vi.

Hình ảnh hữu vi như đã nói, đó là hình tướng cao lớn trắng xóa trên không trung, ánh hào quang năm sắc rõ ràng và thân tướng bà lão phục sức nâu sồng.

Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện bằng hình tướng hữu vi rất là giới hạn. Bằng hình tướng hữu vi, là khi nào Đạo pháp tại nơi nào đó do các vị Tăng bảo chân tu hành hoạt độ sinh, lại bị những kẻ vô minh trong và ngoài bản thân Phật giáo đánh phá với mức độ cực kỳ nghiêm trọng, thì Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện bằng hình ảnh hữu vi giữa lúc Đạo pháp chưa thành tựu hay là sau khi thành tựu, như là lời nhắn nhủ các Tăng bảo chân tu đang hành hoạt Đạo pháp, nên an tâm mà tiến bước, đừng sợ hãi kẻ vô minh đánh phá, chỉ sợ rằng mình không có chân tu, tài đức mà thôi. Vì thế Sư bà Diệu Từ đã và đang an nhiên tự tại dũng mãnh, càng lúc càng tăng trưởng Bồ Đề tâm trên bước đường hoằng dương chánh pháp độ sanh tại quận Cam từ buổi đầu tiên cho đến hôm nay không ngừng phát triển Đạo pháp.

Hình ảnh hữu vi của Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện, cũng chính là lời nhắn nhủ giáo huấn riêng cho hàng Phật tử, ai là người đã và đang thọ nhiều giới pháp, trong đó Bồ Tát giới là sinh mệnh sống còn được gắn liền với chư Bồ Tát, mà lại sanh tâm bài bác sự thị hiện của Bồ Tát Quán Thế Âm, cho là giả tạo. Hữu hình như vậy mà không tin, không thấy sự mầu nhiệm hiện thân của chư Bồ Tát, huống là vô hình làm sao thấy được, tin được. Nếu vậy tự phản lại lời đọc tụng kinh Phổ Môn của mình. Chỉ có những bậc chân tu có tâm thường rỗng lặng, cộng với tấm lòng tác bạch cầu xin lên Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ cho, thì mới được tiếp nhận tha lực gia hộ một cách mầu nhiệm.

Sư bà Thích Nữ Diệu Từ đã và đang được tiếp nhận cả hai sự thị hiện gia hộ mầu nhiệm hữu vi và vô vi của Bồ Tát Quán Thế Âm ban cho nhiều năm qua, nay vẫn còn tiếp tục được tiếp nhận, nhất là thị hiện gia hộ vô vi mầu nhiệm.

Phật tử Việt Nam trong và  ngoài nước nếu thật sự có học và tu tập Phật pháp đều biết sức mạnh Bồ Đề tâm, là năng lực giao cảm với chư Phật, Bồ Tát trong mười phương. Cho nên bất luận là ai, Tăng, Ni hay Phật tử nếu có Bồ Đề tâm trong lòng dù cao hay thấp mà hướng tâm lên chư Phật, Bồ Tát, cầu nguyện điều gì, thì nhất định chư Phật, Bồ Tát liền thị hiện ngay bằng hình tướng hữu vi, vô vi hộ niệm cho điều ấy được hanh thông, thành tựu.

Để cho hàng Phật tử xa gần khắp nơi trong và ngoài nước, không thể khởi tâm nghi ngờ gì nữa về những hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện hữu vi, vô vi hộ niệm gia trì cho Sư bà Diệu Từ suốt tiến trình xây dựng ngôi Tam bảo Diệu Quang, Trung Tâm Phật Giáo Văn Hóa Diệu Không ở Sacramento và Orang County luôn được hanh thông mọi việc nên được thành tựu viên mãn, là do Sư bà Diệu Từ và cả đại chúng xuất gia, tại gia, ai cũng có sức mạnh Bồ Đề tâm trên dòng tâm thanh tịnh vừa quyết chí xây dựng vừa cất cao lời cầu nguyện… hướng lên chư Phật, chư Bồ Tát, nhất là Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên luôn được bình an vô sự, các ác duyên không đến được, lại được thiện duyên đến nhiều hơn trước, là nhờ tha lực của Bồ Tát Quán Thế Âm gia trì, hộ niệm cho Sư bà Diệu Từ. Nhờ vậy mà Sư bà Diệu Từ đã được thành tựu viên mãn lớn, nhỏ các công trình xây dựng giáo vụ văn hóa và cơ sở Tam bảo. Tuy nhiên, không phải khoanh tay ngồi đó mà được việc, phải sử dụng tài, đức vốn có trong bản thân tứ đại, ngũ uẩn cõi trần để tri hành tha lực giáo chỉ, hộ niệm vô tướng, vô vi của Bồ Tát Quán Thế Âm ban cho mà hành động tạo tác vào sự việc hữu vi, hữu tướng vật thể, thì mới có thể thành đạt tất cả giáo vụ Tam bảo một cách viên mãn.

 

HOẰNG HÓA ĐỘ SANH

- Đăng Triệu biết không, trong tập nhật ký số hai của cô Huệ Lan Phương không có đề tài “Hoằng Hóa Độ Sanh”, chỉ có hai đề mục “Làm Thầy Thuốc” và “Thi Ca” là hết. Đề mục “Hoằng Hóa Độ Sanh”, do tôi sáng tác, nhân cơ hội đọc trong tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Thượng Tọa Tuệ Sỹ ở chương hai, trang 51, tôi thấy được lời giáo chỉ của Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ Kheo “Hãy lên đường hoằng hóa độ sanh”.

- Lời giáo chỉ của Đức Thế Tôn  như thế nào, anh Tuệ Đạo?

Lời hỏi của Đăng Triệu.

- Lời giáo chỉ như thế này: “Hãy lên đường, này các vị Tỳ Kheo, vì ích lợi cho sô đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gian, vì lợi ích và an lạc của chư Thiên và nhân loại.” Đó là lời dạy của Đức Thế Tôn cho các đệ tử đầu tiên, sau khi tất cả đều đắc quả A La Hán. Sứ đoàn truyền giáo đầu tiên xuất phát từ đó với mục đích đó.

Qua lời giáo chỉ của Đức Thế Tôn dạy cho chư vị Tỳ Kheo hãy lên đường độ sanh, cách nay đã hơn 26 thế kỷ, mà vẫn còn vang dậy trong tâm tôi, làm cho tôi thấy rõ được hằng vô số lần lên đường độ sanh của Sư bà Diệu Từ trong quá khứ lúc còn bé chưa xuất gia và đã xuất gia trên quê hương và hải ngoại hôm nay vẫn tiếp tục lên đường độ sanh, là do vốn có đại cội Bồ Đề tâm bừng dậy và vươn tới, là năng lực khởi tâm muốn độ và hành động lên đường để độ, chưa nói vai trò và bổn phận của Tỳ Kheo phải độ sanh, là đằng khác. Do đó mà Tuệ Đạo tôi mới sáng tác thêm đề tài “Hoằng Hóa Độ Sanh” được chỉ riêng vận hành độ sanh của Sư bà Diệu Từ để cho mọi người biết được giáo vụ hoằng hóa độ sanh của chư vị Tỳ Kheo Ni rất là khó tri hành đúng tôn chỉ của Phật đã đề ra, mà Sư bà Diệu Từ đã tri hành được vô số lần được chứng minh qua hằng trăm câu chuyệc được cô Huệ Lan Phương ghi chép trong nhật ký là khổ sở và nhiêu khê vô cùng! Chỉ có những vị Tỳ Kheo nào vốn có đại cội Bồ Đề đang bừng dậy và vươn tới, mới có thể tri hành lời giáo chỉ lên đường độ sanh của Phật một cách dễ dàng, bằng không, không đem lại ích lợi gì cho chúng sanh!

Vì thế mà Thượng Tọa Tuệ Sỹ có ghi rõ câu “và mục đích đó không phải được vươn đến một cách dễ dàng!

- Huynh Đăng Triệu có ý kiến gì về lời giáo chỉ của Phật dạy các thầy Tỳ Kheo “hãy lên đường độ sanh”?

- Cảm ơn huynh Tuệ Đạo, tôi không có ý kiến gì cả!

- Như vậy, tôi xin đi sâu và cốt yếu của cụm từ “Hoằng Hóa Độ Sanh” được nói riêng ở Sư bà Diệu Từ, nói chung ở hàng xuất gia.

Hoằng Hóa Độ Sanh được cắt nghĩa là chuyển hóa các thứ tâm tham, sân, si, ngã mạn, ngã kiến, chấp trước… của con người trong mọi giai cấp được trở thành vô ngã, thanh tịnh trong sáng, là phương tiện qua bờ giải thoát bằng con đường học và tu tập Phật pháp.

Người đem giáo pháp chuyển hóa tâm ác của chúng sanh được thành thiện, chính là chư vị Tỳ Kheo có Bồ Đề tâm rộng lớn khởi lên ý niệm y giáo phụng hành lời Phật dạy độ sanh, liền lên đường mang gói hành trang Phật pháp đi khắp bốn phương để tri hành giáo chỉ Phật trong việc độ sanh, là một quy luật hiển nhiên, không thể không tuân thủ lời giáo chỉ Phật đối với các vị Tỳ kheo, một khi tự phát nguyện xuất gia do cội căn Bồ Đề rộng lớn vươn lên như hoa sen lên khỏi mặt nước ao hồ, thì mới có thể lên đường. Chứ chưa có cội Bồ Đề tâm bừng dậy vươn lên, lấy gì để lên đường? Sư bà Diệu Từ vốn có đại cội Bồ Đề tâm bừng dậy, vươn lên, nên đã lên đường độ sanh lúc còn ở tuổi thiếu nhi, như đã độ cho các ông, bà ăn xin, hai bạn gái cùng lớp là Kiên, Mai bằng vật chất, cũng như bằng lòng hoan hỷ sẵn sàng làm giúp nhiều việc khó khăn  khác cho các giáo viên và học sinh trong các lớp suốt mấy năm ngồi ở ghế nhà trường. Tất cả hành động cứu giúp đó đều là nghĩa của chữ độ. Rồi khởi lên ý niệm muốn xuất gia, liền lên đường xuất gia. Mặc dù bị chướng duyên trong giờ xuất hành, nhưng không đáng kể. Đáng kể là sức mạnh của tâm quyết  chí xuất gia, là cái lực tiến tới Bồ Đề đạo tràng, không có lực nào có thể ngăn cản được. Trong luật Sa Di gọi quyết chí xuất gia là “Hảo Tâm Xuất Gia Giả” là “đồng chơn nhập đạo”. Đó mới đích thực là trưởng tử của Như Lai, là Tỳ Kheo, vì đã bao lần khởi lên ý niệm muốn xuất gia tu hành để thành Phật. Mà những yếu tố để thành Phật, chính là những hành động độ sanh qua nhiều cách từ dễ đến khó, việc nhỏ đến việc lớn, dù sạch hay dơ, nghèo khó hay giàu sang… đều độ hết, không do dự tránh né. Sư bà Diệu Từ chưa đi xuất gia, đã độ cho mọi người trong các giới theo cách chưa xuất gia, khi đã được đi xuất gia, Sư bà Diệu Từ đã độ cho vô số con người trong mọi giai cấp theo cách xuất gia, nên rất tinh tấn dấn thân, xông pha hành động, làm nhiều việc thật là khổ thân một cách vô tư, vô điều kiện, bất vụ lợi, chỉ mong sao đem an vui lợi ích cho con người trong mọi giới, không qua lời khuyến cáo của ai cả, tự mình tình nguyện lên đường, trong khi chưa nghe lời giáo chỉ của Phật dạy các Tỳ Kheo lên đường, nhưng Sư bà Diệu Từ đã tự khởi lên ý niệm lên đường độ sanh ngay từ lúc còn bé chưa xuất gia. Khi đã được xuất gia, Sư bà đã dư biết lời chỉ giáo của Phật bảo các thầy Tỳ Kheo lên đường độ sanh, vì thế mà sự lên đường độ sanh của Sư bà càng lúc càng nhiều. Đó mới đích thực là hảo tâm xuất gia, đồng chơn xuất gia. Cho nên ý nghĩa lên đường mà Đức Phật đã chỉ giáo cho các vị Tỳ Kheo, là khởi lên ý niệm từ bi muốn độ chúng sanh, sau đó mới lên đường hành động độ sanh.  Chứ chưa khởi lên ý niệm từ bi muốn độ, thì không có những bước lên đường. Chúng sanh ở xa, thì lên đường bằng đôi chân, xe, tàu. Chúng sanh ở sát bên cạnh, cùng môi trường, thì thường hằng lân mẫn có lời chăm sóc, ra tay cứu giúp, như cứu giúp bạn cùng lớp, các Sư cô cùng trong Ni viện, v.v… Cả hai môi trường xa, gần dù khác nhau không gian, nhưng cùng một ý nghĩa lên đường, cùng một tâm khởi lên ý muốn giúp đỡ để độ cho con người nghèo đói được no, được ấm, được có giấy bút học hành.

Sau khi được xuất gia rồi, như cây ăn trái còn non được trồng xuống đất, được con người tưới tắm nước mát, bón phân, nên thân cây được phát triển, lớn lên, trổ cành, ra lá, đơm hoa, kết trái. Thân con người xuất gia được an cư vào chùa (tu viện) như cây được trồng vào đất. Được sư phụ chư vị tôn đức dạy cho học Phật pháp, văn hóa thế gian, thì như cây được tưới tắm, phân bón. Nhờ đó mà người xuất gia được tinh thông giáo điển Phật học, văn hóa thế gian. Từ đó ý niệm muốn cứu độ chúng sanh của Sư bà Diệu Từ ở các thời điểm Sa Di, Tỳ Kheo được tiếp nối khởi lên hằng trăm lần lớn, nhỏ cùng với hằng trăm lần lên đường hành động độ cho mọi người trong và ngoài Ni viện bằng vật chất và Phật pháp ở mỗi môi trường và thời đại khác nhau về cách độ. Ở cấp Sa Di, hành động độ chúng sanh có giới hạn. Đến cấp Tỳ Kheo, hành động độ chúng sanh được phổ cập rộng rãi và nhiều hơn trong mọi giai cấp có tầm vóc dân tộc và Đạo Pháp trong và ngoài Phật giáo, như đã được chứng minh qua nhiều mẫu truyện mà cô Huệ Lan Phương đã ghi chép đầy đủ.

Vô số cuộc lên đường độ sanh lớn, nhỏ của Sư bà Diệu Từ ở quá khứ trên quê hương và hải ngoại hôm nay, trong đó có những cuộc lên đường sau đây, được xem là cao thượng vô giá nhất. Chẳng hạn như: lên đường dấn thân, xung phong xuống hầm cầu tại Ni viện, ra tay múc phân cả trăm thùng. Lên đường xóm Cồn độ cho người dân nghề biển bằng vật chất và Phật pháp. Lên đường vào quân y viện Nguyễn Huệ để độ cho những thương binh bằng vật chất, tinh thần qua lời thăm hỏi và lời kinh cầu an. Lên đường vào trung tâm cai nghiện để độ cho những người bị nghiện thuốc phiện được hết bằng tắm rửa và bài pháp Tứ Đế. Lên đường đến vùng quê Diên Khánh để độ cho những người dân quê bằng vật chất và lời kinh, lời thăm hỏi chúc lành cho mọi người dân quê. Lên đường tiếp cư đồng bào Quảng Trị lánh nạn chiến tranh vào mùa hè đỏ lửa 1972 tại làng Quảng Đức để độ cho đồng bào bằng cơm áo, nhà ở, thuốc men và văn hóa Phật giáo. Lên đường đi lấy gạo, giày dép, v.v… giữa khói lửa đạn bay của mùa xuân 1975, để độ cho đồng bào Khánh Dương chạy về Nha Trang lánh nạn chiến tranh. Lên đường học thêu sau ngày 30.4.1975 để độ cho 300 cựu đoàn sinh GĐPT được có công việc làm giữa thời điểm khó khăn. Lên đường ra hải ngoại theo giáo chỉ của sư phụ và chư tôn đức để độ cho đồng bào Phật tử Việt Nam được tiếp tục nhận văn hóa Phật giáo và dân tộc để không bị vong bản. Lên đường xung phong làm trước các việc ở xưởng đóng tàu tại Nhật để độ cho số người Việt trong trại tỵ nạn được có việc làm mà kiếm chút lợi lạc vật chất và tinh thần ở niềm vui. Lên đường độ cho người phụ nữ người Việt trong trại tỵ nạn bị bệnh lao phổi bằng lời khuyên nên uống thuốc, chích thuốc trị bệnh lao để độ cho người phụ nữ ấy được sống còn, mà có thể sinh con cái và phát nguyện độ cho thai nhi bằng tụng kinh cầu siêu suốt 49 ngày sau khi bị trục ra. Lên đường xây dựng ngôi Tam Bảo tại Cali, để độ cho đồng bào Phật tử tại bản xứ bằng đạo pháp theo giáo chỉ của chư Phật, Bồ Tát bảo làm chùa để độ sanh. Lên đường xây dựng ngôi Tam Bảo Diệu Quang hai tại Quận Cam theo lời giáo chỉ của Bồ Tát Quan Thế Âm…                                                                              

            Qua vô số lần lên đường độ sanh của Sư bà Diệu Từ trong quá khứ và còn tiếp tục hôm nay, đều nhắm vào lợi ích, an vui vật chất, tinh thần giải thoát sinh tử cho số đông chúng sanh đúng theo lời Phật dạy, mà Tuệ Đạo vừa trình bày ở phần đầu của đề tài Hoằng Hóa Độ Sanh.

            Sở dĩ sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của Sư bà Diệu Từ càng lúc càng lớn mạnh qua vô số hình thái độ sanh khác nhau, từ lúc còn trong nước ra đến hải ngoại hôm nay, vẫn còn liên tục nhiều cách độ mới lạ và hiện đại hóa Phật giáo như vậy, là do có quá trình học Phật pháp uyên thâm và học văn hóa thế gian pháp ở cấp cao học. Chính là chất liệu kiến tạo ra lời nói và hành động khéo léo khi giảng Phật pháp và hướng dẫn cách thức tu tập cho Phật tử trong không khí linh hoạt và vui tươi, nhưng nghiêm túc.

            Nói về trạng thái khéo léo trong việc giao tế với con người ở ngoài đời và trong Phật giáo được mọi người trong các giai cấp ngưỡng mộ, cảm tình nghe theo, tuân thủ thi hành các việc…, phải nói rằng, ở phái nữ hơn nam. Nhất hạng là những người nữ nào trong Phật giáo hay ngoài xã hội có khả năng văn hóa dân tộc, thường có thái độ khéo léo trong giao tế, đối đãi với mọi người. Nhất hạng là những người nữ cư sĩ hay Tỳ Kheo Ni trong Phật giáo được có hai nền văn hóa dân tộc và Phật giáo, lại càng có thái độ khéo léo, cẩn trọng, tế nhị, tương kính, nhẫn nhục, nhưng sinh động và linh hoạt ở lời nói, hành động thân thương khi giao tế hàn huyên với mọi người, hay lúc nói chuyện về văn học, thi ca, nhạc thiền, kể chuyện, thuyết pháp, v.v… trước cử tọa hay đàm luận vê Đạo Pháp, văn học với những cá nhân, đều làm cho con người ngồi yên, lắng nghe một cách say mê suốt thời gian thuyết, luận đàm. Đó là sự thành công lớn của những người nữ có khả năng văn hóa cao do có quá trình lên đường nhiều lần bằng ý niệm, đôi chân muốn cứu giúp con người ở các việc, học hỏi thế gian pháp hay Phật pháp.

Đích thực Sư bà Diệu Từ đã được thành công trên vận hành hoằng hóa độ sanh nói riêng từ những bước thấp khi mới xuất gia ở cấp Sa Di và tuần tự tiến lên những bước thành công cấp trung sau khi thọ giới Tỳ Kheo, Bồ Tát. Rồi nhiều bước thành công lớn do qua quá trình vừa học Phật và thế gian pháp, lại vừa tu tập, hoằng hóa độ sanh trong các giáo vụ văn hóa tại Ni viện và giáo hội PGVNTN ở địa vị Ni sư, Sư bà trong quá khứ và hôm nay.

Sư bà Diệu Từ được thành công nhiều bước lớn, nhỏ giáo vụ độ sanh như vậy, là do được có phương tiện trí (trí độ), nên Sư bà biết căn cơ, trình độ, tâm lý chung của hàng Phật tử, mà sử dụng các thứ văn hóa thế gian pháp (văn thơ, thi ca, bài nhạc Phật giáo, thiền ca, các câu chuyện hữu ích về luân lý, xã hội, khoa học, v.v…) được chan hòa vào Phật pháp để hướng dẫn Phật tử dễ ngộ được đạo lý qua bờ (độ) theo đó mà tu tập, đó là một quy luật độ sanh, không thể không có đối với các trưởng tử Như Lai trong vai trò hoằng hóa độ sanh, đúng như lời lục tổ Huệ Năng nói “Thế gian pháp tức thị Phật pháp”. Cả hai thứ pháp ấy được tương duyên nhau rất hữu hiện trong việc độ sanh qua các đức tính tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định tỉnh thức, từ bi, hỷ xả. Đúng là cách cho hơn là của cho, cách hướng dẫn tu tập hơn là bài pháp. Sư bà Diệu Từ đã biết cách hướng dẫn hai thứ văn hóa ấy, nên Sư bà đã tự tạo ra cho mình một phong cách thuyết pháp, hướng dẫn Phật tử tu học rất phù hợp theo thời đại, mang sắc thái sinh động thật siêu việt qua lời giảng pháp tự nhiên, hướng dẫn cách tu tập tự nhiên, rõ ràng từng khế lý bài pháp, làm cho các cử tọa nhận thấy được con đường đạo trước mặt, đúng là Lyù làm sáng tỏ Đạo do vì thuyết giảng bằng tâm, đúng như lời Phật giáo chỉ cho chư vị Tỳ Kheo lấy tâm để thuyết pháp (tu xả vị thuyết tâm) thì lời pháp mới được đi sâu vào lòng người Phật tử tu học, không nên cố ý thuyết cho lanh lẹ, dùng văn sáo ngữ là sai nguyên tắc của thuyết pháp.

Rõ thực, lời thuyết pháp và cách hướng dẫn Phật tử tu tập của Sư bà Diệu Từ không có sắc thái rầm rộ, vang động, thật là nhẹ nhàng, nghiêm túc, giống như lời giảng bài cho học sinh trong các lớp trung học thuở xưa trên quê hương, đã từng là giáo sư dạy học. Thì nay không khác, vẫn lời nói chậm, nhẹ nhàng có âm điệu vui, có lúc cao và nhấn mạnh ở các điểm chính về  khế lý vô ngã giải thoát của bài pháp đang nói, rồi có lúc được lặp lại hai ba lần, cho mục đích đưa đạo lý vô ngã ấy, được ăn sâu vào vùng đất tâm linh của người Phật tử hiện hữu nơi đạo tràng tu học, giống như gieo hạt giống dưa, đậu, bắp vào lòng đất cho thật sâu. Hạt giống ở đây là hạt giống Bồ Đề.

Tuy nhiên trong lúc thuyết pháp và hướng dẫn cách tu tập cho Phật tử, Sư bà Diệu Từ không quên xen kẽ văn hóa thế gian pháp vào giữa giờ, hay gần cuối giờ theo quy định bằng cách kể một câu chuyện cổ Phật giáo, Thánh Hiền, luân lý thế gian, tất cả chứa đựng triết lý dạy cho con người biết sống có đạo Phật, đạo người trong lòng, hay có khi Sư bà hát một bài ca, cho nghe một bài nhạc Phật giáo do Sư bà sáng tác và hòa âm, v.v… để đánh thức tâm viên ý mã của Phật tử trong đạo tràng, ai cũng trở về thực tại mà an trú trong chánh niệm qua thư dãn tâm thân, để nghe tiếp Phật pháp sau đó.

Kể chuyện hay hát bài ca, Sư bà kể và hát đều đúng với nghệ thuật của mỗi thứ. Nếu nội dung của cốt chuyện buồn, éo le, bi thảm, Sư bà liền sử dụng lời nói có âm điệu buồn, trạng thái bi thảm giống như trạng thái, lời nói của các nhân vật và hoạt cảnh trong cốt chuyện, làm cho Phật tử ngồi im qua trạng thái buồn, như thể được nhìn lên màn ảnh vậy.

Với câu chuyện vui, Sư bà sử dụng lời kể vui, cùng với trạng thái vui lúc kể, để diễn tả đúng trạng thái vui của các nhân vật trong cốt chuyện, làm cho các Phật tử lúc nghe cũng vui theo, ai cũng bật cười rũ ra, cười ngất, như thể thấy được các nhân vật trong chuyện đang xuất hiện trước mặt.

Cũng thì cốt chuyện vui cười đó, một vài nam Phật tử sau khi nghe Sư bà kể, nhận thấy có đạo lý thiện trong đó, nên đem kể lại cho các con, cháu trong gia đình được nghe, nhưng chả có đứa con nào cười cả! Do vì không có nghệ thuật kể chuyện.

Về hát những bài ca Phật giáo, Sư bà hát đúng nghệ thuật. Nghệ thuật ở đây là, khi trầm bổng, cao thấp, ngân nga đúng nhịp, đúng tông trưởng hay thứ, đúng điệu slow, tango…,  chứ không phải lắc lư bản thân qua lại đang hát như các ca sĩ ngoài đời, mà gọi là nghệ thuật.

Nói đến nghệ thuật, là nói đến những hiện tượng hiện hữu, trong đó có âm thanh, màu sắc có chứa đựng sắc thái văn hóa sống động về buồn, vui, như các hình tượng điêu khắc, chạm trổ, vẽ tranh, thổi sáo, đánh đàn, sáng tác nhạc, ca ngâm, viết văn, làm thơ, diễn thuyết, lãnh đạo tập thể, tổ chức đội ngũ con người (Phật tử, thanh niên). Tất cả những hiện tượng ấy được kết quả tốt đẹp là do có nghệ thuật. Nghệ thuật được xuất phát từ tâm thức con người có văn hóa. Tâm con người có tính chất văn hóa, đều có một, hai, ba sở trường văn hóa nghệ thuật như giỏi về thơ, văn, viết nhạc, điêu khắc, cắm hoa, diễn thuyết, v.v… Đúng như trong Phật giáo có câu “nhứt thiết duy tâm tạo”. Tâm con người có tính chất văn hóa nhiều hay ít, thì chắc chắn có tác phẩm, lời nói, việc làm của họ đều có văn hóa và nghệ thuật. Đúng như ngạn ngữ Việt Nam có câu “ có văn có chất mới thật con người”. Chư tôn đức trong Phật giáo Việt Nam cũng có câu tương tợ “có văn có pháp mới thật Tỳ Kheo”. Nói khác hơn nữa “Tâm nào thì lý đó, lý làm sáng tỏ đạo. Văn hóa làm nên nghệ thuật. Nghệ thuật là văn hóa”.

Nghệ thuật khác với kỹ thuật. Kỹ thuật được theo đúng quy luật và công thức sẵn có. Một vật thể thực hiện sai công thức và quy luật, vật thể đó bị hư, bị vỡ. Còn nghệ thuật không có công thức, quy luật nào cả. Những hiện tượng văn hóa được hiện hữu có nghệ thuật là do tâm con người có văn hóa mà có ra những tác phẩm có nét chấm phá độc đáo, sống động, vui hay buồn, tự nhiên thênh thang như rồng bay, phượng múa, uốn lượn như mây trời, vi vu như gió thổi, ríu rít như chim hót, rì rào như thác đổ, ầm ầm như sớm chớp mưa chiều, cong cong như những đường vân trên đá quý, gỗ quý, im lặng như Đức Phật ngồi yên, vững chãi như bước chân thiền hành, lời thuyết như hải triều âm (nói năng như chánh pháp), vân vân…

Con người vốn có tính chất văn hóa thế gian, được có thêm văn hóa Phật giáo vào tâm thức, người ấy có nhiều tài về mọi thứ, mọi việc có tính sáng tác. Cho nên việc nào, thứ nào cũng có sắc thái văn hóa và nghệ thuật trong đó rất đậm nét.

Như vậy, trên quê hương nước Việt nói riêng, ai là người được có cả hai nền văn hóa Phật giáo và thế gian pháp vào lòng? Huynh Đăng Triệu có biết không?

- Chứ còn ai vô đó nữa. Chư vị Tỳ Kheo Ni, nhưng rất là ít, chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Với chư vi Tỳ Kheo Tăng có tài về tác phẩm văn hóa nghệ thuật, thì không cần phải nói đến. Với Tỳ Kheo NI được có tài về tác phẩm văn hóa nghệ thuật, mới là đáng quý, đáng nói đến, vì là nữ mà lại là quá ít.

Sư bà Diệu Từ, ngoài lời thuyết pháp hướng dẫn Phật tử nghe rõ đạo lý giải thoat của Phật, được biết cách tu tập, là do âm thanh thuyết và thái độ có văn hóa nghệ thuật. Sư bà còn có nhiều tài văn hóa nghệ thuật khác, như sáng tác hằng trăm bài thơ Phật giáo (thơ thiền), hằng trăm bài nhạc Phật giáo có luôn lời. Lời trong các bài nhạc, đều là những đạo lý chuyển hóa tâm ác con người được trở thành thiện. Do Sư bà tự viết nhạc, và hòa âm, cho nên Sư bà tự hát rất đúng nhịp, tông thứ, tông trưởng và các điệu.

Theo kinh nghiệm cho thấy, những danh Tăng, danh Ni được quần chúng đến thụ giáo tu học, đều là những bậc khoa bảng hai thứ thế gian pháp và Phật pháp, do quá trình quyết tâm chịu khó học tập và nghiên cứu, do đó quý ngài mới được có ba nền giáo dục cơ bản trong tâm thức, đó là ý giáo, khẩu giáo và thân giáo. Ý giáo là nghiên cứu học hỏi Phật pháp và thế gian pháp. Khẩu giáo là lời thuyết đúng chánh pháp, dạy bảo con người có văn hóa nghệ thuật. Thân giáo là thân tâm luôn luôn được có đạo đức hiền lành, đôn hậu được hiển lộ ra lời nói và hành động cư xử có văn hóa ở lời ái ngữ, trạng thái khiêm cung. Tăng Ni nào được có ba nền giáo dục ấy ở thân tâm, là do học Phật và thế gian pháp.

Đúng như vậy, vai trò của Tăng Ni là Hoằng Hóa Độ Sanh, nên cần phải học hỏi nhiều nội điển và ngoại điển (Phật pháp – Thế gian pháp). Nhất là Phật pháp phải học nhiều hơn. Kinh sách Phật, không học để đó, thì bị hư rách vô ích. Sau khi con người học vào tâm thức được biến thành sở hữu pháp tánh riêng và tu hành chín chắn sẽ là pháp thân của hành giả.

Cũng như các thức ăn, thức uống, không ăn uống vào bao tử, để đó lâu ngày bị lên men, hôi thúi. Được ăn uống vào bao tử, ắt sẽ được biến thành thể chất dinh dưỡng cho bản thân con người được khỏe mạnh.

Về những thứ đạo lý thánh hiền, nhân bản thế gian, văn chương, sử học dân tộc và thế giới, vân vân… Tất cả được hiện hữu trong sách báo. Nếu không học, để đó lâu ngày, sẽ bị cũ kỷ hư nát. Nếu con người học vào lòng, ắt sẽ được biến thành sở hữu văn thánh riêng của người học.

Sở hữu văn thánh là tánh chất đạo đức, hiền hòa, có lòng trung hiếu với tổ quốc, biết thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, biết yêu nước, thương nói giống, sẵn sàng dấn thân, xông pha chống ngoại xâm. Cho nên lúc sống, họ là những anh hùng có khí tiết về thánh nhân, khi chết họ được hiển thần linh, thánh linh, đúng với câu ngạn ngữ “sống vi tướng, tử vi thần”.

Cái sở hữu văn thánh đó chưa phải là tánh chất siêu thoát sinh tử, vì còn phàm phu tánh do hết tham, nhưng còn sân si, chấp ngã. Nói khác hơn, tâm thức con người được thâm nhập duy nhất thế gian pháp chỉ được trở thành những bậc khanh tướng, hào kiệt của dân tộc. Những bậc đại hào kiệt, khánh tướng được dân tộc lập miếu thờ, gọi là miếu văn thánh (được thấy ở Hà Nội, Việt Nam).

Sở hữu văn thánh của thế gian pháp, nó được tương duyên, chan hòa với sở hữu pháp tánh thanh tịnh, là sản phẩm của Phật pháp, nó làm cho con ngườisẽ được trở thành những bậc đại nhân tài Phật giáo, nhà văn hóa lớn Phật giáo, danh tăng và kể cả Bồ Tát. Như vua Trần Nhân Tông đời Trần được hấp thụ cả hai nền văn hóa dân tộc và Phật pháp, nên được có tâm hồn yêu nước, thương nòi giống, thay cà sa mặc áo giáp, cầm quân đánh thắng giặc Mông Cổ, rồi trở về tu tập thiền định, viết sách thiền, hướng dẫn cách tu cho toàn dân. Như vua A Dục bên Ấn Độ đã được tiếp nhận vào lòng cả hai nền văn hóa dân tộc Ấn và Phật pháp, cho nên vua A Dục vừa an dân, trị quốc bằng đạo lý Phật giáo, đem lại cho dân tộc Ấn được cường thịnh, vừa tu tập thiền định và phát triển Đạo Pháp vào lòng dân.

Trên thế giới nói chung, nước Việt ta nói riêng, từ ngàn xưa và hôm nay đã có rất nhiều nhân tài hào kiệt ngoài đời và trong Phật giáo được hấp thụ cả hai nền văn hóa Phật giáo và dân tộc, cho nên đã đem lại cho toàn dân Việt nhiều phúc lợi về lãnh vực tinh thần là tu tập và vật chất, vân vân…

- Anh Tuệ Đạo, Đăng Triệu xin hỏi anh điều này.

- Xin mời huynh cứ tự nhiên hỏi.

- Hành giả được có pháp thân, chính là thời điểm đã giác ngộ từng phần ở bốn cấp Thanh Văn do tu hành chín chắn. Như vậy, Sư bà Diệu Từ đã được có pháp thân chưa?

- Tôi, Tuệ Đạo, không dám khẳng định Sư bà Diệu Từ được có pháp thân hay không, nhưng dám nói Sư bà đang có sở hữu pháp thanh tịnh. Bởi vì Sư bà có nhiều bằng cấp nhất ở lãnh vực Tỳ Kheo Ni do Sư bà tích cực học nhiều Phật pháp và thế gian pháp cùng với tu hành chín chắn, cho nên Sư bà luôn có trạng thái nghiêm trang thanh tịnh, được hiển lộ ra các đức tính từ bi, hiền hòa, biết tôn trọng, thương kính tất cả mọi người một cách bình đẳng trong các giới, được bộc lộ ra những lời thăm hỏi sức khỏe, khuyên bảo Phật tử siêng năng tu học, cổ võ Phật tử phát triển tài năng văn hóa đang có và thường dặn dò Phật tử ăn uống cẩn thận để gìn giữ sức khỏe, vân vân…

Do được có sở hữu pháp tánh thanh tịnh, Sư bà Diệu Từ đã và đang thực hiện nhiều giáo vụ sinh hoạt hoằng hóa độ sanh trong và ngoài Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Diệu Không rất có nghệ thuật, điều hành các giáo vụ thiền môn đúng theo đà văn minh khoa học của nhân loại. Chẳng hạn các khâu giáo vụ sau đây:

GIÁO VỤ NI CHÚNG

Ni chúng hai chùa Diệu Quang không nhiều, nhưng là những hạt chắt Bồ Đề. Chắt ở đây có nghĩa là quyết tâm xuất gia học Phật hành đạo giải thoát, được thấy rõ qua trạng thái học Phật chăm chỉ, hành trì giới luật thật nghiêm tịnh ở bước đi chững chạc, khiêm cung, ái ngữ trong đối đãi với mọi người hay chấp tác Phật sự, v.v… Các Sư cô đều phục sức áo nhật bình suốt ngày, cà sa lúc công phu, sớm chiều tịnh độ, tọa thiền buổi tối một cách tinh tấn không bỏ bữa nào. Nội quy thiền môn là thế đó.

Có lần tôi được ông bạn đem đi viếng ngôi Tam Bảo Diệu Quang ở Quận Cam vào buổi sáng ngày thường. Hôm ấy Sư bà viện chủ đi hoằng hóa ở xa. Chúng tôi được Sư cô trụ trì hướng dẫn lễ Phật và xem một vài hình ảnh văn hóa Phật giáo trong chánh điện và tượng Quán Thế Âm, đức Bổn Sư ngoài parking, vân vân… Trong lúc dừng bước trong chánh điện, tôi thấy một Sư cô tuổi gần lục tuần phục sức áo nhật bình nâu, đang ngồi ở bàn, cặm cụi viết, bên cạnh có một cuốn sách. Tôi khởi tâm đến gần để xem Sư cô ấy viết gì. Thấy tôi đến, Sư cô dừng bút, tôi liền hỏi:

- Sư cô viết gì vậy?

- A Di Đà Phật, tôi viết lại những khế lý chính yếu mà tôi đã đọc qua nhiều lần trong cuốn kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo bằng chữ Việt này. Thầy tôi (Sư bà Diệu Từ) hướng dẫn chúng tôi cách học Phật được mau hiểu và nhớ dai, bằng cách viết lại sau khi đọc xong một cuốn kinh, sách giảng luận Phật pháp. Thầy chúng tôi nói, hồi xưa thầy đã từng học Phật bằng cách viết lại như vậy.

- Sau giờ học Phật này, Sư cô làm việc gì khác?

Lời hỏi của Tuệ Đạo.

- A Di Đà Phật! Hết giờ học kinh của tôi là 11 giờ am. Sau giờ này, riêng tôi phải đi đơm một tiềm cơm để lên bàn Phật, rồi tụng nghi thức cúng ngọ. Cúng ngọ xong, tôi làm việc hành đường là dọn cơm lên bàn đâu vào đó được đầy đủ, rồi đánh ba tiếng bảng gỗ báo hiệu cho Sư bà và tất cả Sư cô được biết đến giờ ăn trưa, ai cũng dừng tay các việc, mặc áo chỉnh tề vào bàn ăn trưa đúng ngọ. Hôm nay thầy chúng tôi (Sư bà) đi hoằng hóa ở các tiểu bang xa, mặc dù thầy không có mặt ở nhà, chúng tôi vẫn tri hành đúng cách tất cả điều được ghi trong nội quy, trong đó ăn đúng ngọ, vào bàn ăn, ăn trong im lặng.

- A Di Đà Phật, vừa rồi Sư cô nói “ăn mặc chỉnh tề” là như thế nào, trong khi tôi thấy quý Sư cô ở đây hiện đang mặc áo dài, còn mặc kiểu nào nữa, gọi là chỉnh tề?

- A Di Đà Phật, áo chúng tôi đang mặc đây là “áo nhật bình”, loại áo chấp tác các việc Phật sự, làm vườn, quét dọn, vân vân… cho nên có tên “nhật bình”. Còn khi ăn cơm vào giờ ngọ thường nhật, là phải mặc áo tràng. Vì trước khi ăn, các vị Tỳ Kheo đều phải chắp tay tụng kinh chú cầu nguyện như tụng một thời kinh ngắn, mà hễ đọc kinh là có Phật, Bồ Tát chứng giám, nên gọi là mặc áo chỉnh tề là như vậy. Còn ăn quá đường trong những này an cư, kiết hạ, chư vị Tỳ Kheo đều đắp y (áo cà sa).

- A Di Đà Phật, Sư bà Diệu Từ đi thuyết pháp độ sanh ở các tiểu bang, bao nhiêu lần mỗi tháng, hở Sư cô?

- A Di Đà Phật, mười mấy năm qua, tháng nào Sư bà cũng đi thuyết pháp, hướng dẫn tu học hai, ba lần cho các Phật tử ở các tiểu bang xa, như Chicago, Houston… do các Phật tử ở các tiểu bang đó trực tiếp gởi giấy mời hay mời qua điện thoại. Nay thì thỉnh thoảng thôi, vì sức khỏe của Sư bà không cho phép đi xa nhiều, mặc dù các Phật tử ở các tiểu bang xa gởi thư và gọi phone mời Sư bà qua nhiều lời thưa gởi rất thân thương và mong muốn hết lòng, nhưng Sư bà không thể qua đó được! Còn tại chùa Diệu Quang đây, mỗi tháng thầy chúng tôi (Sư bà) thuyết giảng Phật pháp và hướng dẫn Phật tử tu Phật thất một lần vào ngày chủ nhật tuần đầu của tháng. Còn lại ba chủ nhật giữa và cuối tháng, chư nam nữ Phật tử được Sư bà thuyết giảng và pháp đàm. Sau pháp đàm hoặc giữa giờ, Sư bà và đại chúng làm văn nghệ Phật giáo bỏ túi, gọi là tu học trong niềm vui, vui vẻ an lạc trong lúc tu tập. Vui trong tu tập là niềm vui được giới hạn, không thể vượt qua, cho nên vui văn nghệ Phật giáo lúc tu tập, không phải là đam mê, tục lụy.

- Có khi nào, quý Sư cô làm việc gì đó ngoài nội quy? Lời hỏi của Tuệ Đạo.

- Không bao giờ có! Ni chúng chúng tôi ở đây, được thầy (Sư bà) chúng tôi phân bố thời khóa biểu rõ ràng chung cho tất cả Sư cô, mỗi ngày từ sáng sớm thức dậy công phu khuya, cho đến sáng ra ở các việc: chấp tác Phật sự, việc chùa (quét dọn, tưới cây…) điểm tâm, học kinh, đọc sách báo Phật giáo, làm bài tập Phật pháp, nấu cơm trưa, ăn ngọ, nghỉ trưa, tu tịnh giới, thiền tọa, công phu chiều, ăn nhẹ, tịnh độ, chỉ tịnh.

SINH HOẠT GIÁO VỤ HÀNH CHÁNH

Sư bà Diệu Từ xây dựng được một đội ngũ đại chúng cư sĩ Phật tử tại hai chùa Diệu Quang Sacramento và Orange County. Hai chúng cư sĩ Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di được chia ra làm tám chúng: La Hầu La, Long Thọ, Kiều Đàm, Liên Hoa, Mục Kiền Liên, Diệu Thiện, Diệu Không và Phú Lâu Na. Mỗi chúng phụ trách một khâu: tu học, cung nghinh chư tôn đức, lễ nhạc, dâng hoa, trang hoàng, trai tăng, nấu nướng, ẩm thực, vệ sinh, quét dọn… trong các ngày lễ vía và tu Phật thất.

Phải nói rằng đội ngũ Ni chúng và nam nữ Phật tử ở hai chúng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di tại hai chùa Diệu Quang được có một đời sống Phật đạo tinh nghiêm giới luật, thân thương trong đối đãi, do được ảnh hưởng từ nơi đạo đức hiền lành của Sư bà, đúng nghĩa của chữ “học” là bắt chước làm theo cho đúng. Học thứ gì, làm theo cho đúng đạo lý của thứ đó. Sư bà học Phật pháp nói riêng, nên Sư bà đã tri hành đúng theo vô số điều Phật dạy trong kinh luật luận sau khi đã học qua 10 năm, 20 năm, nay vẫn còn tiếp tục nghiên cứu học hỏi cho mục đích giác ngộ rốt ráo đạo lý vô ngã để giải thoát cho mình, cho chúng sanh trong vai trò trưởng tử Như Lai, giống như Phật thời xưa, đã thành Phật rồi, mà ngài vẫn luôn thiền định hằng ngày, đúng như đời thường có những tư tưởng “cha nào con nấy”, “hổ phụ sanh hổ tử”, “thầy sao trò vậy”. Tất cả đệ tử xuất gia và nam nữ Phật tử quy y và tu học với Sư bà, đều giống Sư bà về các mặt văn hóa, đạo đức, hiền lành, biết thương và tôn trọng, giúp đỡ mọi người một cách bình đẳng lúc về chùa tu học hay hiện hữu ở ngoài xã hội, do Sư bà hết lòng chỉ giáo cho.

Với Ni chúng ở hai chùa Diệu Quang, giờ nào việc đó đúng theo nội quy thiền môn không thể sai lệch.

Vì tám chúng nam, nữ cư sĩ ở hai chùa Diệu Quang, chúng nào việc đó rất trật tự, trang nghiêm ở bản thân lúc tri hành các Phật sự tại hai chùa trong các ngày lễ và tu học thật năng nổ, nhưng tình đạo không mất, vẫn hiện hữu nụ cười trên môi và lời nói dịu dàng trong đối đãi với nhau. Thiền định luôn có mặt trong thực tại ở thân tâm con người tỉnh thức là chỗ đó, chứ không phải chỉ riêng lúc thiền tọa, mới gọi là thiền định.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG BẢY

 

LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU

Tuệ Đạo kể xong một loạt 37 câu chuyện từ sáng sớm cho đến lúc mặt trời ở sau lưng ngôi Như Lai Thiền Tự, xuyên qua hàng trúc vàng đang đứng im trong ánh nắng chiều hè hốc hác, mà chàng không cảm thấy mệt mỏi. Thật đúng với sở trường nghiệp vụ của chàng thuở trước 1975, là giáo sư các môn triết, Việt văn, công dân và sử địa, là những môn chuyên nói tại các trưởng trung học công tư cấp một, hai, ba.

Nhìn những tia ánh chiều vàng lãng đãng giữa các thân cây trúc, không cần xem đồng hồ, Tuệ Đạo trổ tài đoán giờ: “mặt trời cỡ này là 5 giờ pm hay hơn một chút, chưa tới 6 giờ pm”.

Nghe Tuệ Đạo nói giờ, Đăng Triệu nhìn đồng hồ tay, có đúng không, chàng liền khen:

- Hay lắm! Anh Tuệ Đạo mình nhìn mặt trời mà nói giờ, không sai tý nào. Bây giờ mới có 5.20 pm. Như vậy anh còn câu chuyện nào về Sư bà nữa không?

- Còn chứ! Câu chuyện sắp kể tiếp là câu chuyện chót, được kết thúc quá trình tu hành thật viên mãn của Sư bà nói riêng và cũng là kết luận về cuộc đời tu hành của chư vị Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni nói chung, ai được chứng đạo giác ngộ hay chưa chứng, đã được vô ngã hay còn ngã, đã tịnh tâm hay còn vọng động… sẽ được đo lường bằng đạo lý của câu chuyện.

Tuệ Đạo mới vừa ngưng để lấy hơi nói tiếp, Đăng Triệu liền chen vào chỗ ngưng bằng hai tích tắc ấy, nói một cách dõng dạc:

- Câu chuyện như thế nào mà được có một đạo lý siêu đẳng đo lường được tâm thức Tăng, Ni còn ngã, vô ngã, thanh tịnh, vọng đông…?

- Câu chuyện “Lương Y Như Từ Mẫu”. Huynh đã từng nghe cụm từ “Lương Y Như Từ Mẫu”, bao giờ chữa?

- Cụm từ ấy, là người Việt Nam ai mà chả nghe! Nó dành riêng cho các ông, các bà ngoài đời hành nghề thầy thuốc chữa các bệnh cho thiên hạ, chứ Tăng Ni đâu có làm thầy thuốc?

Tuệ Đạo nhìn qua Đăng Triệu cười khì một cái, rồi nói nhè nhẹ:

- Huynh Đăng Triệu à, huynh lầm rồi! Cụm từ “Lương Y Như Từ Mẫu” được xuất phát từ trong Đạo Phật. Bởi vì đúng theo nguyên lý của danh từ Tỳ Kheo đều là thầy thuốc chữa các thứ bệnh thể chất và tâm thần cho con người ngoài xã hội một cách quan tâm, lân mẫn bên người bệnh, luôn có nụ cười hoan hỷ, vị tha được đi cùng với lời thăm hỏi, vỗ về, khuyên bảo thật ngọt ngào, cũng như bằng hành động nuông chìu như bà mẹ hiền thương con mình trong lúc chăm sóc cơm, cháo, thuốc thang suốt thời gian người con trên giường bệnh, cho đến khi hết bệnh. Lương y như từ mẫu là chỗ đó.

Chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni chữa trị cả hai thứ bệnh cho con người, đó là bệnh thể chất, trong đó có tâm thần và các thứ bệnh tham sân si, tà kiến, kiến chấp, vô minh, phiền não…  Cả hai thứ bệnh đều được dứt trừ hẳn bằng Phật pháp. Cho nên Phật pháp có trong Tăng Ni, Tỳ Kheo Tăng Ni là Phật pháp tràn đầy ở thân tâm. Nói theo ngôn ngữ đời: “Phật pháp đầy mình”. Đó là một điều hiển nhiên không thể tránh khỏi theo quy luật của Tỳ Kheo là cứu mọi thứ bệnh khổ của con người ở bản thân và tâm linh bằng Phật pháp.  Tỳ Kheo Tăng Ni không cứu mọi bệnh khổ chúng sanh, thì cứu ai? Nếu cứu khổ cho con người mà không dùng Phật pháp để cứu, thì cứu bằng gì? Cho nên tất cả các pháp môn của Phật đều là những vị thuốc chữa nhiều thứ bệnh thân, tâm của chúng sanh, đúng là chúng sanh đa bệnh thì Phật pháp cũng đa khoa để đối trị lại mọi thứ bệnh của chúng sanh. Vì thế mới nói một cách khẳng định rằng: “Chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni đều là thầy thuốc”. Hay nói cách khác, chữ Tỳ Kheo chính là Thầy. Tỳ Kheo Tăng là Thầy, Tỳ Kheo Ni cũng là Thầy, Thầy Tỳ Kheo. Chữ THẦY của Tăng Ni trong Đạo Phật là thầy thuốc chính ở mặt nổi. Nổi ở đây là phương tiện kết nối làm duyên với mọi tầng lớp con người trong xã hội để cứu chữa cho tất cả các thứ bệnh tham sân si, vọng niệm, dục tình, bản ngã, chấp trước… một cách tận diệt để hết bệnh sinh tử luôn hồi mà giải thoát lên các cõi thiện vĩnh hằng. Cũng như cứu chữa mọi thứ bệnh thể chất, tâm thần điên đảo của con người được dứt trừ mà trở lại bình thường khỏe mạnh, đó là mặt nổi của chữ thầy thuốc. Còn chữ THẦY của mặt chìm là thầy tu. Do mặt chìm mà có mặt nổi. Tức là xuất gia làm thầy tu trước ở bước đầu học Phật pháp và tu hành Phật pháp trong tu viện với thời gian 15 năm qua các cấp Sa Di, Tỳ Kheo giới và các cấp học văn hóa thế gian pháp thật là công phu, gọi công phu gian khổ này là thời gian tôi luyện về ba nghiệp vụ cho thật thông đạt, rành rẽ, đó là nghiệp vụ ý giáo tức là thông suốt mọi giáo điển Phật và văn hóa thế gian. Thứ đến là nghiệp vụ khẩu giáo, tức là biết được các căn tính, căn bệnh tâm linh, tâm thần, thể chất của tất cả con người khi quay về Đạo Phật như thế nào, mà nói pháp hóa độ, mà tìm phương cách ở lãnh vực Phật pháp mà chữa trị cho lành các thứ bệnh. Nghiệp vụ cuối cùng là thân giáo. Thân giáo là các đức tính hiền hòa, đôn hậu, biết thương yêu mọi người một cách bình đẳng, được hiển lộ ra lời nói và hành động nghiêm trang, lịch sự, tử tế, có văn hóa kính trọng con người trong mọi giai cấp khi tiếp cận nói pháp đê chữa trị các thứ bệnh xung đột, sầu muộn về tâm, các thứ bệnh về thể chất, v.v… làm cho con người được chữa bệnh cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng thân tâm, chính đó là lương y như từ mẫu.

Các bác sĩ, thầy thuốc bắc, thuốc nam ở thế gian trước khi làm thầy chữa bệnh, cho thuốc con người bị bệnh, là phải học cách chữa bệnh, học nhiều các thứ thuốc dược thảo với thời gian bảy năm, ba năm thì mới được trở thành thầy thuốc.

Cũng như vậy, tất cả các thầy Tỳ Kheo Tăng, Ni đồng chơn xuất gia trong Phật giáo đều phải học Phật pháp, hành trì Phật pháp và giới luật một cách tinh tấn, nhẫn nhục với chiều dài thời gian vô tận, lúc nào cũng hành trì, mặc dù sau 15 năm ra trường vẫn không ngưng trệ, luôn tiếp tục thật tích cực, nghiêm túc trong mọi môi trường, hoàn cảnh thuận duyên hay nghịch duyên, không bao giờ nãn chí, lùi bước. Bởi vì phải đạt được mục tiêu tối hậu, đó là chơn tâm vô ngã, thanh tịnh từ bi và trí tuệ diệu dụng, trong đó được có ngay 5 đặc tính của Tỳ Kheo một cách tự nhiên. Tất cả đều là hành trang trên vận hành cứu khổ mọi thứ bệnh cho thế gian chúng sanh được dứt trừ. Không có bệnh nào ở thân, tâm con người mà không được dứt trừ bởi tâm thanh tịnh, vô ngã của thầy Tỳ Kheo Tăng, Ni. Cho nên một vị Tỳ Kheo Tăng, Ni được biểu thị là dòng nước trong, chén nước trong, không có chất ô nhiễm để tẩy trừ, rữa sạch các con bệnh ở thân tâm con người được lành bệnh. Cũng như được biểu thị là tia sáng la de có năng lực xuyên suốt vào nội tạng con người để cắt đứt, tiêu diệt mọi thứ ung nhọt trong nội tạng con người được dứt hẳn.

Nói khác hơn, chơn tâm vô ngã đầy hai đức tính từ bi, trí tuệ, thanh tịnh thường hằng của các thầy Tỳ Kheo Tăng Ni tinh túy đồng chơn, chính là những dược pháp có năng lực đuổi các thứ bệnh tà, bệnh điên, trù yểm, thư ếm, tâm thần ra hết thân tâm con người và diệt trừ hết ngã sở, kiến chấp… của con người, từ đó con người được giải thoát sinh tử. Cũng như chữa trị các thứ bệnh thể chất của con người được dứt trừ.

Các thầy thuốc ở đời chữa bệnh cho con người là sự nghiệp mưu sinh sống còn. Còn các thầy Tỳ Kheo Tăng Ni chữa bệnh cho con người là sự nghiệp cứu khổ độ sinh, thật xứng danh, đúng nghĩa Tỳ Kheo. Danh từ Tỳ Kheo được dịch ra từ chữ Phạn là Bikkhu, tên của một loại thảo mộc ở trên núi tuyết bên Ấn Độ. Đức Phật chọn loại cỏ thơm Bikkhu để đặt tên cho các nam nữ nào xuất gia tu hành là Tỳ Kheo – Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni. Ngoài danh từ Tỳ Kheo còn có danh từ Bi Sô và Tỳ Kheo được thấy trong các kinh điển của Phật. Danh từ Tỳ Kheo được thông dụng hơn Bi Sô. Như nói Tỳ Kheo Thích Huyền Quang, Tỳ Kheo Thích Trí Thủ, Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Diệu Từ, chứ không nói Bi Sô Ni Thích Nữ Diệu Từ, v.v… Các chư Tăng ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào giữ nguyên chữ Bikkhu, như nói Bikkhu NARADA.

Sở dĩ Đức Phật chọn loài cỏ thơm Bikkhu đặt tên cho hàng đệ tử xuất gia của ngài là Bikkhu, do vì ngài thấy rằng người xuất gia Tăng Ni ai cũng giống như ngài, đó là bậc thầy của thế gian Trời, Người, luôn có khả năng siêu tuyệt chữa trị được hết mọi thứ bệnh chúng sanh được dứt trừ trong thực tại, cảm thấy an lạc, được giải thoát mai sau.

Nói đến đó, Tuệ Đạo ngưng vài giây, nhìn Đăng Triệu mỉm cười, rồi hỏi:

- Huynh Đăng Triệu có ý kiến gì về Tỳ Kheo Tăng Ni?

- Tôi nghe anh nói Đức Phật chọn loài cỏ thơm Bikkhu đặt tên cho hàng đệ tử xuất gia của ngài, làm cho tôi có cảm tình, kính trọng các Tỳ Kheo Tăng Ni, mặc dù chưa được nghe anh giảng nói về ý nghĩa và 5 đặc tính của có Bikkhu, nhưng tôi vẫn thấy được các thầy Tỳ Kheo Tăng Ni là bậc thầy lý tưởng của thế gian. Nhưng với các thầy Tỳ Kheo Tăng Ni nào không được giống như 5 đặc tính của  loài cỏ thơm Bikkhu thì sao?

- Thì giống như loài cỏ dại, là một quy luật định lý của Hoa Nghiêm: thử vô cố bỉ vô – cái này không thì cái kia không. Bây giờ tôi nói về ý nghĩa của Tỳ Kheo.

Tỳ Kheo có 3 nghĩa: khất sĩ, phá ác và bố ma. Khất sĩ là đi xin ăn. Chư Tỳ Kheo ôm bình bát đi khất thực trên đường phố, trong xóm làng hồi xưa lúc Phật còn tại thế hay thời nay thỉnh thoảng được thấy một vài nơi ở Việt Nam. Thời đại ngày nay là thời đại văn minh, các vị Tỳ Kheo Tăng Ni tại chùa, tu viện, được các Phật tử đến cúng dường vật chất, cũng đều là xin ăn cả.

Phá ác là các vị Tỳ Kheo Tăng Ni tự phá trừ mọi thứ ác nghiệp, phiền não, bản ngã, tham sân, si mê, ngã kiến… trong nội thức mình được tiêu trừ, dứt sạch bằng nhiều cách trì tụng các thần chú Đà La Ni là năng lực tiêu trừ, luôn cảnh tỉnh đừng khởi lên những ý niệm xấu ác, đúng như lời Phật dạy: “Nguyện bỏ các điều ác đừng làm. Nguyện làm các việc lành, luôn giữ tâm hồn cho thanh tịnh”. Bên cạnh đó, các thầy Tỳ Kheo Tăng Ni, cũng nói pháp cho Phật tử được biết các cách phá ác như mình đã làm.

Bố ma có nghĩa là làm cho các loài ma phải sợ. Năng lực làm cho ma sợ, đó là tâm vô ngã, thanh tịnh, tràn đầy đức độ, đúng với câu: “đức trọng quỷ thần kinh”. Ma có hai thứ: ma quỷ, yêu  tinh và ma làm biếng, ma ham ăn chơi, trụy lạc, dục tình. Cũng như những người đang có tâm độc ác muốn đến ám hại mình được gọi là ma.

Năng lực làm cho các thứ ma sợ mình không dám đến phá phách, nhiễu loạn, là phải luôn thiền định trì tụng các thần chú Đà La Ni để cho tâm được có thần lực tỏa ra, khiến cho các loài ma phải tránh xa. Các thứ ma khác: lười biếng, ham ngủ, ham chơi… không trổi dậy trong tâm. Là phải tinh tấn hành trì giới luật, công phu tu tập.

Để được biết thêm 5 đặc tính của loài cỏ thơm Bikkhu, cũng là 5 đặc tính của người xuất gia Tăng Ni được mang tên Tỳ Kheo.

Hai chữ Tỳ Kheo được dịch âm từ Phạn ngữ là Bikkhu. Người Trung Hoa lại dịch ra âm chữ Hán là Bí Sô. Danh từ Bí Sô Tỳ Kheo đếu là dịch âm từ chữ Bikkhu. Bí Sô và Tỳ Kheo như nhau, đều là tên gọi đối với giới xuất gia Tăng Ni, cho nên trong kinh có chỗ gọi là Bí Sô, có chỗ gọi là Tỳ Kheo. (Bí Sô Tăng, Bí Sô Ni). Danh từ Tỳ Kheo được thông dụng hơn là Bí Sô. Chư Tăng Ni Phật giáo Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan, Lào, Campuchia được gọi nguyên gốc chữ Phạn Bikkhu. Chẳng hạn gọi Hòa Thượng Bikkhu Narada. Còn Việt Nam và Trung Hoa thì gọi Hòa Thượng Tỳ Kheo Thích Chơn Như, v.v…

Bikkhu là tên của một loài cỏ thơm mọc trên núi tuyết xứ Ấn Độ, nay vẫn còn loài cỏ ấy. Cỏ Bikkhu thơm cả thân và lá lúc còn non xanh cho đến già úa vẫn còn thơm. Mùi thơm dễ chịu, không gay gắt. Thông thường các loài cỏ có thân mảnh khảnh chỉ mọc ở đồng bằng ruộng nương hay núi thấp, không thể mọc trên núi tuyết. Đằng này loài cỏ Bikkhu lại mọc ở núi tuyết quanh năm. Thân của nó chẳng những không bị hao mòn, rục rả bởi tuyết, trái lại luôn nảy nở, mọc tràn lan ra tứ phía suốt 4 mùa tuyết phủ.

Theo sách “Phiên Dịch Danh Nghĩa” có ghi loài cỏ Bikkhu (Bí Sô) có năm đặc tính:

1- Thể tánh nhu nhuyễn

2- Dẫn mạn bàng bố

3- Hinh hương viễn văn

4- Năng liệu đông thống

5- Bất bội nhật quang

Năm đặc tính của cỏ Bikkhu như thế nào mà thời xưa Đức Phật lại chọn tên cỏ ấy để làm tên gọi cho giới xuất gia Tăng, Ni (Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni)? Chắc là đặc biệt lắm nên Phật mới chọn. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu 5 đặc tính trên của cỏ Bikkhu là gì?

1- Thể tánh nhu nhuyễn

Thể tánh này được biểu thị cho thể tánh của giới Tăng sĩ Phật giáo một khi đã xuất gia rồi, thì tánh tình được nhu mì, dịu dàng, luôn khiêm cung, ái ngữ, chánh trực, hoan hỷ, thuận hòa, bao dung, không thô tháo, luôn nhã nhặn, không hung dữ, thật thà, tự nhiên, bình đẳng, không nghi ngờ… Tất cả đều do thân, khẩu, ý an trú trên dòng tâm chánh niệm, tỉnh thức sau khi đã được tu tập và hành trì giới luật chín chắn rồi.

2- Dẫn mạn bàng bố

Mạn nghĩa là mọc tràn ra, mọc dài ra. Bàng nghĩa là mọc tràn lan cùng khắp. Hai đặc tính ấy được chỉ cho chư Tăng sĩ trong Phật giáo thường đi khắp đó đây, để hoằng dương chánh pháp hóa độ chúng sanh bằng đôi chân trí tuệ ba la mật.

3- Hinh hương viễn văn

Mùi thơm của cỏ Bikkhu bay xa khắp không gian. Được chỉ cho giới xuất gia trong Phật giáo một khi đã thọ Tỳ Kheo giới, ai cũng có giới đức trang nghiêm thanh tịnh ở bản thân. Cho nên ai gặp cũng thích, cũng thương mến, kính trọng, cúng dường. Nhất hạng là những vị danh Tăng có đạo cao đức trọng, nền văn hóa Phật giáo lớn trong tâm, được quần chúng khắp thế giới nghe đến, liền khởi tâm hâm mộ, ngưỡng vọng và tiếp xúc, lễ bái, v.v…

4- Năng liệu đông thống

Cỏ Bikkhu là một vị thuốc chữa trị chứng đau nhức cơ thể. Được chỉ cho tất cả chư Tăng, Ni trong Phật giáo đều có khả năng chữa trị được các thứ bệnh phiền não, tâm thần, cơ thể bằng thần lực tâm thức và các dược thảo.

5- Bất bội nhật quang

Nghĩa là không ngược lại với ánh sáng mặt trời. Đó là đặc tính của cỏ Bí Sô (Bikkhu) luôn luôn hướng về mặt trời. Mặt trời ở ngả nào, thân và lá cỏ Bí Sô hướng theo ngả đó. Ở đây được biểu thị cho chư Tăng, Ni trong Phật giáo không bao giờ dám đi ngược lại ánh sáng chánh pháp Phật. Thân tâm luôn luôn lấy chơn chánh, nói năng chơn chánh, nhớ nghĩ chơn chánh và lúc nào cũng an trú trong định… một cách thường hằng dù cho sống trong môi trường, hoàn cảnh thuận duyên, nghịch duyên vẫn theo chánh pháp. Bằng không có thể sẽ bị đi ngược lại ánh sáng chánh pháp Phật.

Thứ nữa, chư vị Tỳ Kheo Tăng, Ni đang có mặt tại mọi quốc độ trên vận hành tu tập và hoằng hóa độ sanh trong các môi trường thuận duyên, nghịch duyên, hoàn cảnh phú lạc hay không lạc phú, tâm vẫn hướng về tổ quốc đất mẹ qua hành động đãnh lễ, tưởng niệm báo đáp ân đức chư vị tổ sư, giáo thọ, bổn sư, chư tôn đức tiền bối hữu công với đạo pháp, đàn na tín thí, cũng như tổ tiên, ông bà, cha mẹ, các vị anh hùng dân tộc… đã lập quốc và giữ nước.

Vì thế cho nên Đức Phật, ngài chọn danh từ Tỳ Kheo (Bikkhu) tên của loài cỏ thơm để đặt tên cho các thiện nam, tín nữ xuất gia thành Tăng, Ni, ai cũng được gọi là Tỳ Kheo sau khi thọ đại giới như vậy, là vì ngài thấy rằng giới luật và giáo  lý của ngài, ai xuất gia tu hành đúng theo giới luật và Phật pháp đều được có đủ 5 đặc tính như loài cỏ thơm Bí Sô (Bikkhu). Đó là về phía Đức Thế Tôn đặt niềm tin và hy vọng nơi hàng đệ tử xuất gia của ngài là chư vị Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni ai cũng có 5 đặc tính như loài cỏ thơm Bikkhu. Còn về phía chư vị Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni được có 5 đặc tính ấy hay không là do cá nhân Tăng Ni tự xét mình. Vì thế cho nên danh từ Tỳ Kheo không phải là một tước vị, chức vị, mà là thuộc về đặc thù tư tưởng ở giới tánh thường hằng, tịch tịnh, trang nghiêm, tịnh độ, thân tâm. Do vậy hai chữ Tỳ Kheo, một danh từ đặc biệt, thuần túy duy nhất chỉ có trong Đạo Phật dùng chỉ cho giới xuất gia Tăng, Ni. Các tôn giáo khác không có, họ chỉ có danh từ Sa Môn, tên gọi chung cho tất cả những người thoát ly gia đình, dấn thân tu hành theo đạo lý tôn giáo nào đó trong thuở xa xưa bên Ấn Độ. Do vậy, chư Tăng già trong Phật giáo, cũng thường dùng danh từ Sa Môn và kể cả Phật tử cư sĩ có tâm xuất gia, còn thân tại gia có tu học Phật pháp chín chắn, cũng được dùng danh từ Sa Môn, tuyệt đối không được dùng Tỳ Kheo.

Qua 3 ý niệm và 5 đặc tính của loài cỏ thơm Bikkhu – Tỳ Kheo Tăng Ni vừa rồi, huynh Đăng Triệu có phát biểu hay nhận định gì không?

- Qua lời huynh hỏi, tôi xin thô thiển có vài nhận định sau đây: Bản chất và 5 đặc tính của cỏ thơm Bikkhu, là do tự nó vốn có theo quy luật tự nhiên, thì chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni một khi đã đê đầu đãnh lễ chư Phật, Bồ Tát, chư Tôn đức chứng minh để cầu xin thọ giới Tỳ Kheo, thì nhất định sau đó ai cũng được có 3 ý nghĩa và 5 đặc tính của cỏ thơm Bikkhu trong nội tâm một cách tự nhiên, là do học Phật và hành trì giới luật Tỳ Kheo thật nghiêm túc, không hời hợt, do đó Đức Phật mới lấy tên Bikkhu của loài cỏ thơm đặt tên cho người xuất gia là Tỳ Kheo.

Nói theo định luật nhân quả, những người nam, nữ tuổi thiếu niên có hảo tâm xuất gia tu hành Phật đạo, điển hình rõ nét là Sư bà Diệu Từ, gọi là đồng chơn xuất gia, cho ta thấy tinh túy đồng chơn đó, chính là vốn có Phật tánh vươn lên cao độ trong vô lượng kiếp về trước, đến kiếp này cũng được xuất gia vào tu viện, tại đó được học Phật pháp và văn hóa thế gian thật thâm sâu qua quá trình công phu, tri hành gian  khổ hằng mười mấy năm trong tu viện thanh vắng, giống như loài cỏ thơm Bikkhu mọc trên núi tuyết đầy giá lạnh, nhờ cái giá lạnh đó, mà  loài cỏ Bikkhu được có 5 đặc tính thật tuyệt vời. Với các vị Tỳ Kheo Tăng Ni trẻ tuổi đồng chơn xuất gia trong tu viện cũng được có 5 đặc tính như loài cỏ thơm Bikkhu.

Chung quanh mỗi 5 đặc tính ấy còn có nhiều tài nghê đa khoa tự nhiên khác về văn, thơ, hội họa, thi ca, nhạc, đàn hát, diễn nói trước quần chúng vê văn hóa Phật giáo, thế gian thật hùng tráng. Rồi lại thêm có cái tài cứu chữa các thứ bệnh khổ ở thân, tâm con người được dứt trừ một cách nhiệm mầu tự nhiên, không học mà hành được đúng theo đặc tính thứ tư của cỏ thơm Bikkhu (năng liệu đông thống). Rõ thực cho ta thấy, ở bước đầu tiên xuất gia nhập Đạo Phật, học Phật tu hành Phật pháp của quý Tăng Ni đồng chơn xuất gia, chỉ có ý niệm là thượng càu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh để đạt giác ngộ giải thoát cho mình, cho chúng sanh mà thôi. Đâu có vị nào mộng ước làm thầy thuốc chữa nhiều thứ bệnh thể xác, tâm linh cho con người đâu! Và cũng không có cái mộng ước sẽ trở thành nhà văn, nhà thơ, kiến trúc sư, hội họa, nhạc sĩ, thi ca, đàn hát và các tài khác đâu! Chỉ nghĩ rằng mình là người thầy của thế gian ở lãnh vực nói pháp để hướng dẫn con người tự chữa trị lấy các thứ bệnh tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến, ngã mạn, ngã sở, ngã ái, v.v… để được dứt trừ mà giải thoát sinh tử mà thôi. Nhưng rồi lại không ngờ tự nhiên được trở thành một số sự nghiệp thế gian pháp là sĩ này, sĩ kia… bên cạnh sự nghiệp xuất thế gian pháp. Nếu không nói là do nhiều lần phát Bồ Đề tâm tu tập Phật pháp và thế gian pháp trong vô lượng kiếp về trước, nên kiếp này xuất gia đồng chơn làm Tăng Ni, là phải được có nhiều tài, như Sư bà Diệu Tưø, Thượng Tọa Tuệ Sỹ, giáo sư Lê Mạnh Thát và vô số Tỳ Kheo Tăng khác nữa.

Anh Tuệ Đạo, lời nhận định của tôi như vậy, có đúng hay không?

- Quá đúng, đúng theo định luật nhân quả, nhân tốt thì quả tốt. Điển hình rõ nét như Đức Thế Tôn của ta khi còn là Thái Tử tại hoàng cung, lúc 16 tuổi được vua cha mời các vị giáo sư về văn, võ, thi ca, nhạc sĩ… đến dạy cho Thái Tử các thứ thế gian pháp ấy. Thái Tử chỉ nghe qua một lần về lý thuyết thôi, Thái Tử liền thông đạt hết tất cả lý thuyết và thực hành một cách siêu tuyệt, làm cho các giáo sư dạy các môn đó phải chắp tay kính cẩn, bái phục, không dám dạy nữa, xin làm học trò của Thái Tử. Điều đó được chứng minh cho thấy Thái Tử vốn đang có một nền văn hóa thế gian pháp quá lớn trong tạng thức, thì đâu cần gì phải học nữa, vì đã học trong vô lượng kiếp rồi.

Đến 19 tuổi xuân, Thái Tử vựợt thành xuất gia, tu khổ hạnh dưới cội Bồ Đề suốt 6 năm đã được giác ngộ về thực tướng vô ngã của các pháp và tam minh (thiên nhãn, túc mạn và lậu tận minh). Rồi đem giáo pháp thực chứng đó vào đời trên vận hạnh hoằng hóa độ sanh khắp trên mọi nẻo đường, được hàng vạn người đến học hỏi, tu tập với Phật rồi xin quy y làm đệ tử tại gia, xuất gia theo Phật.

Do vì đã được đại giác ngộ thực tướng vô ngã các pháp và tam minh, Đức Thế Tôn quán thấy được những người xin xuất gia trong thời Phật tại thế, ai cũng vốn có Phật tánh đang vươn lên cao độ, là một kho tàng văn hóa thế gian và xuất thế gian pháp. Hai nền tảng văn hóa đạo, đời ấy trong tạng thức mỗi vị, sẽ được hiển lộ ra lời nói và hành động qua quá trình theo Phật tu học, chính là một thứ pháp được tổng hợp thật diệu dụng cho công cuộc chữa trị mọi thứ bệnh vô minh, phiền não, ngã mạn, chấp trước… tà ma điên đảo, vọng tâm và các bệnh ở bản thân con người, mà vai trò của trưởng tử Như Lai ai cũng phải tri hành trên đường hóa độ, sau khi được trở thành bậc xuất gia, người thầy thuốc của thế gian. Vì thế Đức Thế Tôn mới lấy tên của cỏ thơm Bikkhu đặt tên cho hàng xuất gia là Bikkhu, Tàu dịch là Tỳ Kheo hay Bí Sô.

Vì thế cho nên “Tỳ Kheo không phải là một tước vị, chức vụ để được hưởng thụ tài lộc, mà là một đặc thù tư tưởng ở giới tính thường hằng tịch tịnh trang nghiêm tịnh độ cho công cuộc chữa trị mọi bệnh khổ của chúng sanh được dứt trừ. Không có bệnh nào của chúng sanh mà người Tỳ Kheo Tăng Ni trong Đạo Phật không chữa được!

- Những điều tôi trình bày vừa rồi, huynh Đăng Triệu có thắc mắc điều chi không? Lời Tuệ Đạo hỏi.

Đăng Triệu ngẫm nghĩ giây lát, rồi phát biểu:

- Theo chỗ tôi hiểu, người xuất gia được có hai hạng, đồng chơn và bán thế (tức đã có vợ chồng rồi mới xuất gia). Đồng chơn mang tính cách tinh túy do Phật tánh trong tạng thức vươn lên cao độ, là một kho tàng chứa đựng hai thứ văn hóa Phật giáo và thế gian pháp. Cho nên đa số chư vị đồng chơn xuất gia Tỳ Kheo Tăng Ni, ai cũng được đa tài hai thứ văn hóa đạo, đời ấy. Như vậy, những vị bán thế xuất gia nói riêng trong thời Phật còn tại thế, sao ai cũng có đa tài và thông đạt Phật pháp, giác ngộ ở các cấp Thanh Văn mau vậy?

- Bộ huynh quên rồi à! Tất cả các bậc xuất gia đồng chơn và bán thế trong thời Phật còn tại thế, là một đại phước do được có túc duyên thiện nghiệp lớn, đại cội Bồ Đề lớn. Còn thời đại mạc pháp ngày nay chỉ có đồng chơn xuất gia, tuy nhiên số lượng Tỳ Kheo Tăng Ni đa tài trên nước Việt và hải ngoại cũng không nhiều lắm, do mức độ Phật tánh vươn lên trong tạng thức ở độ nào, như mầm sen vừa lú ra khỏi mầm giữa lòng nước, gần mặt nước… Từ chỗ này cho ta thấy rằng ba ý nghĩa Tỳ Kheo, năm đặc tính Tỳ Kheo (cỏ thơm Bikkhu) trong tạng thức của chư vị Tăng Ni không có vấn đề truyền thừa cho ai và cũng không có vấn đề thất truyền. Vị nào có là có ít hay nhiều, thời đại nào cũng có Tăng Ni đa tài hai thứ văn hóa đạo, đời ấy, là người thầy thuốc chữa bệnh thế gian.

Vấn đề không có thất truyền, truyền thừa 3 ý nghĩa và 5 đặc tính của Tỳ Kheo trong lãnh vực Tăng Ni Phật giáo nói chung trên các nước, Việt Nam nói riêng, cho ta thấy rõ Phật giáo Việt Nam từ các thời đại Giao Châu, Đinh, Lê, Lý, Trần, cho đến các thời đại Trịnh, Nguyễn… Phật giáo Việt Nam chưa có hệ thống đào tạo Tăng tài trong tu viện hay chưa có hệ thống đào tạo Tăng Ni Phật tử. Ấy thế vậy mà vẫn có nhiều Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia tại các địa phương trên ba miền đất nước, tự học Phật, văn hóa quốc gia, rồi tự tạo ra phương tiện tùy duyên trong việc hoằng dương đạo pháp, hoằng hóa độ cho người dân bản xứ ở các mặt giáo vụ, đó là thuyết pháp hướng dẫn tu thiền, Tịnh Độ, lễ lạc, cầu an, ma chay, cùng với chữa trị các thứ bệnh khổ thân tâm người dân một cách tích cực tài tình, bệnh nào cũng được dứt trừ thật nhiệm mầu, cho đến nỗi được toàn miền bắc gọi là chùa Thầy. Chùa Thầy ở Hà Tây miền bắc Việt Nam. Chữ Thầy ở đây có hai nghĩa, một là sư tu hành trong chùa, hai là ông sư trong chùa có bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, tức là vừa thầy tu, vừa thầy thuốc. Tuy nhiên thầy thuốc trong chùa khác hẳn với các thầy thuốc ngoài xã hội từ nội dung đến tinh thần. Các thầy thuốc ngoài xã hội là sự nghiệp mưu sinh để sống còn. Còn thầy thuốc trong chùa là sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh được giải thoát, cho nên mỗi ngôi chùa là một trung tâm chữa trị cho vô số thứ bệnh của con người. Con người có bao nhiêu thứ bệnh, Phật giáo có bấy nhiêu thuốc để chữa trị, mà Tỳ Kheo Tăng Ni là những người thầy thuốc xem bệnh cho thuốc đúng bệnh.

Nội dung chữa bệnh chúng sanh của Tăng Ni trong chùa là Phật pháp ở hai lãnh vực tâm linh và thể chất, cùng với các phương pháp, cách thức chữa bệnh và lời thuyết pháp, trì tụng kinh chú, cầu nguyện, thăm hỏi, khuyên bảo, trấn an, vỗ về, an ủi, giải thích nguyên nhân bệnh, hướng dẫn sám hối, niệm Phật để được tiêu trừ ác nghiệp là nguyên nhân sinh ra bệnh, khuyên làm lành, lánh dữ, ăn chay… cộng với hành động chăm sóc, cho thuốc dược thảo, nước cúng Phật, v.v… thật là thân thương trìu mến khó quên. Tất cả nội dung đó, là phương tiện tùy duyên, làm nền tảng đưa con người quay về Đạo Phật, biết học và tu tập Phật pháp trên tinh thần xây dựng tâm VÔ NGÃ, là con đường giải thoát. Vì thế, có những người Việt trong nước và hải ngoại, suốt đời không biết Đạo Phật là gì, đùng một cái bị bệnh nan y khó chữa, được Tăng Ni chữa lành, họ trở thành người Phật tử rất thuần thành đối với thầy, với chùa, không từ nan một việc gì, khó khăn mấy cũng hết lòng mà làm cho bằng được.

Nội dung chứa đựng những phương pháp, cách thức chữa trị mọi thứ bệnh ở thân tâm người dân được lành của Tăng Ni Phật giáo, mà tôi vừa trình bày, là truyền thống ngàn đời xưa nay. Tuy nhiên có một vài cách giống các sư Trung Quốc do vì Phật giáo Việt Nam được ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc.

Nói chung, Tăng Ni tại các quốc gia trên thế giới có Đạo Phật, đều tri hành vài trò chữa trị các thứ bệnh tâm linh, thể xác của chúng sanh là điều ắt phải, nên chi cũng giống nhau một điểm, đó là khuyên và hướng dẫn mọi người phát lời ăn năn sám hối và lạy sám hối, nhưng phương cách chữa trị bệnh tâm linh và thể xác thì  khác nhau. Chẳng hạn các sư Tây Tạng hành lễ Quán Đảnh, đưa bàn tay lên đầu Phật tử và đọc thầm các thần chú Đà La Ni, hay choàng một dãi vải trắng lên vai Phật tử không bệnh, có bệnh đến xin được tiêu trừ tật bệnh.

 Tuệ Đạo mới ngưng một tích tắc, Đăng Triệu chen lời:

- Anh Tuệ Đạo, vừa rồi anh có đề cập đến Phật giáo ở hai lãnh vực, mà các Tỳ Kheo Tăng Ni trong Phật giáo trên thế giới đã và đang sử dụng trong việc chữa trị các thứ bệnh của chúng sanh, là Phật pháp nào, xin anh phân rõ ra hai lãnh vực ấy cho tôi được biết, hay không?

- Trên đời này, cái gì cũng có hai: vật chất và tinh thần, âm và dương, tâm linh và thể xác, trên và dưới, trời và đất, trong và ngoài, sáng và tối, chánh và tà, phải và trái, thông minh và ngu dốt, trí tuệ và si mê, thiện và ác… thì Phật pháp cũng có hai giáo pháp để đối trị với hai thứ bệnh tâm linh và thể chất.

Các thứ bệnh tâm linh như vô minh, phiền não, tham, sân, si, ngã mạn, chấp trước, vọng thức, điên đảo, v.v… Các thứ bệnh tâm linh ấy, phải sử dụng Phật pháp ở lãnh vực thực tập để chuyển hóa, như những giáo pháp Bát Nhã, Kim Cang, Thiền định, Vô ngã tưởng, ngũ uẩn giai không, vô thường, vô ngã, thập nhị nhân duyên, Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, nhân quả, luân hồi… để tận diệt cho sạch hết các căn bệnh ấy, là năng lực đưa chúng sanh qua bờ giác, thoát khỏi vĩnh viễn sinh tử, luân hồi, khổ đau.

Các thứ bệnh ở thể xác thuộc nội tạng, bao tử, thận, gan, ếm đối, điên tà, đồ độc, cảm nhiệt, thương hàn, hoạnh tử, ghẻ lở… Các thứ thân bệnh ấy, phải sử dụng Phật pháp như các thứ kinh: Thủy Sám, Lương Hoàng Sám (có lạy sám hối), Phổ Môn, Dược Sư, thần chú Dược Sư, thực hiện những phương pháp hướng dẫn trong kinh Dược Sư, cùng với những thần chú Đà La Ni, mà thần chú Đại Bi, Lăng Nghiêm là tối thượng hơn hết.

Vì là những thứ bệnh thuộc thể xác, kể cả các thứ bệnh điên, bệnh tà, tâm thần cũng thuộc thể xác, cho nên Tăng Ni chữa bệnh cho người bệnh, có dùng thêm những dược thảo, các loại dầu tùy theo bệnh, cho uống nước cúng Phật, đeo vào tay người bệnh một chiếc vòng bạc hay một sợi dây chỉ ngũ sắc được gút lại nhiều gút, mỗi gút được Tăng Ni chú nguyện vào đó hàng ngàn thần chú Đà La Ni, hay có vị làm công việc châm cứu thêm vào thân thể người bệnh.

Tất cả những thứ dược thảo, dầu, nước cúng Phật… mà Tăng Ni sử dụng bên cạnh các thứ kinh, chú Đà La Ni cho người bệnh, chỉ là những thứ trợ duyên xúc tác vào thân tâm người bệnh để đánh thức những con bệnh mang quả báo nghiệp ác trong bản thân người bệnh mau mau tan biến.

Những Phật pháp trong lãnh vực chữa trị các thứ bệnh thuộc thể xác con người, mà tôi vừa trình bày cho Đăng Triệu, tuy rằng rất ít, nhưng rất khó thực hiện, thực hành đối với những người bị bệnh thể xác. Đăng Triệu thấy thế nào, tất cả Tăng Ni Phật giáo Việt Nam đều có  khả năng thực hiện hay chỉ một vài vị thôi?

Lời hỏi của Tuệ Đạo quá ư đột xuất, làm cho Đăng Triệu phải ngưỡng cổ lên, nhướng to đôi mắt, nhún vai mím môi, rồi đổi sang trạng thái tư duy im lặng qua vài sát na, đoạn cất lời nhè nhẹ:

- Câu hỏi của huynh vừa rồi, mặc dầu làm cho tôi có đôi chút ngẩn ngơ, nhưng tôi vẫn trả lời ngay vào yếu điểm, không cần gì phải tế nhị.

Thật sự mà nói, khoa chữa trị các thứ bệnh thể chất của con người bằng Phật pháp qua các thứ kinh và thần chú Đà La Ni, mà huynh vừa trình bày, phải nói là quá khó đối với tất cả Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia, huống hồ là bán thế trong đời mạt pháp này, lại càng khó hơn.

Tuy nhiên, khó thì khó, không phải là không có, nói như lời của huynh: “chỉ có một vài vị là đúng”! Bởi vì thực chất nguyên lý hoằng hóa độ sanh và đặc thù giới tính từ bi của Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia là nhập thế, là những bộ hành không cô đơn, thường hằng lê gót giữa trường đời đầy sa mạc nóng bỏng, bão cát, chông gai, hố thẳm để tri hành sự nghiệp độ sanh mộc cách đồng đẳng bằng Phật pháp trong công cuộc cứu chữa con người được thoát khỏi khổ đau thực tại ở bản thân bệnh tật và tâm linh được thoát khỏi sinh tử ở mai sau. Mà phương tiện hóa độ ấy không gì khác hơn, đó là Phật pháp luôn canh cánh bên lòng, và hành trang tư tưởng “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” là đề cương tiến bước, thì làm sao mà không có những vị Tỳ Kheo Tăng Ni tri hành “Nhị khoa Phật pháp”trong việc chữa trị hai thứ bệnh tâm linh và thể chất của con người! Được như vậy, là do tâm thức quý ngài luôn hội đủ 3 ý nghĩa và 5 đặc tính Tỳ Kheo. Cho nên vận hành độ sanh của quý ngài như con tàu lửa chạy trên hai đường ray. Từ đó cho ta thấy trong mọi thời đại nào, ở đâu trên đất Việt hay hải ngoại, đều có Tăng Ni đồng chơn xuất gia tu và hành Phật đạo, hóa độ chúng sanh bằng hai giáo pháp cứu khổ của Phật. Một giáo pháp thực chứng của Phật. Hai, giáo pháp của đức Phật khác như kinh Dược Sư của Phật Dược Sư, kinh Phổ Môn và thần chú Đại Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, là hai vị cổ Phật, v.v… Điều ấy, Phật tử chúng ta ắt hẳn hơn một lần được thấy chư Tăng Ni tại các chùa hành lễ cầu an bằng mấy thứ kinh đó (Dược Sư, Phổ Môn, Đại Bi). Nhưng những hình thức cầu an đó, chỉ là nghi lễ theo nghĩa tôn giáo, không thể không có!

Đạo Phật thì khác, một tôn giáo đặc thù cứu khổ chúng sanh bằng giáo pháp của chư Phật nói chung, nói riêng của Đức Thích Ca Mâu Ni để chữa trị mọi thứ bệnh khổ ở tâm linh và thể chất chúng sanh một cách lân mẫn, trực tiếp, đối diện bằng lời nói tình người, lời pháp tình đạo đầy từ bi thương xót, cùng với đôi tay chăm sóc tận tụy như người mẹ thương con, cũng như ra sức công phu trì tụng kinh chú Đà La Ni nhiều giờ trước bàn Phật, trong đó có lạy sám hối, hướng dẫn bệnh nhân lạy sám hối để tiêu trừ bệnh tật, vì mọi thứ bệnh khổ trong thân, tâm con người là do các quả báo nghiệp ác gây ra.

Theo Đăng Triệu tôi, tất cả mọi hình thái sắc tướng như thuyết pháp, hướng dẫn tu học, Phật thất, Bát Quan trai, Thiền định, cầu an, cầu siêu, trai đàn chẩn tế, lễ lạc… mà chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni trong quá khứ và hôm nay đã và đang hành hoạt cho quần chúng Phật tử trên đất Việt và hải ngoại, tôi mạo muội xin gom chung làm một với tên mới là “Nghi thức cứu bệnh khổ”. Bởi vì xét ra cho kỹ, tất cả hình thái hành hoạt đạo pháp ấy của chư Tăng Ni đối với nhân thế xã hội, đều cùng một mục tiêu là cứu chữa mọi bệnh khổ của con người. Vì thế mà Đạo Phật được mệnh danh là đạo cứu khổ. Giáo pháp Phật là phương tiện cứu khổ rất thực tiển ra thành lời chứa đựng tình người, tình đạo, bằng hành động tiếp cứu thật từ bi, thân thương, tận tụy và kiên nhẫn như người mẹ đối với con, đúng câu “Phật thương chúng sanh như mẹ thương con”. Do vậy, từ xưa nay chúng ta có bao giờ nghe người đời gọi Đạo Phật là Đạo cầu siêu, Đạo cầu an, Đạo Thiền đâu! Mà chỉ nghe nói Đạo Phật là Đạo Từ Bi, Đạo cứu khổ không thôi. Đúng như vậy, khi tâm hồn con người theo đạo thờ ông bà, Đạo Phật, có nỗi buồn phiền, bệnh hoạn, khổ đau bởi sự cố nào đó gây ra, người ấy đến chùa, đứng trước tượng Phật, chắp tay, lễ lạy, nói lời lên chư Phật cầu xin Phật gia hộ giải trừ cho hết buồn phiền, khổ đau,. Hay tìm đến vị Tăng, Ni trù trì, để trình bày nỗi khổ đau, buồn phiền, bệnh hoạn, xin quý ngài giải trừ, cứu chữa cho. Qua đây cho ta thấy rõ ràng, chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni trong Đạo Phật là những người thầy thuốc của thế gian, suốt đời tu hành lo việc cứu chữa nhiều thứ bệnh của chúng sanh. Cứu chữa đúng phương cách, đúng bệnh bằng pháp dược Phật, bệnh nào dược Phật đó, với tấm lòng vì người, khởi tâm nhẫn nhục, tận tụy chăm sóc của Tăng Ni đối với người bệnh… thì nhất định các thứ bệnh của chúng sanh được hết, được khỏe mạnh trong thực tại, được dứt trừ sinh tử ở các đời sau. Nhất hạng là những dược pháp ở các kinh Phổ Môn, Dược Sư, Thủy Sám, chú Đại Bi, là những thần dược pháp rất linh diệu tối thượng cho việc chữa trị các căn bệnh tâm thần, ếm đối, thư ếm, bệnh tà, thể chất nội tạng của con người rất hiệu lực và kết quả hiện thực.

Nhờ những thần dược pháp trong các kinh Phổ Môn, Dược Sư, Thủy Sám, chú Đại Bi, Lăng Nghiêm, các Đà La Ni khác mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, vị cổ Phật phát đại nguyện thường hiện hữu khắp mười phương thế gian để sẵn sàng cứu chữa mọi bệnh tật, khổ nạn của chúng sanh một khi vừa nghe biết lời khẩn cầu của chư vị thầy thuốc Tăng Ni đem tâm từ bi hướng lên ngài, ngài liền nối kết và gia trì lực. Cũng như nhờ những hiện tượng của người bị bệnh tâm thần, ếm đối, thư ếm… được dứt trừ, được khỏe ra, lành hẳn sau thời gian được chư Tăng Ni tận tình cầu nguyện cứu chữa, vì thế mà Đạo Phật được nổi bật rõ nét là Đạo cứu chữa bệnh tật, cứu nạn khổ chúng sanh.

Qua những hiện tượng thực tại của những người bị bệnh khác nhau, đến chùa nhờ chư vị thầy thuốc Tăng Ni chữa trị, từ chỗ có những trạng thái lừ đừ, thẩn thờ, nói nhảm, ngồi im ủ rũ, sầu khổ do tâm trí bị rã rời, vung văng cơ thể, đau nhức và mỏi mệt bản thân, v.v… cho đến được trở lại bình thường, tỉnh thức, biết thương yêu thân quyến, an lạc, vui cười, ăn ngon, ngủ được, cơ thể khỏe ra, mập mạnh, phát nguyện quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, về chùa tu học, công quả Phật sự sau thời gian được Tăng Ni ra công cầu nguyện, chữa trị, thấy rõ.

Những hiện tượng của chư vị thầy thuốc Tăng Ni có tấm lòng vì người được thấy rõ qua quá trình tri hành các giáo vụ chữa trị các thứ bệnh của con người được song hành với nhau, đó là thuyết nhiều bài Phật pháp chứa đựng tính chất chuyển hóa các thứ bệnh vô minh, phiền não, tập khí tham, sân, si, chấp ngã, ngã mạn, ác kiến… của con người được chuyển thành chơn tâm vô ngã. Hướng dẫn cho mọi người Phật tử tu Phật thất để được vãng sanh cực lạc, phụng trì và phát triển văn hóa đạo pháp và các lễ lạc Phật giáo một cách không ngừng nghỉ. Bên cạnh đó, trong vai trò người thầy thuốc chữa trị các thứ bệnh tâm thần, thể chất của con người, được thấy rõ qua quá trình thiền định nội công, trì tụng các thần chú Đà La Ni nhiều giờ để tạo thần lực diệu dung ở tâm thức là phương tiện chữa trị. Tụng Thủy Sám và lạy để sám hối dùm cho người bệnh. Suốt cả cuộc đời tu hành, quý ngài luôn hành trì giới luật thật nghiêm minh suốt qua từng năm, tháng, nên đời sống luôn có trạng thái tỉnh thức và đạo đức được thấy rõ qua thái độ đối đãi với toàn thể Phật tử, do năng lực tâm vô ngã, được sự nuôi dưỡng của bốn pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả mà quý ngài ra công tu tập.

Cái chơn tâm vô ngã và bốn tấm lòng rộng lớn ấy (từ, bi, hỷ, xả) trong tâm thức của các vị Tăng Ni đang dấn thân chữa trị các thứ bệnh của con người được có kết quả dứt trừ, hết hẳn, cho ta thấy tâm quý ngài giống như tia sáng la de cực mạnh xuyên suốt qua nội tạng người bệnh để xôa đi, trừ khử ung nhọt tận gốc. Như ly nước trong vắt không còn các thứ trần cấu. Như tấm gương sáng trong suốt hai mặt không có vết dơ ô uế nào. Pháp dược là chỗ đó. Trí tuệ diệu dụng là chỗ đó. Người thầy của thế gian là chỗ đó. Hoằng hóa độ sanh là chỗ đó. Trưởng tử Như Lai là chỗ đó. Tỳ Kheo là chỗ đó. Phật thương chúng sanh như mẹ thương con là chỗ đó. Đích thực quý ngài luôn lân mẫn bên chúng sanh bị các bệnh khổ, nói những lời Phật pháp khác nhau, trì tụng kinh, chú Đà La Ni, lời khuyên nhủ, vỗ về, thăm hỏi, an ủi… thật dịu dàng đầy tình thương được xuất phát từ cái tâm đại từ bi của Phật trong lúc chữa trị các thứ bệnh. Bên cạnh đó, là hành động thật dịu dàng khi đưa cho người bệnh uống nước cúng Phật, hay xoa dầu vào chỗ đau nhức ở bản thân người bệnh, cùng với lời kể chuyện vui, thậm chí còn ngâm thơ, hát cho người bệnh nghe bài ca Phật giáo có nhạc và âm điệu thật sinh động. Tất cả những hình thái ấy chỉ là phương tiện cứu chữa các bệnh tật con người được mau bình phục.

Chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni trong Đạo Phật trên nguyên lý cứu mọi bệnh khổ chúng sanh, ai cũng được mệnh danh là vị thầy thuốc chữa trị các thứ bệnh chúng sanh được dứt trừ, đều phải hội đủ những bản sắc văn hóa xuất thế gian và thế gian ấy, vì thế gian pháp chính là Phật pháp. Theo Đăng Triệu tôi thấy như vậy. Còn huynh Tuệ Đạo, thấy sao ở quý ngài Tỳ Kheo Tăng Ni của ta?

- Tôi cũng có cùng tư tưởng như huynh.

Sau câu trả lời ngắn gọn của Tuệ Đạo, cả hai người ngồi im lặng qua từng giây, phút như để tìm tư tưởng mới. Bỗng Đăng Triệu nhìn qua Tuệ Đạo với trạng thái ngập ngừng trên đôi môi. Thấy vậy Tuệ Đạo mở lời:

- Huynh muốn nói điều gì, phải không?

- Đâu đó! Tôi muốn hỏi huynh điều này…

- Điều gì, huynh cứ hỏi đi, để xem tôi có giải đáp được hay không?

Đăng Triệu liền nghiêng đầu qua Tuệ Đạo, nói nhỏ:

- Huynh Tuệ Đạo, giữa lời nhận định chót của tôi vừa rồi về chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni, ai cũng được mệnh danh là thầy thuốc chữa trị các thứ bệnh thân tâm chúng sanh được dứt trừ, đều phải được hội đủ hai nền văn hóa Phật giáo và thế gian tương dung nhau. Thì tự nhiên ý tôi nhớ ra lời của một số Phật tử nói với nhau rằng: Sư bà Diệu Từ là vị Tỳ Kheo Ni trong thời đại văn minh khoa học kỹ thuật vật chất cao độ của nước Mỹ này, mà Sư bà có khả năng chữa trị dứt trừ được hai thứ bệnh khổ về tâm vô minh, phiền não, ngã mạn, ngã ái… về thân ở nội tạng, tâm trí buồn khổ, tâm thần âu lo… của con người, là do có hội đủ hai nền tảng văn hóa Phật giáo và thế gian. Có phải vậy không, anh Tuệ Đạo?

- Vâng. Trong lúc huynh đem lời nhận định, tôi đã thấy ngay rồi. Tôi thấy ở đâu trên thế gian này có hữu tình chúng sanh, ở đó có Bồ Tát thị hiện cứu khổ độ sanh trong mọi thời đại, không hạn định xứ sở, do đó tôi chẳng những thấy riêng ở Sư bà Diệu Từ, mà thấy luôn một số vị Hòa Thương, Sư bà ngày xưa trên quê hương đã chữa trị hai thứ bệnh khổ ở thân tâm con người được dứt trừ. Thì ngày nay tại hải ngoại, Sư bà Diệu Từ có khả năng vượt bực nhiều cách chữa trị mọi thứ bệnh khổ ở thân tâm con người được dứt trừ, là một sự thật hiển nhiên trong lãnh vực Phật pháp nhiệm mầu nói chung, nói riêng 5 đặc tính của cỏ Bikkhu mà Đức Phật dùng đặt tên cho hàng đệ tử xuất gia của ngài là Bikkhu (Tỳ Kheo). Cho nên vai trò của chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni là phải chữa trị mọi thứ bệnh khổ chúng sanh, không còn việc nào khác hơn, mới xứng danh là Tỳ Kheo, trưởng tử Như Lai!

Do vì được xứng danh Trưởng Tử Như Lai, nên chi chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia của Phật giáo Việt Nam, ai cũng tận lực dốc hết hai  khả năng văn hóa Phật giáo và thế gian của mình ra tương duyên nhau trong công cuộc hoằng hóa độ sanh, cứu khổ, giải trừ mọi thứ bệnh khổ chúng sanh được dứt trừ, an lạc trong thực tại, giải thoát sinh tử ở tương lai. Nhưng không phải vị nào cũng đạt được kết quả trăm phần trăm đâu nhé! Tùy theo khả năng văn hóa hai chiều hay một chiều mà có kết quả theo mức độ phần trăm.

Đa số Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia của Phật giáo Việt Nam trên quê hương và hải ngoại trong thời đại ngày nay, chỉ có khả năng văn hóa một chiều, đó là Phật pháp, nên chỉ có hành hoạt các giáo vụ hướng dẫn Phật tử tu thiền, Phật thất, Bát Quan Trai, thuyết giảng Phật pháp, tu học, một vài tập san Phật giáo, thi ca, để làm phương tiện trong việc chữa trị các thứ bệnh vô minh, phiền não, ngã mạn, ngã si, ngã ái… của Phật tử để họ tự tiến đến bờ giải thoát sinh tử.

Còn lại một số ít Tăng Ni Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước ở cấp giáo phẩm Hòa Thượng, Sư bà có khả năng văn hóa hai chiều. Tức là quý ngài tri hành cùng lúc hai thứ Phật pháp.

Một để chữa trị các thứ bệnh khổ ở tâm, đó là các thứ bệnh vô minh, phiền não, tham, sân, si, ngã mạn… của Phật tử được dứt trừ bằng các pháp thiền định, Phật thất, Bát Quan Trai, giáo lý phổ thông tu tập, được đi cùng với thi ca Phật giáo và dân tộc, âm nhạc Phật giáo, các tập san Phật giáo… để làm phương tiện cho Phật tử trong lúc tu tập được mau giác ngộ chơn lý vô ngã của các pháp, là hành trang qua bờ giải thoát.

Hai, để chữa trị các thứ bệnh tâm thần, thể chất, trù ếm, ếm đối, bệnh tà… của con người được dứt trừ, trở lại khỏe mạnh, an vui trong thực tại, bằng Phật pháp nhiệm mầu qua các thứ kinh Dược Sư, Phổ Môn, Thủy Sám, chú Đại Bi và các thần chú Đà La Ni khác, cùng với thân giáo trang nghiêm được hiển lộ ra lời thăm hỏi, vỗ về, khuyên nhủ an ủi đầy lòng tư bi nhân ái thương yêu…, chính là những chất liệu có năng lực làm tan biến, xua đuổi các thứ bệnh hoạn mau ra khỏi thân, tâm người bệnh, khi họ cảm thấy hỷ lạc, khuây khỏa ở tâm hồn.

Một số Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia ở cấp giáo phẩm Phật giáo Việt Nam có khả năng Phật pháp hai chiều và văn hóa thế gian trong công cuộc hoằng dương chánh pháp, cứu khổ độ sanh được giác ngộ và được dứt trừ các bệnh khổ, đó là những vị nào? sẽ được điển hình ở trang sau.

Trước khi điển hình danh tánh quý ngài, tôi phải vẽ ra hai hiện tượng bằng lời . huynh nhìn vào sẽ thấy rõ Phật pháp một chiều và Phật pháp hai chiều có văn hóa thế gian tương duyên nhau.

Hai hiện tượng đó là:

1- Có hiện tượng này mà không có hiện tượng kia

2- Có hiện tượng này đồng thời có hiện tượng kia

Số một- Ta thấy rõ ràng hình tướng chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia thật là đạo mạo, nghiêm trang, đắp y áo vàng rực, ngồi (đứng) thuyết những bài pháp Thiền định, từ bi, vô ngã, tham, sân, si, nhẫn nhục, vân vân… trước hàng chục, trăm cử tọa Phật tử Việt Nam các giới nhiều lần tại chánh điện chùa hay hội trường ngoài xã hội. Quý ngài nói rất hùng hồn, rành mạch lý lẽ (khế lý) của từng bài pháp (tục đế) và có pha trộn một số đạo lý, thơ văn thế gian để làm sáng tỏ đạo (chơn đế) cho người nghe được tỉnh thức, giác ngộ chơn lý Phật Đà. Nhưng số hàng chục, hàng trăm Phật tử hết lòng đến nghe đó đã nhiều lần, mà không ai thấy được có hiện tượng tỉnh thức, vẫn còn những hành động lăng xăng, nói năng không đúng chánh pháp. Không thấy ai được có hiện tượng hiền lành, đạo đức, biết thương mến bạn đạo cùng chùa, vẫn còn những thái độ  khinh khi, ghét bỏ những Phật tử khác. Không thấy ai được có hiện tượng vô ngã, vẫn còn đầy ắp thái độ ngã mạn về danh lợi, chức tước. Không thấy ai được có hiện tượng buông xả, nhẫn nhục, lục hòa… vẫn còn hành động tham lam, giận hờn, tật đố đối với người chung quanh, vân vân…

Số hai- Có hiện tượng này, đồng thời có hiện tượng kia

Có hiện tượng này, đó là hình tượng chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn xuất gia, đắp y hậu chỉnh tề ngồi ở bàn hay đứng ở bục thuyết pháp

Đồng thời có hiện tượng kia, có nghĩa là toàn thể nam nữ Phật tử sau nhiều lần nghe thấy những vị Tăng Ni đồng chơn thuyết pháp, thì ai cũng được có tâm hồn giác ngộ chân lý vô ngã của các pháp, trạng thái tỉnh thức, được thấy qua hiện tượng hòa nhã, khiêm cung, cùng với lời nói ngọt ngào, tế nhị, hành động thân thương với mọi người tại chùa, ngoài xã hội một cách bình đẳng.

Tuệ Đạo giải thích xong hai vế của câu số hai, chàng ngồi im trong trạng thái tư duy thầm lặng, như đang nghĩ ngợi về hình bóng nào ở quá khứ. Sau một vài giây phút suy tư ấy, Tuệ Đạo gật đầu vài cái như đã tìm thấy những hình bóng cũ đang hiện về nơi không gian tâm linh, chàng nhìn sang Đăng Triệu nói khẽ bằng âm thanh trầm buồn:

- Đăng Triệu ơi! Hai vế của câu số hai, mà tôi vừa giải thích cho huynh nghe đó. Ôi! Chư vị thuyết pháp ngày xưa, tất cả không còn hiện hữu trên đời này nữa, đã trở thành tiền bối, thiên cổ cả rồi! Còn đâu nữa chư vị Hòa Thượng Đôn Hậu, Trí Thủ, Thanh Trí, Mật Nguyện, Thiện Hoa, Thiện HòaSư bà Diệu Không, Từ Hương…!

Còn chư Tăng Ni và Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước thực tại, thì chao ôi…!

Sau âm thanh “chao ôi!”, Tuệ Đạo nín lặng qua vài tích tắc đồng hồ, đoạn chàng cất lời hùng hồn:

- Tuy nhiên, “Đừng tưởng Xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai.” Ở đâu có hữu tình chúng sanh, ở đó có Bồ Tát thị hiện cứu khổ độ sanh. Tre tàn măng mọc, theo quy luật duyên sanh, duyên khởi.

Nói xong hai câu thơ của thiền sư Mãn Giác đời Trần, tư tưởng Bồ Tát và ngạn ngữ Việt Nam, Tuệ Đạo hỏi Đăng Triệu:

- Huynh có cảm tưởng gì về hai câu thơ của thiền sư Mãn Giác?

- Có chứ. Tôi thấy hai câu thơ ấy có chứa đựng tư tưởng truyền thừa Đạo pháp. Đạo pháp không bao giờ bị tiêu hủy, dù có bị suy đến đâu, rồi cũng được tiếp tục hiện hữu giữa thế gian do các bậc Tỳ Kheo Tăng Ni chân tu hậu lai kế thừa sự nghiệp hoằng dương chánh pháp Như Lai, nếu không nói là ở đâu còn có hữu tình chúng sanh, ở đó có Bồ Tát thị hiện độ sanh, dù chỉ có một vị, Đạo pháp vẫn được rạng rỡ. Có đúng như vậy, hay không?

- Rất đúng. Phật pháp không bao giờ bị mất hẳn, vì Phật pháp được xuất phát từ thế gian. Bồ Tát được xuất phát từ con người mà ra. Như vậy, Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay, là thời đại “NGƯỜI VIỆT ỒN ÀO”. Theo huynh, được có bao nhiêu vị Tỳ Kheo Tăng Ni chân tu mang tư tưởng Bồ Tát Văn Thù, Quán Thế Âm, Địa Tạng… trên vận hành hoằng hóa cứu khổ độ sanh đúng theo câu số hai, mà tôi đã nói vừa rồi?

Đăng Triệu ngơ ngác và lúng túng lời hỏi chót của Tuệ Đạo. Chẳng bao lâu, chàng cất lời hỏi:

- Câu thứ hai như thế nào, tôi không còn nhớ, xin huynh lặp lại cho.

- Câu số hai là: “Có hiện tượng này, đồng thời được có hiện tượng kia”. Nhớ chưa huynh?

- Nhớ ra rồi! Nhớ thì nhớ, nhưng mà Đăng Triệu đâu có biết rõ bao nhiêu vị Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn Phật giáo Việt Nam chân tu, đã và đang hành hoạt chánh pháp cứu khổ độ sanh đúng theo tinh thần của câu thứ hai giữa thời đại “Người Việt Ồn Aøo” trong và ngoài nước! Nếu tôi không lầm, vừa rồi huynh Tuệ Đạo có hứa sẽ điển hình một số Tăng Ni giáo phẩm Phật giáo Việt Nam có khả năng Phật pháp hai chiều thật nhiệm mầu trong việc nói pháp hóa độ và chữa trị các thứ bệnh khổ con người. Đúng như vậy, xin mời huynh điển hình?

Lời Đăng Triệu mời Tuệ Đạo điển hình Tăng Ni, làm cho Tuệ Đạo phải mất vài giây suy nghĩ, sau đó nói:

- Vấn đề điển hình (đưa ra cho mọi người thấy biết) một số chư tôn đức Tăng Ni Phật giáo Việt Nam chân tu đang hành hoạt Phật pháp đúng theo tinh thần câu số hai tức là chư tôn đức Tăng Ni nào đó nói pháp, mà người nghe pháp được giác ngộ. Hay dùng Phật pháp trong việc cứu chữa các thứ bệnh khổ thân tâm con người bị bệnh được lành bệnh, được dứt trừ hẳn, do có khả năng Phật pháp hai chiều. Thật là khó điển hình lắm! Bởi vì trên đất nước ta, những người không tài đức, có bao giờ đem lời tán thán, ca ngợi những người có tài đức đâu! Cho nên mình nói lời điển hình quý ngài tài đức, nhất định mình sẽ bị người không tài đức nói mình là kẻ xu nịnh. Tuy nhiên, không phải vì thế mà mình im lặng, không điển hình! Bởi vì điển hình danh tánh những người tài đức ra giữa xã hội để cho mọi người được biết, là một đạo lý ngàn đời của xã hội con người, đã và đang áp dụng cho nhau, để học hỏi theo những điều hay lẽ phải của người tài đức đang có. Chẳng hạn Hòa Thượng Thích Thanh Từ, là bậc đạo sư chân tu, được hàng ngàn Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước quy y, theo học Phật pháp với ngài, do vì ngài nói pháp đến đâu, người nghe hiểu và ngộ đến đó. Trước khi người ta đến ngài để học Phật, là do có nghe những người Phật tử có đạo tâm Bồ Đề nói ra tài đức, chân tu của ngài trong báo chí, sách vở, phát hành DVD, CD, đều là cách điển hình. Nhờ đó mà được quần chúng Phật tử biết đến ngài. Điển hình danh tánh, thông báo những người tài đức nổi tiếng, là nền văn minh truyền thống của nhân loại.

Tại các nước Âu Mỹ, những người dân trong các giới được nổi tiếng về khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, thể thao, xã hội, từ thiện, tôn giáo… được cơ quan văn hóa quốc gia tổ chức, mời nhiều người đến để nói lời tuyên dương ca ngợi và trao tặng bằng khen khi còn hiện hữu, chứ không chờ sau khi chết mới tổ chức lễ truy điệu, truy niệm, tuyên dương, ca ngợi.

Người Việt ta trong và ngoài nước, ai là người có tài đức nổi tiếng khi còn sống, không được mọi người trong các cơ sở văn hóa, xã hội… tổ chức nói lời ca ngợi, tuyên dương. Sau khi chết, thì mới được nhiều người trong các giới tổ chức lễ truy điệu, tuyên dương, ca ngợi hết lời. Nếu không nói là truyền thống đặc thù củ người dân Việt “Sống còn chẳng được ai khen. Chết rồi được thấy trống kèn, điếu văn”.

Có lần tôi lấy làm vui mừng được gặp vị Thượng Tọa, một cựu học tăng Phật Học Viện, nên chi được có đức độ và tài năng văn hóa Phật giáo và quốc gia qua các bằng cấp đại học, được chư tôn đức Tăng Ni trong nước và hải ngoại biết đến. Vị ấy về lập chùa tại vùng tôi ở, một xứ lạ đối với thầy. Để tỏ lòng tôn kính bậc tăng tài và cũng để cho toàn thể Phật tử được biết đến, tôi viết vài lời thành văn bản, có nội dung giới thiệu đến toàn thể Phật tử được biết thầy, mà đến nghe pháp và tu học với thầy.

Trước khi gởi cho Phật tử, tôi đưa thầy xem. Xem xong, thầy nói:

- Huynh viết như thế này, chư tôn đức đọc được, quý ngài không bằng lòng đâu! Xin huynh đừng phổ biến.

Tôi mới nói:

- Tôi viết thật về tài năng thầy vốn có, chứ đâu viết phịa, viết giả, không có nói có, mà thầy lại sợ. Nếu chư tôn đức chưa biết đến khả năng văn hóa của thầy, thì thầy sợ là đúng. Đằng này, chư tôn đức trong và ngoài nước đều biết đến tài năng văn hóa của thầy. Cớ sao thầy sợ?

- Vậy mà sợ đó!

Tuệ Đạo quay qua Đăng Triệu hỏi ý kiến:

- Theo huynh, chúng ta nên giới thiệu điển hình một số Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn đang hiện hữu ở cấp giáo phẩm trong và ngoài nước có khả năng Phật pháp hai chiều, đang hành hoạt cứu khổ, độ sanh, hay không?

- Theo tôi, chúng ta nên điển hình và giới thiệu quý ngài, để Phật tử xa, gần được biết đến cho các việc lợi ích về nghe pháp, tu học, lễ bái, cúng dường sau khi bắt gặp được quý ngài do lời giới thiệu của chúng ta. Đó là bổn phận của Phật tử trong đại gia đình Phật giáo đều phải quan tâm đến chư tôn đức đang có đạo cao, đức trọng trong việc tán dương, khen ngợi bằng lời giới thiệu, điển hình danh tánh quý Ngài. Chính Đức Thế Tôn khi còn tại thế, trong lúc nói pháp độ sanh với đại chúng tăng, ngài thường có lời tán dương, khen ngợi chư vị Bồ Tát nào có tư tưởng hay, độc đáo về Phật pháp. Chẳng hạn, Đức Phật nói: “Hay thay! Hay tháy! Đức Đại Hùng Thế Tôn. Các hàng chúng sanh thảy đều hóa độ được dễ” (phẩm Tùng Địa Dõng Xuất – trang 356).

Qua lời Đức Phật tán dương khen ngợi Bồ Tát Đại Ca Diếp, cũng như lời chư vị Bồ Tát cũng có lời tán thán Đức Phật khéo hóa độ hết thảy chúng sanh… mà tôi vừa mới trình bày với huynh, chính những tư tưởng ấy, là tâm biết tôn kính, ngưỡng mộ đến những người đang có tài năng văn hóa, đức độ, mà các bậc chân nhân, quân tử không thể không có lời giới thiệu với mọi người xa, gần được nghe, biết đến.

Như vậy, huynh Tuệ Đạo là người Phật tử có quá trình quen biết, gần gũi chư tôn đức Tăng Ni trong và ngoài nước, nên mạnh dạn nói lời giới thiệu, điển hình danh tánh quý ngài nào có tài năng văn hóa Phật giáo hai chiều với chư Tăng Ni và Phật tử hậu lai được biết qua lời điển hình của huynh, để mà bắt chước làm theo cách thức hoằng pháp cứu khổ độ sanh của quý ngài ở chủ đề số hai “Có hiện tượng này, đồng thời được có hiện tượng kia”, mà huynh đã vẽ ra, sau những lần huynh mục kích và theo dõi, nhìn thấy quý ngài thuyết pháp hướng dẫn Phật tử tu tập đúng cách, cho nên sau đó Phật tử ai cũng có trạng thái khiêm cung, ái ngữ, hiền hòa, đức độc như quý ngài. Xin mời huynh điển hình cho một vài vị.

Sau lời mời của Đăng Triệu, Tuệ Đạo nhìn Đăng Triệu mỉm cười, rồi đi vào trạng thái tư lự, như để nhớ lại danh tánh chư Tăng Ni đang hiện hữu trong và ngoài nước, ai là người Tăng bảo đã và đang thành công trên cơ sở thuyết pháp hướng dẫn Phật tử tu học, làm cho ai được thường hằng tỉnh thức được thấy rõ qua thái độ ái ngữ, khiêm cung, hiền hòa, đạo đức. Qua mấy giây tư lự, Tuệ Đạo mở lời:

- Thật lòng mà nói, chư Tăng Ni Phật giáo Việt Nam ở cấp giáo phẩm có khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều trước 1975 rất xa và sau 1975, đã lần lượt viên tịch, như tôi đã thống kê vừa rồi. Tuy nhiên, đừng tưởng, xuân tàn hoa rụng hết! Vẫn còn, nhưng chẳng được bao nhiêu. Số còn lại đó, là lớp cũ, nay lên hàng giáo phẩm tại quốc nội và hải ngoại, đã và đang được thành công lớn trong việc nói pháp hướng dẫn nam, nữ Phật tử Việt Nam và Âu Mỹ tu tập được mau tỉnh thức, giác ngộ chơn lý vô ngã của Phật giáo. Do đó, quý ngài ở tại quê hương, và hải ngoại, luôn luôn được quần chúng Phật tử đến thăm viếng, lễ bái, cúng dường, nghe thuyết pháp, sau đó xin quy y và tiếp tục học Phật và tu tập chánh pháp với quý ngài càng lúc càng đông.

Tại quốc nội, trên cả ba miền nam, trung, bắc Việt Nam, theo Phật tử cho biết được có một vài vị, như Hòa Thượng Thích Thanh Từ.

Với Hòa Thượng Thanh Từ, ngài là một thiền sư đúng danh tánh, nhưng ngài nói nhiều bài Phật pháp khác nhau cho mục đích để đối trị lại số đông Phật tử có căn tính khác nhau đến nghe ngài nói pháp, hướng dẫn cách tu tập, cho nên tâm thức của từng người ai cũng được tỉnh thức, buông xả mọi thứ vô minh, phiền não, ngũ trược, ngã mạn, ngã si, ngã sở, ngã ái… tuần tự tan biến ra hết, tâm hồn được an trú trong thanh tịnh.

Những Phật tử nào không được nghe ngài thuyết pháp, chỉ có đọc sách Phật pháp của ngài, tâm hồn họ cũng được tỉnh thức, liễu ngộ chơn lý vô ngã các pháp, tâm hồn được thanh thoát, an lạc do buông xả tất cả mọi thứ ngã.

Về Tỳ Kheo Ni ở cấp giáo phẩm tại quốc nội có khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều như các vị: Sư bà Diệu Không, Tâm Đăng, Từ Hương, nhưng các vị ấy đã viên tịch hết, không còn ai. Tuy nhiên cũng phải điển hình một vị để Phật tử được biết. Đó là Sư bà Thích Nữ Diệu Không.

Sư bà Diẹäu Không có biệt tài, là nói những bài Phật pháp ở lãnh vực giáo dục,  khuyên nhủ, an ủi, giải bày lý lẽ phải trái… đối với chư Ni chúng trong Tu viện, các nam nữ Phật tử có nỗi buồn, bất hòa với nhau v.v… Tất cả đều lãnh hội được lời pháp Sư bà nói, cho nên ai cũng cảm thấy an lạc, hạnh phúc, buông bỏ điều ác, trở lại tâm thiện, hiền hòa với nhau..

Tăng Ni Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại tại các châu, cũng chỉ được một vài vị ở cấp giáo phẩm có khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều ở giữa hàng ngàn Tăng Ni già, trẻ các cấp.

Một vài vị Tăng Ni ở cấp giáo phẩm cho khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều ấy, được đa số nam nữ các giới Phật tử Việt Nam và Âu Mỹ nương theo học, thực hành Phật pháp một cách tích cực.

Trong số một vài vị đó, chỉ có một vị Tỳ Kheo duy nhất ở tuổi trên lục tuần.

Tôi chỉ điển hình hai vị, một Tỳ Kheo Tăng và một Tỳ Kheo Ni mà thôi. Còn lại một số vị nào đó, huynh tự tìm hiểu sau này.

Vị Tỳ Kheo Tăng, đó là Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh. Hòa Thượng Nhất Hạnh là vị thiền sư quốc tế cũng là một nhà đại văn hóa Phật giáo và dân tộc Việt.

Hòa Thượng Nhất Hạnh là thiền sư đã và đang giảng Phật pháp và hướng dẫn mọi tầng lớp Phật tử quốc tế và cả các giới ngoại đạo học và hành thiền trong thời đại hậu bán thế kỷ 20 vừa qua khắp các châu lục, nay còn tiếp tục ở đầu thế kỷ 21.

Những bài Phật pháp thiền của Hòa Thương giảng và hướng dẫn cho hàng ngàn hành giả các giới nghe và thực tập, không thấy gì là thiền trong đó, chỉ là những bài Phật pháp có đề tài khác nhau. Ấy thế vậy mà, sau những giờ phút nghe Hòa Thượng giảng pháp, hàng ngàn hành giả già, trẻ Việt, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, v.v… ai cũng đạt được tâm thiền định, được thấy rõ qua trạng thái tỉnh thức ở bước đi thật chững chạc, ngồi, đứng thật vững chãi nghiêm trang. Rồi được tiến dẫn đến các đức tính vô ngã, từ bi, hỷ xả, vô tham, vô sân, vô si, buông bỏ, biết thương yêu mọi người một cách bình đẳng, nói năng thật ái ngữ, đối đãi với mọi người thật khiêm cung, luôn sống cuộc đời đạo hạnh giữa xã hội và trong gia đình.

Thậm chí, có những vị linh mục, mục sư, bà sơ, bác sĩ, kỷ sư, nam nữ sinh viên các nước và người Việt, sau khi nghe Hòa Thượng giảng pháp và thực tập, họ phát nguyện xuất gia tu hành, sống trong Tăng đoàn của ngài hằng bao nhiêu năm rồi, mà chưa có vị nào bỏ cuộc. Điều đó chứng minh rằng, Hòa Thượng Nhất Hạnh đích thực là vị Tỳ Kheo Tăng Phật giáo Việt Nam có khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều, đúng theo công thức “Có hiện tượng này, đồng thời cũng có hiện tượng kia”, mà tôi đã vẽ ra.

Vị Tỳ Kheo Ni ở cấp giáo phẩm Phật giáo Việt Nam, đó là Sư bà Thích Nữ Diệu Từ.

Với Sư bà Diệu Từ, đáng lẽ ra tôi và huynh không cần luận bàn đến văn hóa Phật giáo hai chiều của Sư bà làm chi nữa. Bởi vì qua hằng trăm hình ảnh được nói về Sư bà từ lúc xuất gia, học và hành Phật đạo, cùng với văn hóa quốc gia được nhiều bằng cấp thật là gian khổ trong Ni viện suốt trên 30 năm trước ngày 30.4.1975 đã cho Sư bà có được hàng ngàn kinh nghiệm khác nhau về Phật học, văn hóa, giáo dục, từ thiện, xã hội, kinh tế, hành hoạt giáo vụ cứu khổ độ sanh, thi ca, âm nhạc, thể thao, thể dục, đối đãi mọi tầng lớp con người trong và ngoài Phật giáo Việt Nam, vân vân…, qua trạng thái và lời nói hiền hòa, thương kính,  khiêm tốn và tế nhị, mà tôi đã kể cho huynh nghe suốt cả tháng nay.

Hằng trăm hình ảnh giáo vụ cứu khổ độ sanh của Sư bà, đã được Tăng Ni Phật tử các giới ngày xưa vẫn còn đây tại quốc nội và hải ngoại biết đến đạo hạnh và trình độ văn hóa đạo, đời thật đa dạng của Sư bà. Chẳng những chỉ biết, mà còn khơi lòng ngưỡng mộ, tôn kính, thương mến Sư bà. Như thế cũng đủ chứng minh rằng Sư bà đã và đang được hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử  ngày xưa và hôm nay ai cũng biết đến Sư bà và đang hoằng pháp độ sanh đúng theo công thức số hai “Có hiện tượng này, đồng thời cũng được có hiện tượng kia” do Sư bà có khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều, đâu có thua gì với Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Nhất Hạnh!

Như vậy, theo huynh Đăng Triệu, chúng ta có nên kể cho nhau nghe thêm về khả năng văn hóa Phật giáo hai chiều của Sư bà đang có ở nội tâm, được thấy qua hai hiện tượng hiện thực: Sư bà nói pháp và hàng ngàn Phật tử nghe pháp được tỉnh thức, liễu ngộ chơn lý vô ngã của các pháp, hay không?

Đăng Triệu không cần phải tư duy, suy nghĩ gì cả, trả lời ngay một cách dõng dạc:

- Nên lắm chứ! Nói đến truyền thừa sự nghiệp gì đó cho các thế hệ mai sau là chỗ đó. Kẻ thừa kế sự nghiệp gì đó của các bậc tiền bối, cũng là chỗ đó. Chứ không phải để lại một mớ sách vở văn học, văn hóa, thi ca và những hình ảnh thiền viện, chùa chiền, Phật tượng có sắc thái thật hoành tráng hay hình ảnh thân tướng xuất gia có áo mão cân đai và ngôi tháp đồ sộ cao năm tầng, bảy tầng… mà gọi là truyền thừa, kế thừa!

Từ xưa nay, đa số Phật tử Việt Nam ở tuổi trung niên, cao niên đều có quan niệm rằng, ai đó hễ có thân tướng xuất gia Tăng Ni, là có năng lực làm cho các Phật tử được liễu ngộ chơn lý vô ngã, được hết bệnh hoạn, sau khi chết được siêu sanh Phật quốc. Cũng như hễ Tăng Ni nói lời gì đều hay biết. Tăng Ni nói pháp, Phật tử nghe pháp ai cũng sẽ được tỏ ngộ các đạo lý vô thường, khổ, không, vô ngã!

Lúc đầu mới vào đạo Phật, đến chùa nhìn thấy các Tăng Ni tụng kinh, nói pháp, cầu an, cầu siêu và các giáo vụ khác, tôi cũng có quan niệm giống như các Phật tử  đã từng quan niệm như vậy. Nhưng sau khi hơn một lần quyết tâm tìm hiểu người thật trong đạo Phật là ai? Việc thật trong Đạo Phật là gì? Giáo lý Phật Đà và công dụng. Giáo lý Phật có bao nhiêu phần cứu khổ độ sanh? Ai là người đem giáo lý cứu khổ độ sanh? Cứu khổ bằng cách nào?

Sau thời gian tìm hiểu, tôi mới nhận ra rằng, người thật trong Đạo Phật là chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni xuất gia đồng chơn. Việc thật trong Đạo Phật là Tam Tạng Giáo Điển. Tăng Ni đồng chơn và Tam Tạng Giáo Điển luôn tương quan nhau. Cho nên Tăng Ni mà không thông đạt Tam Tạng Giáo Điển Phật, thì không được gọi là Tỳ Kheo, Trưởng tử Như Lai. Phật pháp không được Tăng Ni tri hành cứu khổ, độ sanh, thì giống như vật báu được trưng bày trong viện bảo tàng.

Công dụng của giáo lý Phật Đà là cứu chữa mọi bệnh khổ chúng sanh được dứt trừ, cho nên toàn bộ pháp môn của Phật, chính là những vị thuốc chứa đựng những chất dược chữa trị được hết mọi bệnh khổ của chúng sanh. Vì thế giáo lý Phật gồm có 3 phần đối trị lại 3 thứ bệnh chúng sanh, bệnh nào cũng được dứt trừ. Đó là phần cứu chữa các thứ bệnh khổ về vô minh, phiền não, ngã mạn, ngã chấp, v.v… được dứt trừ, được qua bờ giải thoát, như những giáo lý Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo, Bát Nhã, Kim Cang, v.v… Thứ đến, đó là phần cứu chữa các thứ bệnh ở bản thân con người được dứt trừ, như những thứ kinh Dược Sư, Phổ Môn, Thủy Sám và các thần chú Đại Bi, Đà La Ni khác. Thứ nữa, đó là phần cứu khổ bạt độ chư vong linh đang bị đọa đày trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ được siêu thoát, như các thứ kinh Diệm khẩu, Vu Lan, Trung Ấm, các thần chú Đà La Ni.

Tất cả những giáo pháp Phật trong ba phần ấy, chính là phần căn bản cứu khổ độ sanh, đúng như lời Phật đã nói: “Giáo pháp mà ta đã thực chứng giống như là cây trong rừng. Còn giáo pháp mà ta chỉ bày cho chư vị Tỳ Kheo để tu tập giải thoát và cứu khổ độ sanh giống như số lá trong lòng tay ta”.

Tất cả chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni các cấp Phật giáo Việt Nam, ai cũng tri hành đứng đắn cốt lõi của ba phần giáo lý ấy đối với Phật tử Việt Nam, là Tăng Ni lý tưởng của mọi người.

Chất liệu tạo ra năng lực ấy, chính là cái tâm của quý vị Tăng Ni thường hằng ở các mức độ: tiểu, trung, đại thanh tịnh, vô ngã, từ, bi, hỷ, xả ba la mật lưu chuyển trên dòng tâm thức, thì mới có thể đưa ba phần Phật pháp ấy được chìm sâu vào tâm thức con người, là đối tượng cứu khổ của Tăng Ni. Nhờ đó con người được có tâm an vui, hạnh phúc, hết mọi ưu phiền, được vơi đi các khổ lụy, các tật bệnh được dứt trừ…

Những thứ tâm thanh tịnh, vô ngã, từ, bi, hỷ, xả… của quý Tăng Ni chính là ngọn lửa Tam Muội có công năng nấu chín các dược pháp để cho chúng sanh uống vào được dứt trừ mọi thứ bệnh khổ ở thân, tâm. Cũng chính là người thầy thuốc giỏi do tâm thanh tịnh, vô ngã chẩn mạch đúng bệnh. Cũng chính là lương y như từ mẫu do có tâm từ, bi, hỷ, xả.

Anh Tuệ Đạo, với chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn chân tu, tôi có một vài tư tưởng nhận định thêm về quý Ngài như thế này.

- Vài tư tưởng như thế nào, xin mời huynh nói nghe. Lời nói của Tuệ Đạo.

- Những bậc Tỳ Kheo Tăng Ni đồng chơn, là những bậc Bồ Tát đúng nghĩa đi vào đời hành Bồ Tát đạo cứu khổ  mọi thứ bệnh chúng sanh do Bồ Tát nguyện, qua phát tâm thọ Bồ Tát giới, mà Nhiêu Ích Hữu Tình Giới được xác định quý ngài có tự giác, nên có giác tha theo quy luật. Cho nên mỗi vị, tối thiểu ai cũng được có các thứ tâm thanh tịnh, vô ngã, từ, bi, hỷ, xả ba la mật ở mức độ thấp, không cần ở mức độ trung, đại, cũng đủ năng lực làm cho các thứ tâm vô minh, phiền não, tham, sân, si, chấp ngã… của người Phật tử được chuyển thành thanh tịnh, vô ngã, từ, bi, hỷ, xả… sau khi nghe quý ngài thuyết pháp bất cứ đề tài nào, đúng theo công thức “Có hiện tượng này, đồng thời được có hiện tượng kia”. Ba phần Phật pháp cứu khổ độ sanh mà Đức Phật đã nói ra,  đã giới thiệu từ các Đức Phật khác, như Phật Dược Sư, Quán Thế Âm… chỉ cần ở phần một cũng đủ rồi. Nếu thêm ở phần hai là cứu chữa các thứ bệnh ở bản thân con người càng tốt. Hay thêm ở phần Phật pháp trong việc cầu siêu bạt độ, lại càng tốt hơn. Chứ đừng bị hỏng hết ở 3 phần Phật pháp cứu độ chúng sanh, là đưa đạo pháp đến suy tàn.

Theo anh Tuệ Đạo, Sư bà Diệu Từ được có tâm thanh tịnh, vô ngã, từ, bi, hỷ, xả ở mức độ nào, tiểu, trung hay đại?

Câu hỏi của Đăng Triệu hơi thình lình, làm cho Tuệ Đạo có trạng thái lúng túng qua cái nheo mày, nhìn nghiêng suy nghĩ, đưa tay gãi đầu mấy cái, rồi nhìn Đăng Triệu, nói nhẹ:

- Huynh Đăng Triệu à! Tâm tư con người thường khởi lên những sự việc, kế hoạch, đề án, công thức, mô hình… trong không gian tâm linh, gọi là ý nghiệp hay tư duy trước khi nói ra lời, có hiện tượng thực tại bởi hành động. Mặc dù trong chúng ta, không ai có thể nhìn thấy những dòng tâm khởi ấy của người khác, nhưng không phải là vô sắc đâu nhé. Tất cả đều là hữu sắc. Do vì không nhìn thấy, cho nên tôi và huynh, không ai có thể nhìn thấy tâm thanh tịnh, từ, bi, hỷ, xả, trí tuệ, vô ngã… của Sư bà ở mức độ nào, làm sao xếp được vị thứ tiểu, trung, đại được!

Muốn biết tâm Sư bà được có thanh tịnh, từ, bi, hỷ, xả, vô ngã… ở mức độ nào, ta hãy nhìn vào những cách đối đãi của các vị đệ tử xuất gia, tại gia của Sư bà trong các sinh hoạt tu học, Phật sự tại hai chùa Diệu Quang, là biết ngay. Nhìn vào hàng đệ tử xuất gia và tại gia của Sư bà, chính là nhìn trái mà thấy cây, nhìn con mà biết mẹ, nhìn quả mà biết nhân. Chẳng hạn nhìn vào hai quày quít của bà A và bà B, ta thấy quít của bà A to và tròn đầy, màu da vàng rực, thơm mọng, bóng loáng… Chưa ăn đã thấy ngọt the nơi lòng. Khi được bà cho ăn thử một múi, nghe ngọt lịm trong miệng. Tất cả hình thức và nội dung, tức là phẩm và lượng quít của bà A hơn bà B.

Quít bà A hơn bà B, là do cây quít được trồng nơi đất có nhiều màu mỡ, được bón phân đầy đủ, thường xuyên, được tưới tắm bởi bàn tay chăm sóc của chủ vườn.

Ví dụ hai, chẳng hạn nhìn những đứa con trong hai gia đình của ông bà A và ông bà B ở cùng xóm. Những đứa con trai, con gái của ông bà B, đứa nào cũng thân tướng thon thả, không cao lắm, đầu tóc hớt cao, kẹp tóc đuôi gà, phục sức bình thường vừa đẹp và trang nhã, thời trang, chững chạc trong đi đứng, không lớn tiếng với những người cùng xóm, lễ độ chào hỏi các bậc bô lão, vui cười thân thiện với các thanh, thiếu niên trai gái lớn tuổi hay nhỏ tuổi cùng xóm. Con đường học vấn, từ lớp tiểu, trung học, đại học, đều đỗ đạt bằng cấp cao. Đúng là nhìn con mà biết được cha mẹ. Sự nghiệp mưu sinh của ông bà B chỉ là nghề may quần áo, làm chủ một Shop may ở đường Lê Lợi, Sài Gòn ngày xưa, có một ngôi nhà ngói nhỏ xinh đẹp, vách hồng nhạt, ẩn mình dưới bóng các cây nhãn trong bốn mùa ở xóm Đông Nhì, Gò Vấp, Gia Định. Mỗi sáng sớm, ông bà đón xe buýt xanh, buýt đỏ tại bên lề đường Lê Quang Định để ra tiệm. Hai đứa con, một trai, một gái của ông bà, được ông bà sắm cho mỗi đứa một xe Honda C50 pour Dame.

Còn ông bà A được có một ngôi nhà lầu hai tầng sừng sững giữa xóm, cách nhà ông bà B vài trăm mét. Ông A làm nghề thầu khoán xây cất nhà cửa. Vợ ông A là nội tướng gia đình, lo việc chợ búa, nấu ăn, cai quản bầy con ba trai, hai gái lực lưỡng mập mạp. Gia đình ông A có xe hơi loại Jeep và bốn chiếc Honda, ba chiếc loại 68 đàn ông, một chiếc C50 pour Dame. Vì thế mà sáng ra, tối đến cả xóm đều bị chát tai, nhức óc bởi tiếng xe rú lên lúc đi, lúc về của bầy con ông bà A.

Ông bà A và bầy con của ông bà nhìn mọi người trong xóm bằng nửa mắt, luôn lầm lì không nói chuyện, không lời chào hỏi mọi người trong xóm. Chúng chỉ trò chuyện, cười nói sỗ sàng với anh em chúng và các thanh niên trai gái ở đâu tới, họp nhau ăn uống, mở nhạc to tiếng trước nhà trong những ngày lễ, chủ nhật và thường xuyên mỗi tối. Đúng là nhìn con được biết đến tâm tư của cha mẹ. Nhìn học trò biết cách dạy học của thầy giáo. Nhìn các hàng đệ tử xuất gia, tại gia tại các chùa, tu viện, thiền viện qua cung cách đối xử với nhau ở sở tại và chư Tăng Ni Phật tử bên ngoài đến thăm viếng, dự lễ qua trạng thái đối đãi được có lời nói ái ngữ, hành động khiêm cung, lễ độ hay không, là biết ngay tâm tư của quý vị Tăng Ni trụ trì chùa, viện trưởng tu viện, thiền viện được có những tâm từ, bi, hỷ, xa, thanh tịnh, vô ngã… hay không.

 

Rõ thực chư tôn đức Tăng Ni các cấp ở các chùa khác và hàng ngàn nam, nữ Phật tử các giới bên ngoài hai chùa Diệu Quang, hoàn toàn không ai được trực tiếp nghe, thấy lời nói, thái độ giáo dục của Sư bà Diệu Từ đối với các Ni chúng tại hai chùa Diệu Quang như thế nào! không ai trực tiếp nhìn thấy cung cách, và ngôn ngữ văn hóa của Sư bà trong lúc thuyết giảng các đề tài Phật pháp phổ thông, khế lý Bát Quan Trai, Phật thất hay thi ca cho hàng trăm nam, nữ Phật tử cơ hữu của hai chùa Diệu Quang về học và tu tập Phật pháp, như thế nào, hoàn toàn không ai quan tâm đến làm chi. Đạo pháp chùa ai, nấy hành hoạt. Nhưng, chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử các giới gần, xa ngoài hai chùa Diệu Quang dần dần tự thấy ở mỗi Tăng thân Ni chúng, nam nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang đều có cùng nét đặc thù văn hóa Phật giáo và dân tộc Việt thuần túy, được hiển lộ ra lời thăm hỏi thật ngọt ngào, êm ái, chân tình được thấy ở đôi môi mỉm cười, cùng với hành động chắp tay kính lễ, bái chào thật khiêm cung, cong lưng đúng cách thiền môn.

Quý chư tôn đức và nam, nữ Phật tử các giới được thấy trạng thái đầy văn hóa ấy của Ni chúng và Phật tử hai chùa Diệu Quang, không phải một lần, mà nhiều lần đến dự đại lễ Phật Đản, Vu Lan mỗi năm, sau khi nhận được thư mời của Sư bà Diệu Từ. Có lúc quý ngài, quý Phật tử đến Diệu Quang một cách đột xuất thình lình để thăm viếng hay luận bàn Phật sự, vẫn được thấy cung cách đối đãi khách của Ni chúng, Phật tử cơ hữu Diệu Quang đầy tràn văn hóa lễ độ, chào mời thật chân tinh, vui vẻ, vẫn như thuở nào trước đây đến dự lễ, được thấy một cách tự nhiên, không thấy có hiện tượng nào giả bộ, xếp đắt trước.

Chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử xa, gần đến hai chùa Diệu Quang dự lễ, không những chỉ thấy nét đặc thù văn hóa rặc sắc thái thiền môn Diệu Quang của tập thể Ni chúng, Phật tử cơ hữu tại hai chùa Diệu Quang, mà còn được nhìn thấy tận mắt tổng thể hiện tượng tỉnh thức, như tinh tấn, nhẫn nhục, im lặng tuyệt đối suốt thời gian thâu đêm tại không gian thao tác Phật sự, mà không mất tình thân thiện, vẫn vui vẻ, lời nói nho nhỏ gọi bảo nhau, bước đi chững chạc, đứng nghiêm túc, miệng mỉm cười nhìn nhau, đôi tay để nhẹ các vật dụng, y áo chỉnh tề, áo lam, áo xanh đồng phục đứng đắn, v.v… ở các khâu: tiếp đón chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử và quan khách, bưng nước mời khách Tăng Ni, khách Phật tử, đồng hương, xếp hàng, cầm phan lọng, mâm hoa đăng cung nghinh chư tôn đức Tăng Ni giáo phẩm vào lễ đài, bưng dọn thực phẩm trai tăng, thị giả chư Tăng Ni và hành đường, mời cơm hộp cho quan khách, xắc gọt ngũ cốc, xào nấu, quét dọn, rửa chén bát, nồi niêu, tiễn đưa chư tôn đức, Phật tử, quan khách ra về, v.v… tất cả đều an trú trong tỉnh thức, chánh niệm, nhưng không quên nụ cười thân thiện.

Đời có câu “Hữu xạ tự nhiên hương”. Đúng như vậy! Chư vị Ni chúng và nam, nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang luôn luôn tự dấu kín những thành quả Phật sự đã đạt được, sự hiểu biết về Phật học, văn hóa, tâm thông đạt chơn lý vô ngã, các pháp, v.v… vào trong nội thức. Không bao giờ nói cho ai biết, không khoe khoang rằng chúng tôi được có một minh sư đạo cao, đức trọng, văn hóa tuyệt vời, nên chúng tôi cũng được giống như thầy chúng tôi, đó là Sư bà Diệu Từ.

Trăm lần không, vạn lần không! Chư vị Ni chúng và Phật tử cơ hữu ở hai cảnh chùa Diệu Quang, họ luôn thiền tâm trong ốc đảo vô ngã tự thân, làm người bộ hành cô đơn giữa trường đời ồn ào, náo nhiệt, nhưng không quên những khổ đau bệnh tật của đời, dòng tư tưởng vẫn tỉnh thức hằng chuyển chỉ đạo đôi chân tiến bước về phía trước theo dấu chân xưa của Đức Thế Tôn trên vận hành tu tập các thiện pháp cứu khổ độ sanh để thành Phật, là mục tiêu trọng yếu của hai chúng đệ tử Phật chùa Diệu Quang đã được Sư bà Diệu Từ, người thầy chỉ đạo, hướng dẫn, cho nên tâm hồn luôn sống trong định, không khởi lên mọi ý niệm về ngã, tranh hơn thua thiệt với ai, không khoe khoang tài đức, tuệ nghiệp, không để ý những chuyện phi bên vỉa hè của ngôi nhà Phật giáo Việt Nam hải ngoại. Thường hằng nhìn vào nôäi tâm, đôi phút tư duy về hưng vong của đạo pháp, để rồi đóng góp xây dựng bằng khả năng văn hóa hay tài vật một cách thầm lặng ba la mật. Qua những hình thái sinh hoạt giáo vụ thầm lặng ấy, hai ngôi chùa Diệu Quang ở bắc và nam Cali được biểu thị là cõi Cực Lạc tịnh độ, bởi vì có vóc dáng vô ngã, nên không sừng sững vươn cao bản thể, không có sắc thái xòe đôi cánh phụng, rồng bay. Chỉ có dáng e ấp ẩn hiện bản thể dưới những cây dâu, hoa hoàng hậu, phượng hoa tím. Đúng là chùa Ni mang pháp hiệu Diệu Quang có khác, nếu không nói là mang sắc thái văn hóa thiền tịnh đạo tràng của Phật giáo! Điều đó được chứng thực cho thấy khắp không gian trước, sau cảnh chùa, ở đâu cũng có hình tượng chư Phật, Bồ Tát, Long Thần hộ pháp, thánh hiền hiện hữu đang nói những bài pháp thầm lặng khác nhau, có năng lực khiến lòng trần mau thức tỉnh quay về Tam Bảo thực tại Diệu Quang mà tu tập các pháp giải thoát khi hiện hữu ngưỡng vọng, chiêm bái, cúng dường.

Tất cả những hoạt cảnh văn hóa, hình ảnh sinh hoạt giáo vụ về đạo pháp Việt Nam và tu tập, các Phật sự cứu khổ độ sanh của Ni chúng và nam, nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang luôn luôn mang sắc thái thầm lặng, không phô trương trên các cơ quan truyền thông nào cả. Ấy thế vậy mà được hàng ngàn, hàng vạn chư Tăng Ni, Phật tử các giới trong nước và hải ngoại nghe biết đến bằng tấm lòng thương kính, ngưỡng mộ đến thăm viếng, chiêm bái, dự lễ và tu học. Đúng “Hữu xạ tự nhiên hương” là chỗ đó. Chỗ không khoe mà được mọi người biết đến. Giống như các khúc trầm, lư trầm không được ai đem đến trước mặt mọi người ở gần, xa ai cũng được nghe hương thơm. Bởi vì hương thơm tự lan đi khắp không gian đó đây do không có hình thể, vô tướng, nên không theo cái lực của gió, luôn luôn ngược chiều gió. Do vì ngược chiều gió, nên mùi hương được tỏa rộng khắp mười phương không gian cõi trần.

- Huynh Đăng Triệu có tư tưởng nhận định gì thêm về hành hoạt, tu tập, phụng sự đạo pháp của Ni chúng và Phật tử cơ hữu hai chùa Diệu Quang không? Lời hỏi của Tuệ Đạo.

- Huynh đã đem  lời nhận định hết cả rồi, còn đâu nữa tới phiên tôi! Tuy nhiên, tôi xin bổ túc thêm nguyên nhân làm cho chư tôn giáo phẩm Tăng Ni, Phật tử các giới xa, gần được biết đến Ni chúng và nam, nữ Phật tử cơ hữu hai chùa Diệu Quang có các đức tính hiền hòa, từ bi, nhẫn nhục, lễ độ, tôn kính đối với tất cả mọi người như vậy, là do được nhìn tận mắt mỗi lần đến Diệu Quang dự lễ Phật Đản, Vu Lan, chứ không phải do người khác nói, đúng với ngạn ngữ Việt Nam có câu “Tai nghe không bằng mắt thấy” hay “Trăm lần nghe không bằng một lần thấy”.

Trên đời này nghe bằng tai là điều cần yếu của con người, như nghe thầy giáo giảng bài học, các nhà sư thuyết pháp, các quân sư, cha mẹ nói lời giáo dục… để được hiểu thấu các đạo lý làm người. Nghe này gồm có tai, cả mắt nhìn gọi là thính thị. Chứ nghe một người nói về một người khác mà mình chưa hề biết người đó, thì lời nói của người mình nghe đó, không bao giờ đúng. Vì thế mà Đức Phật ngày xưa bảo những người dân Kàlama rằng: không nên nghe những lời đồn đãi, những lời truyền thuyết, dù lời truyền thuyết của bậc thánh nhân, cũng đừng vội tin.

Cho nên đức tin trong đạo Phật được có là sau khi đã tự mình nhận thức rõ ràng rồi mới đặt niềm tin. Do đó Phật Giáo không bắt buộc người Phật tử phải tin tưởng một cách mù quáng về Đức Phật, về giáo pháp Phật, phải tự mình nhận thức và kinh nghiệm, đúng vợi cụm từ “kiến tánh thành Phật”. Vì vậy mà trong các kinh điển Phật thường nhấn mạnh chữ KIẾN hơn là chữ TÍN (tin). Nói đến chữ tin là khi nào mình chưa thấy, chứ đến khi được thấy rồi thì chữ tin không thành vấn đề.

Do vậy, nói rằng Ni chúng và nam, nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang được có các đức tính nhẫn nhục, hiền lành, hòa ái, từ, bi, hỷ, xả, v.v… cho nên lúc nào cũng lễ độ, tôn kính với tất cả mọi người trong và ngoài chùa… là lời nói của những người chưa trực tiếp thấy mà nói được.

Rõ thực, hai ông Phật tử ngồi ở căn nhà gỗ chùa Phổ Đà, ông này hỏi ông kia:

- Anh có bao giờ đi hành hương bằng xe buýt đến Tu viện Kim Sơn và chùa Diệu Quang ở Sacramento, do Sư bà Diệu Từ chùa Diệu Quang quận Cam tổ chức?

Ông kia nhìn ông nọ mấy giây, cất tiếng:

- Có gì không?

- Không có gì! Vì tôi được nghe mấy bà đi rồi, nói rằng Sư bà Diệu Từ tổ chức cho Phật tử đi hành hương rất chu đáo mọi thứ, và chăm sóc sức khỏe cho Phật tử trong chuyến đi, chuyến về kỹ lắm.

- Anh hỏi để đi hay hỏi để biết cho vui? Hỏi để đi hay hỏi để biết thì hỏi tôi, tôi nói cho nghe, vì tôi đã đi hai lần rồi, thấy tận mắt sự chăm sóc kỹ và chu đáo về ăn, uống thật đầy đủ, nếu không nói là có dư nhiều thức ăn và nước chai. Anh nên ghi tên đi kỳ này đi! Đi vui lắm! Được no cả ngày. Anh biết không, xe vừa lăn bánh lúc đi, cũng như lúc về, chừng 3 phút, mấy anh chị Phật tử Diệu Quang phụ trách trông coi chuyến hành hương, cầm ống loa chào mừng, hỏi mọi người có ai đau ốm gì không? Có, xin cho biết ngay, và thông báo thời gian giải lao, cũng như các thức ăn, uống đang có sẽ được phát. Sau đó chừng 15 phút xe đang chạy, mấy anh chị điều hành chuyến đi hay về, đem phát nước chai (một cho đến hai chai), chuối, bánh mì, táo cắt sẵn, bánh cam, cơm hộp, v.v… cho từng người. Rồi cứ đến chừng hơn nửa giờ, các anh chị điều hành lại đem nước chai, các thức ăn chơi như bánh kẹo, đi từ trước ra sau xe, hỏi mọi người ai cần, thì đưa tiếp cho. Có người nhận thêm, có người không.

Trong lúc xe chay, hết phát các thứ, thì lại cầm loa nói lớn: thưa các bác, các chú, cô, dì, anh, chị… chúng cháu xin mời vị nào có tài năng gì, xin quý vị giúp vui cho, hát, ngâm thơ, kể chuyện, nói bài Phật pháp… để cho tất cả mọi người được thưởng thức. Qua một vài vị hát, ngâm thơ, kể chuyện, nói Phật pháp xong, thì các anh chị điều hành liền thế vào bằng lời ca, kể chuyện. Cứ như thế mà xoay vần suốt thời gian xe chạy cho đến khi tới chùa, về chùa. Ngay cả anh tài xế cũng xin kể chuyện, vừa lái vừa kể. Suốt thời gian lái xe đi, lái về, anh tài xế kể được ba chuyện vui, lại thêm lời tự thuật. Anh tài xế nói rằng;

- Thưa các bác, các chú, cô, dì, anh, chị (không có Sư cô đi chung trong xe), cháu lái xe cho Sư bà tổ chức hành hương hằng năm vào mùa Phật Đản từ quận Cam đi Sacramento đã hơn 10 lần, tức là trên 10 năm rồi. Mỗi lần lái xe đi, xe về như vậy, cháu được nghe nhiều bài Phật pháp do các bác, các chú, cô, dì nói cho mọi người nghe, trong đó có cháu. Tính ra cháu đã được nghe trên 50 bài Phật pháp. Nhờ đó, từ chỗ không biết gì về Đạo Phật, được biết và hiểu về ý nghĩa Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, quy y, nghiệp báo, nhân quả… Do vậy, trước đây cháu ưa có tính nóng nảy nói lớn tiếng với vợ con, thì bây giờ không còn nữa, nghe gì, thấy gì trái đạo, cháu im lặng bỏ qua, không để ý đến, chỉ dùng lời nói nhỏ nhẹ đối với vợ con hay người mình quen biết, thân thiện, nên mới dám dùng lời nhẹ với họ. Qua hơn 10 năm lái xe hành hương cho Sư bà, được xem như cháu học trên 10 lớp Phật pháp. Nếu Sư bà tổ chức một năm hai lần hành hương thôi, cháu sẽ được hiểu Phật pháp nhiều nữa.

Ông này nghe xong ông kia kể những hành động lịch thiệp, tế nhị, ân cần, chăm sóc rất lễ độ, tôn kính, cùng với lời nói dịu dàng khả ái, dễ thương của mấy anh chị chùa Diệu Quang trong ban điều hành đối với Phật tử hành hương trên xe…, ông này liền mở lời:

- Mấy anh chị của chùa Diệu Quang điều hành các chuyến hành hương đó, tuổi đời bao nhiêu, văn hóa Việt ở cấp nào, mà được có các đạo hạnh lịch thiệp, hiền hòa, hiếu khách, dễ thương quá, vậy anh? Thế nào tôi cũng ghi tên đi hành hương với chùa Diệu Quang kỳ này.

- Mấy anh chị ấy còn trẻ lắm, trên dưới gần bốn mươi thôi. Thật sự con người nam hay nữ, già hay trẻ được có những đức tính hiền lành, từ bi hỷ xả, dễ thương… không do từ tuổi tác, văn hóa học vấn Việt Mỹ, mà do được ảnh hưởng bởi các bậc trên là minh sư, đạo sư, cha mẹ qua lời dạy dỗ, giáo dục…

Ngoài đời thì được ảnh hưởng sự giáo dục, giáo huấn của cha mẹ, của những bậc thầy về văn hóa. Trong Đạo Phật, tức là trong chùa, được ảnh hưởng bởi lời giáo huấn, giáo chỉ của các vị Hòa Thượng, Sư bà, Thượng Tọa.

Qua những trạng thái hiền hòa, ân cần chăm lo, tôn kính, lễ độ, lịch thiệp của các anh chị chùa Diệu Quang đối với Phật tử hành hương, lên xe và xuống xe, từ  lúc đi đến lúc về như vậy, là do được Sư bà Diệu Từ tận tâm giáo huấn từng việc một, dạy cho những bài Phật pháp chuyển hóa hết ác nghiệp thành thiện nghiệp, bằng lời giảng tha thiết và rõ ràng qua nhiều ngày, tháng, năm nên mới được hiền hòa, dễ thương như vậy, chứ đâu phải hễ đi chùa, mang áo tràng lam, thường có mặt tại chùa trong các buổi lễ, mà được hiền hòa, từ, bi, hỷ, xả, dễ thương đâu!

Nhìn những trạng thái hiền hòa, từ, bi, hỷ, xả, dễ thương, biết chăm lo cho Phật tử hành hương rất chu đáo nhiệt tình và lễ độ của các anh chị chùa Diệu Quang quận Cam trong vai trò điều hành hành hương, cho ta được thấy rõ tổng thể Ni chúng và hàng trăm nam, nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang nam, bắc Cali, được Sư bà Diệu Từ chữa trị cho hết các thứ bệnh phiền não, vô minh, hữu ngã… nên mới được vô ngã, từ, bi, hỷ, xả, hiền hòa, dễ thương… như vậy. Mà các anh chị trong ban điều hành hành hương được biểu thị, điển hình rõ nét. Đúng như đời thường nói “mẹ sao con vậy, con sao mẹ vậy, trò sao thầy vậy…

Đăng Triệu kể xong câu chuyện hành hương của hai ông Phật tử ngồi ở nhà gỗ chùa Phổ Đà, bàn luận với nhau. Đăng Triệu im lặng trong giây lát, đoạn quay qua hỏi Tuệ Đạo:

- Vừa rồi tôi có lặp lại lời ông Phật tử nọ nói với ông Phật tử kia rằng: “… tổng thể Ni chúng và hàng trăm nam, nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang nam, bắc Cali, được Sư bà Diệu Từ chữa trị cho hết các thứ bệnh phiền não, vô mình, hữu ngã… nên mới được vô ngã, từ, bi, hỷ, xả, hiền hòa, dễ thương như vậy”. Như vậy ông ấy vô tình lặp lại công thức “Có hiện tượng này, đồng thời cũng có hiện tượng kia”, mà huynh đã vẽ ra cho tôi thấy, có đúng vậy không?

- Rất đúng. Công thức đó là công thức chữa trị các thứ bệnh vô minh, phiền não, ác trược, chấp ngã, chấp trước, tham, sân, si, v.v… của con người trong mọi giới phải được dứt trừ với hai điều kiện tiên quyết, mà người thầy (Tăng, Ni) chữa trị cần phải biết và có đủ.

- Tăng Ni cần phải biết gì và có đủ thứ gì, hởi huynh? Lời Đăng Triệu hỏi.

- Tôi đã nói nhiều, mà huynh quên rồi! Tăng Ni được định nghĩa là thầy chữa trị các thứ bệnh của chúng sanh, cho nên phải biết bổn phận, vai trò của mình là chữa trị các thứ bệnh chúng sanh. Phải nói chữa trị mới đúng bổn phận, vai trò hơn là cứu khổ, bởi vì tất cả những gì làm cho thân tâm con người bị đau khổ đều gọi là BỆNH, như bệnh sầu muộn, bệnh sân hận, bệnh tham dục, bệnh ganh tỵ, v.v… và các thứ bệnh nội tạng, xương cốt, ngoài da. Tất cả bệnh trong tâm, ngoài thân đều làm cho con người khổ đau vô vàn. Tất cả các thứ bệnh ấy được chữa trị hết là hết đau khổ, hết sinh tử, vì thế Đức Phật mới nói còn sinh tử luân hồi là còn khổ đau. Còn bệnh vô minh, phiền não, tham, sân, si, chấp ngã, v.v… là còn sinh tử  luân hồi, khổ đau, nói như Khổng Tử “hữu thân hữu khổ”. Đó là biết về bổn phận và vai trò, cũng như phải biết tất cả các thứ kinh, thần chú Đà La Ni do Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni được thực chứng nói ra và các thứ kinh, thần chú Đà La Ni của các Đức Phật khác được Đức Phật Thích Ca giới thiệu trước hàng thánh chúng, đều là những thứ thuốc (pháp dược) chữa trị các thứ bệnh chúng sanh. Biết rõ như vậy thì mới tri hành đúng thuốc, đúng bệnh. Chẳng hạn con người còn bệnh tham, mà vị thầy trụ trì lại cho uống thuốc BỐN NHIẾP SỰ, tức là thuyết giảng BỐN NHIẾP SỰ, không giảng tác hại của bệnh THAM.

Chư vị Tỳ Kheo Tăng Ni được có đủ. Có đủ thứ gì? Có đủ hai thứ:

Một, được thông đạt tất cả khế lý của các thứ kinh Phật chứng ngộ và kinh Phật giới thiệu. Có thông đạt toàn thể khế lý của các pháp, mới nói pháp lưu loát, rõ ràng các lý tục đế làm cho rõ ra chơn đế của mỗi bài pháp, như thế người nghe pháp mới liễu ngộ được đạo để tu tập, chuyển hóa các thứ bệnh tham, sân, chấp ngã… Nếu không nói đó là hai phần ý giáo (học Phật khá giỏi) và khẩu giáo (nói đúng chánh pháp).

Có thông đạt toàn thể kinh điển Phật, tâm tư của các vị Tăng Ni được hiền hòa đôn hậu, từ, bi, hỷ, xả, biết thương yêu, tôn trọng tất cả mọi người một cách bình đẳng được thể hiện ra lời nói và hành động, đối đãi, đó là thân giáo, là năng lực cảm hóa được con người trong các giới. Có thông đạt khế lý của tất cả kinh điển Phật, chư vị Tăng Ni mới biết được tâm tính của mỗi con người khi vào chùa quy y Tam Bảo mà đối trị lại các thứ bệnh của mỗi người bằng Phật pháp qua lời giáo huấn, khuyên bảo, an ủi…

Tăng Ni biết được tâm tính của mỗi con người, giống như các bác sĩ nghe bệnh, bắt mạch của các bệnh nhân trong lúc khám bằng ống nghe, mà biết được bệnh để viết toa thuốc đúng bệnh. Tức là phải biết công dụng của thuốc nào chữa trị bệnh nào mà viết toa. Cho uống không đúng bệnh, làm cho bệnh nhân tử vong, bị bệnh thêm.

Hai, Tăng Ni phải được có chơn tâm, vô ngã, thanh tịnh, trong sáng. Những thứ tâm này là mẹ đẻ ra bốn thứ tâm con: từ, bi, hỷ, xả, là điều ắt phải có đối với Tăng Ni, theo thực chất nguyên lý cứu chữa các thứ bệnh của chúng sanh, mà quý Tăng Ni phải có. Phi các thứ tâm Phật, Bồ Tát ấy ra, chư vị Tăng Ni không có năng lực chữa trị các thứ bệnh chúng sanh. Không cảm hóa được người u mê, người dữ. Nói theo ngôn ngữ thời đại là không chuyển hóa nổi tâm ác thành thiện. Hay nói khác hơn không đức độ, nên người hiền không đến, người dữ quậy phá, như người đời thường nói: “không đức độ, quỷ thần không sợ, luôn bám theo quậy phá”. Ngược lại: “đức trọng quỷ thần kinh”.

Những thứ tâm trong sáng, thanh tịnh, vô ngã, từ, bi, hỷ, xả được ví như những thứ dụng cụ trong việc chữa trị các thứ bệnh con người, đó là tia la de cực mạnh có năng lực xuyên suốt vào nội tạng bệnh nhân để cắt bỏ, xóa đi những ung nhọt. Đó là những cây kềm có mũi nhọn để nhổ lên những cây đinh trong da thịt con người và gắp ra các mảnh đạn ngày xưa do chiến tranh. Cũng được ví như thanh gươm cực bén, có năng lực chiến đấu, đẩy lùi quân giặc và được ví như lá bùa có năng lực đuổi chạy hết các thứ tà ma.

- Đăng Triệu có ý kiến gì thêm về hai điều Tăng Ni cần phải có, hay không? Lời Tuệ Đạo nói.

- Cảm ơn huynh, tôi không có ý kiến gì. Tôi muốn biết thêm ngoài việc chữa trị các thứ bệnh vô minh, phiền não, tham sân, chấp ngã… Tăng Ni còn chữa trị các thứ bệnh khổ ở bản thân, tâm thần con người còn sống và thứ bệnh trầm luân trong các địa ngục của vô số chúng sanh ngạ quỷ, vong linh đọa lạc, đúng theo nguyên lý cứu khổ chúng sanh của Đạo Phật, là cứu khổ ba thứ bệnh của chúng sanh, thì Tăng Ni sử dụng điều kiện nào, phương tiện nào để cứu chữa các thứ bệnh ở thân tâm con người và chúng sanh trong các địa ngục?

- Tăng Ni cứu khổ ba thứ bệnh chúng sanh lúc sống, sau khi chết, đều sử dụng bằng hai điều kiện ắt phải có: Tâm thông đạt ba giáo pháp và tâm vô ngã, thanh tịnh, từ, bi, hỷ, xả, không có điều kiện nào khác hơn. Về giáo pháp thì có ba cấp, còn tâm thì chỉ có một (nhứt tâm), tâm đó là vô ngã, thanh tịnh.

Tuệ Đạo vừa dứt lời, Đăng Triệu đặt liền câu hỏi:

- Như vậy theo huynh thấy Sư bà Diệu Từ có sử dụng hai điều kiện mà Sư bà vốn có (tâm thông đạt giáo pháp và tâm vô ngã, thanh tịnh…) trong việc chữa trị cả ba thứ bệnh của chúng sanh lúc sống và sau khi chết, hay không?

- Thật sự theo nguyên lý cứu khổ chúng sanh của Đạo Phật, Tăng Ni ai cũng phải cứu chữa ba thứ bệnh chúng sanh qua ba hình thái: thuyết pháp hướng dẫn Phật tử tu tập; hai là cầu an để chữa các thứ bệnh thể chất, tâm thần; ba là cầu siêu, là cách chữa bệnh trầm luân của vô số vong linh đọa lạc và các loài ngạ quỷ trong địa ngục được siêu thoát. Nhưng Sư bà Diệu Từ chỉ có khả năng trị được hai thứ bệnh vô minh, phiền não, tham sân, ngã chấp… và bệnh ở thân tâm, đúng theo văn hóa Phật giáo hai chiều, chứ Sư bà không có khả năng ngồi đàn chẩn tế siêu độ cô hồn. Tuy nhiên, Sư bà cũng rành nghi thức cầu siêu độ sự đám tang, cúng thất, chung thất và húy kỵ hương linh quá cố.

Với vị Tỳ Kheo Ni ở cấp giáo phẩm như Sư bà Diệu Từ trong thời đại ngày nay ở hải ngoại, thế giới văn minh khoa học, mà Sư bà đã và đang được có đủ hai điều kiện của Tăng Ni (thông đạt giáo điển và tâm vô ngã, thanh tịnh) trong việc chữa trị được hai thứ bệnh trầm kha của con người được dứt trừ, là vị Tỳ Kheo Ni hy hữu, có một không hai. Đa số Tăng Ni nói riêng ở hải ngoại, chỉ có khả năng nói pháp, hướng dẫn Phật tử tu tập để được dứt trừ hết các thứ bệnh vô minh, phiền não, tham, sân, chấp ngã, tình ái, si mê… là con đường giải thoát, nhưng cũng bị mai một, không được hoàn hảo, có hiện tượng thuyết pháp hướng dẫn tu tập, mà không có hiện tượng giác ngộ, vẫn còn hữu ngã, tham sân, kiến chấp… do vì không thuyết bằng tâm Phật, thuyết bằng ngôn ngữ thường tình.

Tuệ Đạo vừa ngưng, Đăng Triệu chen lờn:

- Vấn đề Sư bà Diệu Từ chữa trị cho nam, nữ Phật tử hai chùa Diệu Quang được dứt trừ  các thứ bệnh hữu ngã, vô minh, phiền não… được thấy rõ qua cung cách đối đãi dễ thương, lễ độ, tôn kính, lời ngọt ngào… với mọi người, được gọi l        à thấy quả tốt biết nhân tốt, thấy con ngoan biết mẹ hiền, thấy trò đỗ đạt bằng cấp cao, biết thầy giỏi văn hóa, thấy các hàng đệ tử có trạng thái lễ độ, biết thương yêu, tôn kính mọi người, biết bổn sư có tâm vô ngã, thanh tịnh, từ, bi, hỷ, xả…

Còn về cách chữa trị các thứ bệnh ở thân, tâm con người, mà Sư bà Diệu Từ đã và đang tri hành chữa bệnh, chúng ta chưa được thấy hiện tượng hết bệnh của một số người bị bệnh được Sư bà chữa hết.

Vậy xin anh Tuệ Đạo kể nốt luôn hôm nay cho tôi được biết hay không?

- Chuyện ấy dễ thôi. Tôi đang có bản ghi những lời nói của những người bị bệnh tâm thần, bệnh thể chất ở bản thân được Sư bà Diệu Từ chữa trị cho được dứt trừ, lành hẳn.

Bản ghi những lời người bệnh nói, là do cô Huệ Lan Phương làm cuộc phỏng vấn cách nay hai năm, rồi gởi cho tôi để làm tài liệu. Vậy tôi xin đọc từng lời của từng người, không đọc lời hỏi của cô Lan Phương.

Nói xong, Tuệ Đạo rút ra mấy tờ giấy từ túi áo, rồi đọc:

Số 1- Tôi tên là Đặng Văn Phú, pháp danh Quảng Từ Khánh, năm nay 62 tuổi, quê quán Định Tường. Hồi xưa, trước 1975, là sĩ quan Thủ Đức khóa 1/70. Ra trường, về phục vụ Sư đoàn 5 bộ binh. Cuối năm 1974 được đổi về Định Tường. Vượt biên năm 1983. Qua Mỹ mới lập gia đình, có 2 cháu gái. Hiện nay, công việc Phật sự là chụp hình cho chùa Diệu Quang Sacramento vào các ngày lễ lớn.

Sau khi lập gia đình có con, phải ra sức làm việc để lo cho con cái học hành quá nhiều thì giờ, hơn nữa, công ăn việc làm ở Mỹ rất là khít khao thì giờ, do đó tư tưởng tôi bị nhiều việc chi phối liên tục, nên chi bị đâm ra khủng hoảng tinh thần, chứ không bị bệnh tà ma gì hết. Sau một thời gian bị khủng hoảng rất là trầm trọng, bị mất ngủ gần 2 tháng. Tối đến tôi cứ đi lòng vòng trong nhà suốt đêm. Rồi đến giai đoạn khá trầm trọng làm cho bị bức xúc tâm tư cao độ như muống ngất đi. Rất may được thiện duyên là Sư bà (thầy tôi bây giờ) từ dưới Los Angeles về đây dự lễ tại chùa Diệu Quang này, tôi mới đến trình bày với thầy tôi (Sư bà) về tình trạng khủng hoảng tinh thần của tôi. Được Sư bà xét nghiệm cho biết tâm tư  tôi có liên quan về tâm linh với thế giới chúng sanh vô hình bên kia. Sau đó Sư bà cho một vài thứ thuốc và trị liệu theo năng lực của Sư bà. Qua thời gian trị liệu ngắn, cỡ vài hôm, tâm tôi thấy tỉnh hẳn ra, bình thường lại, cơ thể tôi khỏe và bình phục hẳn. Từ đó cho đến nay, thân tâm tôi hoàn toàn được khỏe mạnh. Nếu không thì lúc đó tôi không biết bản thân tôi sẽ như thế nào, đi về đâu!

Tôi nhớ ngày đầu, Sư bà bảo tôi vào chánh điện quỳ trước bàn thờ Phật có hai vị nam nữ, Phật tử đứng hai bên tôi để gia trì lực. Thời gian chữa trị như vậy đến bốn hôm. Hôm đầu tiên tôi thấy thầy tôi mặc áo tràng vàng, y vàng, vào chánh điện lạy Phật xong, thầy đứng lên tụng kinh một chặp, cỡ hai mươi phút. Sau đó thầy đến đứng trước mặt tôi, đưa bàn tay phải đặt lên giữa đỉnh đầu tôi, cùng lúc thầy tụng kinh chú Đà La Ni (hồi đó tôi chưa biết đến danh từ Đà La Ni, bây giờ thì biết rồi). Chừng mươi phút, thầy lấy tay ra, thầy tụng tiếp với âm thanh nho nhỏ, nhưng tai tôi vẫn nghe. Với thời gian lâu ba mươi phút thì ngưng. Tiếp đến thầy cho tôi xông bằng một thứ dầu, nghe nhẹ cả thân hình. Tiếp đến, tôi được thầy cho uống nước cúng Phật. (Hồi đó tôi cũng chưa biết nước cúng Phật, bây giờ thì biết, vì được nhiều lần thấy thầy lấy nước cúng Phật trong bình thủy tinh trên bàn Phật, rót ra chén cho người bệnh uống, lúc thầy đang chữa cho họ.)

Tôi uống xong chén nước, thầy gọi tên tôi, hỏi tôi là đang ở đâu, tôi nói “con đang quỳ trước bàn thờ Phật, được nghe thầy tụng kinh”, như để trắc nghiệm tôi đã tỉnh chưa. Hỏi xong, thầy bảo tôi đứng lên lạy Phật. Trong giây phát đứng lên, tôi cảm thấy toàn thân tôi nó nhẹ nhỏm, đầu óc hết nặng. Chứ trước đó tôi cảm thấy nặng nề, bần thần đầu óc. Khi tỉnh lại tôi thấy buồn ngủ, chứng tỏ cơ thể được khỏe, chứ lúc chưa được về chùa để thầy chữa bệnh, tôi không biết buồng ngủ. Tối lại tôi ngủ một giấc ngon lành đến sáng.

Ba hôm kế tiếp, nghi lễ chữa bệnh cũng giống như lúc hôm đầu tiên, nhưng không có xông nữa, không hỏi lời trắc nghiệm nữa. Thầy bảo tôi là phải nhớ niệm Phật thường xuyên trong lòng và về chùa vào ngày chủ nhật để tụng kinh bái sám, công quả theo khả năng sẵn có, vì thế mà Phật sự chính của tôi là nhiếp ảnh. Từ dạo đó đến nay, vợ, con và tôi, cả gia đình an vui, khỏe mạnh.

Số 2- Phật tử Quảng Phổ

Pháp danh tôi là Quảng Phổ. Tôi bị hai thứ bệnh: tâm thần và cancer tiền liệt tuyến. Bệnh tâm thần của tôi là do tâm buồn rầu, khổ sở về bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Tôi về chùa Diệu Quang này để cầu xin thầy tôi (Sư bà) cứu chữa dùm cho do nghe Phật tử giới thiệu, tôi cảm thấy mừng lắm, liền đến gặp thầy tôi. Tôi trình bày về hai thứ bệnh của tôi cho Sư bà nghe. Sau đó Sư bà, thầy tôi, nói “Phật độ cho là hết, không sao đâu, đừng lo”. Tôi liền cảm thấy an lạc trong lòng ngay giờ phút đầu tiên. Bởi vì bệnh ung thư tiền liệt tuyến của tôi từ bên trong. Tôi đi bệnh viện, đi bác sĩ, thì họ cũng chữa cho thôi, nhưng không thấy thuyên giảm chút nào, khó có thể được lành bệnh. Sau lời Sư bà nói “Phật sẽ độ cho là hết bệnh”, thân tâm tôi tự nhiên cảm thấy nhẹ nhỏm và an lạc chạy khắp cả thân hình. Từ giờ phút đó, tôi đặt niềm tin thật vững mạnh vào Tam Bảo, vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm ở ngoài Quán Âm Các. Tôi được thầy tôi cho ở chùa đây, tại dãy nhà nhỏ dành cho nam giới cư sĩ phía sau. Suốt thời gian ở đây, tối nào tôi cũng lên chánh điện ngồi tụng kinh, lạy Phật với các Sư cô và thầy tôi. Khuya cũng vậy, tôi dậy sau tiếng chuông bảo chúng vang lên báo hiệu đại chúng tỉnh thức lên chánh điện công phu sáng. Tôi mặc áo tràng lam do thầy tôi cho, lên chánh điện sớm hơn khi ở đó có tiếng chuông đại hồng chung ngân vang, do một Sư cô đọc kệ và đánh chuông.

Thấy tôi, Sư cô ra hiệu cho tôi ngồi và đưa đầu vào giữa lòng chuông. Tôi nghe tiếng chuông như chạy vào đầu tôi khi Sư cô đánh vào sau lời kệ. Cỡ chừng mươi lăm phút, Sư cô đánh nhiều tiếng rồi chấm dứt. Cũng là lúc thầy tôi và các Sư cô lên chánh điện tụng kinh Lăng Nghiêm. Riêng tôi thì quỳ chắp tay hướng lên chư Phật, miệng niệm Phật.

Trong ban ngày, thầy tôi bảo tôi lên chánh điện. Tại đây, thầy tôi tụng kinh Thủy Sám. Trước khi tụng, thầy tôi bảo tôi quỳ, rồi ngồi cho thoải mái và lạy theo thầy sau mỗi lần tụng xong một đoạn kinh. Tôi cũng nghe thầy tôi nói lời niệm hương bạch Phật, có cả tên tôi nữa trước khi tụng và sau khi tụng xong. Sau thời tụng kinh, thầy tôi chỉ cho tôi uống một chén nước nhỏ mà thôi. Nước đó là nước cúng Phật, vì tôi thấy thầy tôi rót ra từ cái bình sành trên bàn Phật.

Thầy cũng nhắc tôi nhớ ra Quán Âm Các, quỳ xuống lạy nói lời cầu xin Đức Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ cho, rồi lạy và ngồi đó niệm danh hiệu Ngài. Tôi thực hiện lời thầy tôi dặn dò niệm và lạy cầu xin Đức Bồ Tát Quán Thế Âm như vậy nhiều lần, tôi không nhớ rõ là bao nhiêu ngày, nhưng đến tháng thứ 6, tôi thấy bệnh tiền liệt tuyến của tôi hoàn toàn hết hẳn, không đau đớn gì nữa, được lành hẳn cho tới bây giờ, không tái diễn. Còn bệnh tâm thần được hết ngay trong mấy ngày đầu khi đến chùa được thầy tôi nói “Phật độ cho là lành hết”.

Số 3- Phật tử Quảng Giải

Pháp danh tôi là Quảng Giải. Hôm nay tôi có mặt tại chùa Diệu Quang này và làm Phật sự, đã được quy y Tam Bảo, biết ăn chay niệm Phật, trở thành người đệ tử thầy tôi, là do tôi bị bệnh. Bệnh của tôi rất là lạ kỳ, luôn cảm thấy mỏi mệt, cơ thể càng ngày ốm tong, ốm teo, còn 80 pounds. Không biết bệnh gì! Tôi đi đến nhiều bác sĩ tây và kể cả bác sĩ đông y, ai cũng chê, bó tay, không ai chữa được. Quay qua nhờ ông chú tôi là một thầy thuốc bắc có tiếng bên Việt Nam hồi xưa. Chú tôi hiện ở đây, Sacramento, tôi đến nhờ chú tôi xem mạch hốt thuốc cho uống nhiều thang và xem mạch nhiều lần để theo dõi căn bệnh, nhưng vẫn không thấy tiến triển, cứ tiếp tục bị ốm.

Sau khi nghe lời khuyên của bà con quen biết, là nên đến chùa Diệu Quang, nhờ Sư bà Diệu Từ tụng kinh, cầu nguyện lên Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, sẽ được Ngài gia hộ cho là hết ngay.

Trước bước đường cùng đó, tôi bèn đến chùa Diệu Quang này, gặp Sư bà Diệu Từ, tôi trình bày bệnh tình của tôi cho Sư bà nghe. Được Sư bà nói rằng “không sao đâu con, con về đây quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, lạy sám hối là hết. Vì mọi thứ bệnh ở thân tâm con người đều do quả báo nghiệp xưa, nó quậy phá mình đó thôi. Tụng kinh, niệm Phật, lạy sám, nó sẽ được tiêu trừ, thì con sẽ hết bệnh, Phật độ cho là chỗ đó”.

Thế là tôi được Sư bà làm lễ quy y với pháp danh Quảng Giải, được Sư bà hướng dẫn cách tụng và lạy Lương Hoàng Sám, tụng chú Đại Bi, niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm trong lúc làm việc lặt vặt ở chùa, cũng như ra Quán Âm Các lễ lạy và niệm danh hiệu Ngài. Bên cạnh tôi tự hành trì tụng niệm, lễ lạy ở Quán Âm Các và tại chánh điện, cũng được Sư bà bảo lên chánh điện cùng với Sư bà tụng niệm cầu nguyện cho tôi. Tại chánh điện tôi thấy Sư bà ngồi trì Đại Bi và các thần chú Đà La Ni một chặp lâu, rồi Sư bà quỳ lên nói lời bạch Phật, trong đó có tên và pháp danh tôi được dâng lên Tam Bảo. Xong buổi lễ, tôi được Sư bà cho uống nước cúng Phật. Sư bà hành lễ riêng cho tôi như thế này nhiều lần trong ba tháng. Mỗi lần như vậy, tôi chỉ quỳ hay ngồi niệm Phật thôi.

Qua tuần lễ đầu, tôi cảm thấy người tôi khỏe ra không còn mệt mỏi nữa, ăn được, ngủ ngon, thấy thảnh thơi an lạc. Cứ như thế tiến triển, không còn mệt mỏi, thấy cơ thể mập ra, lên cân cho tới ngày hôm nay, con người tôi tròn như hột mít.

Tôi cũng xin nói, tất cả những người bị bệnh về chùa Diệu Quang là bị các bác sĩ chê hết. có một bà 80 tuổi, đi không nỗi, được các bác khiêng lên chánh điện để Sư bà chữa trị cho. Sau một vài hôm chữa trị, bà khỏe mạnh, đi được. Bà ấy không còn ở đây nữa, đã theo con cháu đi ở chỗ khác.

Chùa Diệu Quang này được đồng bào Việt Nam các giới không Phật tử và Phật tử từ các nơi xa gọi là đất thánh, được kể từ sau những người bị bệnh khó chữa, bác sĩ chê, bó tay, về đây được Sư bà Diệu Từ chữa trị cho được lành hẳn. Rồi sau đó có một hiện tượng thật là mầu nhiệm, đó là hình ảnh Phật bà Quán Thế Âm thị hiện trên nóc Quán Âm Các và trong bầu trời vào buổi sáng lễ khánh thành. Hình ảnh ấy được một gia đình Thiên Chúa Giáo quay phim lúc lái xe trên freeway, rồi đem đến tặng cho Sư bà. Kể từ sau đó, đồng bào các giới Phật tử và không Phật tử thường về đây, đến điện Quán Thế Âm lễ bái, cầu nguyện, cầu xin các việc, xin cho hết bệnh hoạn, v.v… đều được toại nguyện, an khang, khỏe mạnh.

Số 4- Phật tử Quảng Tín

Pháp danh tôi là Quảng Tín. Tôi có một đứa con trai 7 tuổi. Tự nhiên nó không chịu ngủ, cứ đi lung tung trong nhà suốt đêm với dáng điệu khù khờ như người mất trí. Trước hiện tượng khù khờ của con tôi, tôi không biết làm sao cho nó được tỉnh lại. Thì tôi mới nhớ ra lời của một số bà con người Việt ở đây nói rằng Sư bà Diệu Từ tại chùa Diệu Quang, có khả năng chữa trị lành các thứ bệnh nan y của mọi người bằng Phật pháp. Tôi liền đem cháu đến chùa và gặp Sư bà, tôi trình bày hiện tượng khù khờ… của con tôi cho Sư bà nghe. Sư bà gọi cháu đến, nhìn nó, nắm tay nó, rờ lên đầu. Sư bà nói “nhờ ông Đại Hồng Chung trị cho là hết. Cháu nó bị các vong linh bên kia phá chơi vậy đó thôi”. Sau đó Sư bà dẫn cháu lại ông Đại Hồng Chung, bảo cháu ngội lọt lòng trong ông Đại Hồng Chung, rồi Sư bà vừa dộng chuông vừa đọc thần chú Đại Bi, Khể Thủ. Tiếng chuông ngân vang vào không gian, tiếng Sư bà đọc kinh trầm trầm, hòa hợp với nhau qua trạng thái thật nghiêm mật ở đôi mắt khép hờ. Một chặp lâu, cỡ mười phút, Sư bà dộng liên tiếp mấy tiếng chuông lớn mạnh, rồi từ từ nhỏ dần và chấm dứt.

Sư bà gọi lớn “bước ra coi”. Thằng bé chui ra khỏi chuông, thì nó tự nhiên vòng tay cúi đầu chào Sư bà. Sư bà nói khẽ “hết bệnh rồi!” Sư bà bảo đến lạy Phật. Kể từ đó con trai tôi được trở lại trạng thái bình thường, ăn uống, vui chơi, ngủ nghỉ ngon lành và đi học.

Số 5- Phật tử Tâm Đại

Tôi tên là Nguyễn Thị Kim Hưng pháp danh Tâm Đại. Tôi bị mổ ba lần, nên chi đang đi làm bị mất sức khỏe. Thân tôi đi đứng không còn vững, bị ngất xỉu từng cơn, mỏi mệt không thở nỗi. Tâm trí tôi không còn nhớ rõ việc gì, sanh ra trạng thái giận hờn, khấu ó với chồng thường xuyên, không còn muốn gặp ai, chỉ có âu sầu, không nụ cười, chỉ muốn chết thôi, nhưng nhìn lại đứa con 11 tuổi, chết đi bỏ nó lại bơ vơ, tội nghiệp cho nó. Do vậy tôi giao con cái cho chồng tôi tạm thời trông coi, tôi quyết tâm về chùa Diệu Quang để trình bày với Sư bà. Được Sư bà chỉ dạy cho bằng cách niệm Phật, lên chùa tụng kinh, lạy Phật với các Sư cô, Sư bà vào mỗi tối tịnh độ, công phu buổi sáng và tự tụng kinh, sám hối, niệm Phật, làm công việc lặt vặt tại chùa, cũng như tham dự vào các buổi tu học với đại chúng nam, nữ Phật tử do Sư bà nói pháp hướng dẫn vào mỗi chủ nhật hằng tuần.

Giữa thời gian ở tại chùa để tụng kinh, niệm Phật, tu học như vậy, tôi được Sư bà chăm sóc tinh thần bằng thăm hỏi thật dịu dàng, khuyên bảo niệm Phật, đừng buồn, lo niệm Phật, tụng kinh với Sư bà, Sư cô là sẽ mau hết bệnh, mau bình phục sức khỏe. Có lúc Sư bà gọi đến đứng trước mặt Sư bà, Sư bà nắm tay tôi, rờ lên đầu tôi cùng với lời thì thầm gì đó! Có lẽ Sư bà đọc kinh chú. Quả thật lời Sư bà khuyên bảo, nắm tay, rờ đầu, đọc kinh. Sau đó toàn cả thân tâm tôi từ từ tự nhiên nhẹ nhàng, an lạc… giống như vừa uống xong thang thuốc bổ vậy. Đó là cách trị liệu bằng tâm lý, cộng thêm cái đức độ của Sư bà gia trì vào, là năng lực xua đi mọi nghiệp chướng trong người của tôi ra hết. Nhờ Sư bà chữa trị cho bằng Phật pháp mà Tâm Đại được phục hồi sức khỏe, ăn uống, vui vẻ, ngủ nghỉ, yêu đời lại bình thường. Tâm Đại ở tiểu bang  khác, mới về Sacramento này được hai hôm. Mặc dù Tâm Đại đã quy y với vị thầy mà Tâm Đại được gặp trước đây, nhưng Tâm Đại nhận Sư bà Diệu Từ là bổn sư hiện thực của Tâm Đại, là chỗ nương tựa suốt cuộc đời còn lại.

Số 6- Phật tử Quảng Thanh

Tôi là Võ Thị Cúc, pháp danh Quảng Thanh. Tôi cũng là một bệnh nhân hồi xưa. Tôi bị bệnh tâm thần, được Sư bà cho ở lại chùa ba tháng, nuôi cho ăn và hướng dẫn tu học. Nhờ đó mà bệnh tôi được lành hẳn từ dạo đó đến nay.

Tôi cũng xin nói rõ, mười mấy năm về trước, khi chưa có Diệu Quang ở quận Cam, tại Diệu Quang I này, Sư bà chữa cho nhiều người bị bệnh khác nhau, như bệnh tà, bệnh tâm thần, bệnh thể chất ở ngoài thân, trong nội tạng, phải nói là hàng trăm người trở lên. Trong số đó, hiện nay có một số đi theo con cháu ở nơi xa, còn lại đây ở tuổi già trên tám mươi, nên họ ít về chùa, chỉ con cháu họ về lễ Phật, cúng dường Tam Bảo thôi.

Trong lúc tôi ở tại chùa này trước đây, tôi được thấy trực tiếp, có một bà người Tàu nói tiếng Việt. Bà ấy bị bệnh tà do qua quá trình giết mướn nhiều gà, vịt dùm cho người khác để ăn thịt. Do vậy mà tâm hồn bà cứ thấy bị gà, vịt, rượt đuổi, đá tứ tung vào thân bà trong giấc ngủ với thời gian nhiều tháng, nên làm cho bà bị khủng hoảng tinh thần, sợ hãi, cho đến nỗi bà bị mất tinh thần, làm cho tâm trí bà trở nên lừng khừng, cơ thể vật vờ, ngồi thừ ra suốt ngày, nói nhảm, khóc lóc, rồi chạy giữa ban ngày, la lớn “gà rượt tôi, gà rượt tôi”.

Trước những hiện tượng chạy la, điên khùng của bà như vậy, chồng con bà không biết làm sao hơn, liền về chùa gặp thầy (Sư bà) trình bày hết tất cả trạng thái bệnh hoạn ấy và nói lời cầu xin Sư bà cứu cho.

Sư bà liền hoan hỷ, bảo gia đình đem chị ấy đến đây để chữa trị cho. Cách chữa trị của Sư bà hoàn toàn bằng Phật pháp, như bảo chị ấy lên chánh điện lễ Phật, quỳ xuống thầm lặng một vài phút, như để cho tâm chị ấy có định lực tỉnh táo. Đó cũng là một cách xét nghiệm mức độ bệnh tà của chị ấy ở mức độ nào. Cho nên qua mười phút, Sư bà đến chỗ chị ấy quỳ, Sư bà ngỏ lời thăm hỏi về gia đình, công ăn việc làm, bệnh hoạn như thế nào, tâm hồn lúc này ra sao, v.v… Chị ấy trả lời một cách thông suốt, rành mạch từng phần rõ ràng. Thế là Sư bà biết tâm tư chị ấy đã được tỉnh táo hẳn, do vì những oan hồn gà, vịt không còn tồn tại trong tâm thức của chị nữa, chúng đã ra hết cả rồi, do chị ấy quỳ đối diện trước Phật, Bồ Tát, cùng với đạo hạnh của Sư bà đầy lòng từ , bi, hỷ, xả… là uy lực xua đuổi hết oan hồn gà, vịt ra khỏi tâm hồn chị ấy.

Sau đó Sư bà hành lễ đọc kinh, thần chú Đà La Ni để cầu siêu cho vô số oan hồn gà, vịt được siêu thoát và có lời khuyên chị ấy nên tự nói lời sám hối trước Tam Bảo, cũng như lạy Phật với tấm lòng thiết tha xin chừa bỏ hành động sát sanh hại vật, thì tội mới được tiêu tan.

Sư bà cũng không quên nói cho chị nghe bài pháp về sự tác hại của nghiệp sát sanh, quả báo nhãn tiền không sai chạy.

Sau cùng, Sư bà khuyên chị và cả gia đình chị đang có mặt hôm ấy, nên về chùa để tham dự tu học các khóa lễ tụng kinh, bái sám hàng tuần.

Riêng tôi, Quảng Thanh đây, tôi không quên lời Sư bà nói với tôi: “Quảng Thanh con! Con muốn thành Phật, mà cục đá vẫn là cục đá, lăn tới lăn lui vẫn hoàn cục đá. Miếng gỗ để hoài, nó vẫn là miếng gỗ. Nhưng nhờ bàn tay của người thợ điêu khắc khéo, đục đẻo, chạm khắc hình tượng Phật, Bồ Tát thật oai nghiêm tuyệt tác, làm cho mọi người ai cũng khởi tâm tôn kính, ngưỡng mộ, cúi đầu đãnh lễ.”

Thầy tôi nói thêm rằng: cục đá bị đẻo, đục, điêu khắc thì đá bị đau. Miếng gỗ bị thợ đẻo, đục, chạm trổ, thì gỗ bị đau. Nhưng mà chịu đựng để cho người ta đục đẻo, chạm trổ, điêu khắc… thì mới được thành Phật con ạ!

Tôi nhờ thầy tôi, là Sư bà Diệu Tư,ø đã chỉ cho tôi thấy được Đạo Phật cứu chữa mọi bệnh khổ khác nhau của con người, để sau đó được giải thoát, được trở lại an vui, hạnh phúc bình thường sau khi hết bệnh ngay trong thực tại bằng giáo pháp, trong đó có bốn tấm lòng cao rộng: từ, bi, hỷ, xả, là nền tảng của sự thực hành giáo pháp cứu chữa, mà thầy tôi đã thực hành (giáo pháp và từ bi hỷ xả) hàng trăm lần chữa trị nhiều thứ bệnh khác nhau của hàng trăm người nam, nữ, già, trẻ bị bệnh  được hết bệnh. Để rồi được trở thành Phật tử sau khi quy y Tam Bảo làm đệ tử Sư bà, trong số người ấy có tôi.

Lý do từ chỗ chưa biết Đạo Phật, được biết Đạo Phật, xin quy y Tam Bảo làm đệ tử Sư bà, trở thành Phật tử, đó là năng lực được hết bệnh, nên ai cũng khởi lòng cảm kích thật cao độ trước tư cách đầy bốn đức từ, bi, hỷ, xả, đạo hạnh, hiền hòa của Sư bà đối đãi với những người bệnh ở lại chùa nói riêng, được Sư bà chữa trị, chăm sóc mọi thứ vật chất và tinh thần, nói chung toàn thể Phật tử các giới về chùa hành lễ, tu học thật chu đáo, kỹ lưỡng và bình đẳng.

Đối với những người bệnh, có lúc 2 người, 3 người, 1 người đang nằm tịnh dưỡng, được Sư bà đến tận nơi lúc sáng, lúc chiều, đem lời thăm hỏi: “Ra sao, thấy trong người có khỏe không? Chiều nay, sáng nay ăn cơm, ăn cháo thấy ngon không? Ngủ được không? Nằm nghỉ hay ngồi ở đâu đó mà nghỉ, hay là ra Quán Âm Các ngồi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, để được ngài gia hộ cho mau lành bệnh. Chứ đừng nghĩ ngợi lung tung. Việc gì cần nghĩ đến, chờ cho hết bệnh đã. Mà nè, chỉ nghĩ điều thiện thôi nghe.” Có khi Sư bà rờ lên trán, nắm tay người bệnh, nhìn và im lặng trong mấy giây, rồi bảo người bệnh cần gì nên mạnh dạn thưa với quý Sư cô lo cho, chứ không thưa, ngồi im thì bị thiếu thốn đấy nhé, nhớ nói, con khóc mẹ mới cho bú.

Tôi, Quảng Thanh, nghe Sư bà bảo mấy chị bệnh, cần gì thì hãy thưa với quý Sư cô để đáp ứng cho, làm cho tôi nhớ lại lúc tôi lên 18 tuổi, tôi bị ốm, bệnh cảm nằm rũ rượi trên giường, được mẹ tôi hiện hữu bên giường, lo cơm cháo, thuốc thang cùng lời hỏi han với nét mặt lo ra. Thì Sư bà chăm sóc những người bệnh tại chùa đây, không khác gì mẹ tôi hồi xưa chăm sóc cho tôi.  Cho nên nói đến “Lương y như từ mẫu”, phải nói đến thầy tôi, Sư bà ở đây mới là đúng nghĩa, hay nói rõ hơn, đó là các vị Tăng Ni. Bởi vì quý ngài là những bậc thầy chữa mọi thứ bệnh của con người bằng Phật pháp và bốn đức tính từ, bi, hỷ, xả được thể hiện qua thái độ chăm sóc người bệnh, nuôi dưỡng người bệnh thật là nhẫn nhục, thương yêu hết lòng, chăm sóc tận tụy từng thứ mà người bệnh cần đến. Sư bà đã biết các người bệnh đang được chữa bệnh phải được chăm sóc, nuôi dưỡng những gì, do vậy Sư bà thường đến hỏi han, vỗ về, khuyên nhủ, bảo người bệnh cần gì là như vậy.

Ngay cả hàng trăm Phật tử về chùa tu học, cũng được Sư bà ngỏ lời hỏi thăm chung trước khi giảng nói Phật pháp, chẳng hạn Sư bà hỏi: “Quý vị Phật tử hôm nay tâm hồn được an lạc? Có vị nào không khỏe hôm nay cố gắng đến tu học? Bài Phật pháp vừa rồi, có vị nào chưa hiểu chỗ nào không? Thì cứ hỏi, thầy sẽ trả lời cho, đừng ngại chi cả! Học là phải hiểu, chưa hiểu là phải hỏi. Học bài Phật pháp nào là chắc ăn bài đó, tức là phải thấy được chơn đế của bài đó sau khi nghe tục đế là lời giảng của thầy. Hiểu thấu hết một số bài Phật pháp cơ bản, thì quý vị ai cũng được có bốn đức tính từ, bi, hỷ, xả, là động cơ tiến tới tâm thanh tịnh, vô ngã. Giải thoát sinh tử là chỗ đó.”

Bên cạnh đó, Sư bà có lời thăm hỏi từng Phật tử lúc về chùa tu học, hành lễ, tụng kinh bái sám. Sư bà hỏi về sức khỏe, gia đạo bình an hay có gì trắc trở hay không. Tâm tư thế nào, an bình hay vọng động và kể cả công ăn việc làm được hanh thông hay không, vân vân…

Những người bệnh cảm thấy được khỏe hẳn, họ tự động đi quét sân, quét chánh điện hay làm các việc lặt vặt. Sư bà thấy được, Sư bà liền bảo họ nên ngồi nghỉ cho hết bệnh đã, đừng vội đi làm các việc, nên ngồi nghỉ dưỡng sức cho đến khi nào được lành hẳn bệnh, thì muốn phát tâm vun trồng phước đức thì cứ việc, không ai ngăn cản. Còn con đường giải thoát sinh tử sau này là do học và tu tập Phật pháp. Vậy quý vị nên về chùa tham dự ngày tu học.

Trước khi về lại gia đình, những người đã được hết bệnh hẳn, họ đến trước Sư bà nói lời cảm ơn Sư bà đã cứu họ được hết bệnh, được trở lại đời sống có an vui, hạnh phúc, cũng như suốt thời gian ở tại chùa được Sư bà nuôi dưỡng bản thân bằng vật chất, tâm linh bằng Phật pháp. Họ xin nguyện suốt đời còn lại quay về nương tựa ngôi Tam Bảo chùa Diệu Quang, mà Sư bà, các Sư cô là những bậc thầy chỉ đạo cho thấy con đường giải thoát ở Phật pháp. Chính Quảng Thanh tôi đã được thầy tôi chỉ cho tôi thấy Đạo Phật là con đường giải thoát.

Trong lúc tác bạch như vậy, ai cũng không cầm được nước mắt, do vì quá cảm kích đức độ của Sư bà đối với họ trong việc vừa tận tình niệm kinh chữa trị, vừa nuôi dưỡng vật chất, lời dạy bảo bằng Phật pháp, đạo lý nhân bản, được thấy qua bốn tấm lòng rộng lớn (từ, bi, hỷ, xả) của Sư bà trong đối đãi ở lời nói và hành động thật thân thương, như người mẹ nuôi dưỡng con cái. Như thế, làm sao mà không ứa lệ được trong lúc tác bạch xin về gia đình, trong đó có tôi là Quảng Thanh đây!

Số lượng người bệnh đến nhờ thầy thôi trị liệu, có đến hàng trăm người, kể từ khi thầy tôi có mặt tại ngôi chùa Diệu Quang I cách nay gần ba mươi năm. Những người bệnh đến chùa là nam, nữ thanh thiếu niên, trung niên, ít có người cao niên. Số người bị bệnh và được Sư bà trị liệu cho hết bệnh, hiện nay có người ở tuổi 80, trên 80 và 70, 75. Có số người còn ở đây, có số người theo ở với con cháu tại các tiểu bang xa. Có số vị đã qua đời vì quá già nua.

Thầy tôi, không những có khả năng chữa trị các thứ bệnh của mọi người được lành hẳn, mà thầy tôi còn tự chữa các thứ bệnh ở bản thân của thầy tôi nữa. Đúng theo quy luật, hễ có tâm tự giác ngộ, là có tâm giác tha cho mọi người đối với các bậc chơn tu trong Phật giáo. Biết cách trị liệu bệnh cho người, thì nhất định biết cách trị liệu bệnh cho mình. Điều đó được chứng minh: một số đông Phật tử ở Quận Cam (Orange county) có tấm lòng mong muốn Sư bà Diệu Từ về Quận Cam để hướng dẫn học và tu tập Phật pháp, do vậy họ đã hùn nhau mua cho thầy tôi một cơ sở làm chùa Diệu Quang II. Niềm mong ước đã được thành quả hiện thực, thầy tôiđược Phật tử Quận Cam cung thỉnh về làm minh chủ.

Để chỉnh trang, tu sửa cơ sở được có sắc thái thiền môn, văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam, thầy tôi và mấy Sư cô tự dấn thân lao tác trong việc tu sửa, chỉnh trang cơ sở. Hơn nữa, thầy tôi vốn có đức tính siêng năng cần mẫn làm nhiều việc văn hóa, từ thiện, xã hội, hoạt động thanh niên, văn nghệ, thể thao… trong đó có khả năng sáng tác, chế tác vật thể cho mỗi việc khác nhau, như tự chế tác ra một kiểu hình hoa sen cho hàng rào, cho cửa sổ… hơn là mướn thợ, ngay từ thuở tuổi sinh viên Ni trong tu viện trước 1975 bên quê nhà. Đức tính siêng năng, tự chủ, tự lập ấy vẫn còn hiện hữu trong tâm thức thầy tôi. Do vậy, thầy tôi và mấy Sư cô mỗi vị một công việc tu sửa cơ sở. Riêng thầy tôi leo lên nóc nhà, mái nhà, đứng ở các nấc thang cao vót để tháo cái cũ thay cái mới, lắp ráp hoa văn, sơn phết, v.v… từ sáng đến chiều. Một hôm, có lẽ do vì mệt hay sao, mà thầy tôi bị ngả xuống đất do trợt chân. Sự ngả té không phải là nhẹ, cũng không phải quá nặng, vừa đủ làm cho vai bị chấn thương đau nhức, đầu bị choáng váng.

Biết được sự việc thầy bị ngả, té chấn thương, chúng tôi từ Sacramento về Quận Cam thăm thầy. Gặp thầy, qua lời thăm hỏi và đãnh lễ, được thầy tôi đáp lại: “Không sao đâu, thầy được người mẹ hiền là Bồ Tát Quán Thế Âm đã cứu chữa cho thầy được khỏe rồi. Các Phật tử an tâm, đừng lo.”

Thầy tôi nở nụ cười như mọi khi, thầy nói tiếp: “Thật sự bà mẹ Bồ Tát Quán Thế Âm ở bên mình, nhưng mình phải nhớ lắng đọng tâm tư niệm danh hiệu ngài và thầm đọc thần chú Đại Bi của Ngài và chú Dược Sư, tiêu tai kiết tường một cách thiết tha là năng lực giao cảm, thì mới được bà mẹ hiền Quán Thế Âm gia trì cứu chữa cho mới hết đau nhức. Mình trị liệu cho người khác hết bệnh hay trị liệu cho mình hết bệnh bằng niệm kinh chú Đà La Ni của Phật, cùng với lời cầu nguyện lên chư Phật, Bồ Tát xin cứu khổ, tất cả là năng lực giao cảm. Chứ không phải chỉ có lễ bái và lời cầu xin không!”

Thầy tôi cũng cho biết rằng, công phu trì tụng kinh, chú Đà La Ni và lời cầu nguyện trong việc trị liệu các thứ bệnh cho mọi người và tự trị liệu cho bệnh của mình được hết, là thuộc về lãnh vực tâm linh giao cảm. Một khi tâm bệnh  được hết bệnh, thì bản thân cũng được khỏe ra, an lạc, hạnh phúc. Ngược lại, bệnh ở bản thân được trị liệu cho dứt, thì tâm hồn an lạc, hết âu lo. Cả hai thứ bệnh ở tâm và thân đều sử dụng kinh, chú Đà La Ni của Phật và lời cầu nguyện của mình trong việc trị liệu thì mới có kết quả hết bệnh, bởi vì tâm ở trong thân người, hai thứ tương quan nhau. Nên thân bệnh thì tâm khổ, tâm bệnh thì thân khổ, có khi cả hai đều khổ. Tuy nhiên, có một vài thứ bệnh ở thân, ta cũng cần bác sĩ và dụng cụ khoa học vật lý, như máy đo huyết áp cao thấp, bệnh đau mắt phải nhờ bác sĩ khám xét và cho thuốc nhỏ vào mắt hay bản thân bị thương tích, cần bác sĩ băng bó và cho thuốc, hoặc răng đau được nha sĩ khám, nhổ và trám răng, v.v… Bên cạnh đó, ta không quên đọc kinh, chú Đà La Ni và lời cầu nguyện lên chư Phật để được mau lành.

Giữa những giây phút thăm thầy, tôi được thầy tôi giảng cho chúng tôi nghe về các cách trị liệu bệnh của người và tự trị liệu bệnh của mình, là như vậy đó. Tôi xin ngưng ở đây. Quý vị nào muốn biết thêm bất cứ việc gì thuộc lãnh vực văn hóa của Đạo Phật, hãy đến gặp thầy tôi (Sư bà Diệu Từ). Thầy tôi hiện thường trú ở chùa Diệu Quang II ở Quận Cam. Xin cảm ơn quý vị phỏng vấn tôi.

*

*   *

Tuệ Đạo phải mất đến gần 5 phút mới đọc xong những lời tự thuật của một số người Việt ở Hoa Kỳ bị bệnh, được Sư bà Diệu Từ trị liệu cho lành bệnh trong quá khứ và hiện nay.

Đọc xong, Tuệ Đạo cuốn tròn mấy tờ giấy, nắm gọn trong lòng bàn tay trái. Cùng lúc chàng đổi thế ngồi chéo chân lên nhau, để bàn tay có cuộn giấy ấy lên đầu gối, đi vào trạng thái thầm lặng vài giây. Đoạn, Tuệ Đạo ngẩng đầu nhìn về phía trước, tự tuyên bố:

- Vận hành tu tập, hoạt động nhiều giáo vụ vào dòng đời để cứu khổ độ sanh của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ đến đây, tạm chấm dứt ở khoảng thời gian từ bước đầu thương Đức Phật trên bàn lúc qua chùa dự lể Phật Đản với ông bác, gặp một Sư cô, khởi tâm muốn xuất gia, rồi trốn gia đình đi xuất gia, bị gia đình ngăn cản, rồi được xuất gia, học hành, thi cử, đỗ đạt nhiều bằng cấp Đạo, đời, suốt thời gian trong Ni viện, ra hải ngoại lập chùa hoằng hóa độ sanh, chữa nhiều bệnh cho con người được lành… từ dạo đó cho đến hôm nay 2008, tạm chấm dứt là như vậy, chứ chưa phải là chấm dứt hẳn. Bởi vì, với những Tỳ Kheo Tăng Ni chân tu có một kho tàng văn hóa lớn về Đạo và đời, đều được trở thành Đạo Sư của nhân thế trong công cuộc hoằng hóa độ sanh, thì không có vấn đề chấm dứt. Những đức tính từ bi, đạo hạnh, ngôn ngữ chân thật, lời pháp đầy khế lý chánh đạo, đôi mắt hiền như Phật, hành động từ bi hỷ xả trong đối đãi với nhân thế, các tác phẩm văn hóa Phật giáo, văn học dân tộc, thi ca, nghệ thuật, v.v… của quý ngài vẫn được tiếp tục tồn tại ngàn đời vào lòng người qua nhiều thế hệ trong các thời đại. Mặc dù quý ngài đã viên tịch, huống hồ đang hiện hữu giữa dòng đời và Đạo pháp, như Sư bà Thích Nữ Diệu Từ đang ở tuổi trên lục tuần, là ngọn hải đăng rực sáng trong ngôi nhà Đại Thừa Bảo Điện Phật Giáo Việt Nam. Trong đó đang còn tiếp tục nhiều giáo vụ hoằng hóa độ sanh có kỹ thuật mới qua thi ca nhạc lý, phương pháp tu tập cho Phật tử mang sắc thái hiện đại hóa Phật giáo đang tuôn chảy vào lòng người. So với thời gian, không gian quá khứ hoằng hóa độ sanh, thì ngày nay, công việc hoằng hóa độ sanh của Sư bà được có nhiều cách mới, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa Đạo, đời, rất hiện đại, thì làm sao có thể nói chuyện chấm dứt!

Điều chúng ta đáng tư duy, đó là không có người nào kế thừa, ghi chép các giáo vụ hoằng hóa đạo sanh mang sắc thái hiện đại hóa Phật giáo của Sư bà, đang hành hoạt vào trang sử Phật giáo Việt Nam hải ngoại, để làm kim chỉ nam cho các thế hệ Tăng Ni sinh và Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước, bắt chước làm theo trên vận hành học và tu tập Phật pháp cho đúng chánh pháp, chánh đạo mà các Đạo Sư tiền bối đã vạch ra, điển hình rõ nét là vị Tỳ Kheo Ni ở cấp giáo phẩm Phật Giáo Việt Nam hải ngoại là Sư bà Thích Nữ Diệu Từ.

- Huynh Đăng Triệu có góp ý gì không? Lời hỏi của Tuệ Đạo.

- Theo tôi thấy, hàng trăm giáo vụ Đạo pháp và văn hóa dân tộc, mà Sư bà Diệu Từ đã tri hành hoằng hóa độ sanh trong quá khứ trên quê hương trước 1975 và hải ngoại cách nay hơn 20 năm, được cô Huệ Lan Phương tìm hiểu, ghi chép, được xem là đủ để cho các thế hệ Tăng Ni, Phật tử mai sau bắt chước làm theo. Chỉ sợ rằng các thế hệ tương lai trong các triều đại sắp tới càng lúc càng bị mất khả năng văn hóa Phật giáo một chiều, huống nữa là hai chiều, lại càng không có, nên khó lòng tri hành theo. Chứ đừng sợ rằng bị thiếu nền đạo lý của các Đạo Sư tiền bối để lại.

Hàng trăm điều, trăm việc Đạo pháp của Sư bà Diệu Từ đã tự tri hành cho mình, cho người để được trở thành bậc chân nhân giữa cuộc đời, đều là những bài học chứa đựng triết lý Đạo pháp và nhân thế, mang tính giáo dục để chuyển hóa con người bỏ ác, làm thiện, giữ tâm hồn cho thanh tịnh. Cứ bắt chước làm theo hàng trăm điều ấy, mà Sư bà đã và đang tri hành, cũng đủ để trở thành bậc chân nhân rồi, tìm đâu cho xa. Theo ý tôi là như vậy, huynh Tuệ Đạo thấy sao?

- Huynh Đăng Triệu nhận thức quá chính xác! Đi tìm thực tướng vô ngã của các pháp, đâu cho xa. Ngay thực tại đang có. Đi tìm minh sư học Phật để thấy được đạo lý vô ngã, là phải tìm gặp các vị Đạo Sư nào nói Phật pháp, hướng dẫn Phật tử tu học, làm cho người nghe được liễu ngộ chơn lý vô ngã, để rồi được hiển lộ ra lời nói, hành động từ, bi, hỷ, xả, và người bệnh được Đạo Sư chữa lành.

Trước khi chia tay nhau, Tuệ Đạo sẽ hát hai bài Thiền ca: KHUYÊN TU CHUYỂN HÓA, nhạc và lời của Sư bà Diệu Từ, để làm kỷ niệm khó quên.

Tuệ Đạo hát không cần đàn, nhưng âm điệu lên xuống đúng âm, đúng nhịp thật véo von giữa hoàng hôn chiều San Diego đang phủ xuống tím ngát ngoài không gian, bên trong chánh điện Như Lai Thiền Tự đang lên đèn.

Đăng Triệu ngồi nghe trong tư thế vòng hai tay lên ngực, hướng mặt vào những cây trúc vàng đang thay áo tím hoàng hôn. Chàng vừa nghe vừa gật đầu, cùng với tiếng nho nhỏ “Hay lắm! Nhạc và lời vốn hay, người hát còn hay hơn!”

Hát xong, Tuệ Đạo nói, chính tác giả hát mới hay, còn ca sĩ hát chưa hay đâu! Chính tôi có lần được một người bạn kể lại rằng, một số Phật tử tham dự đại lễ Phật Đản tại chùa Diệu Quang Sacramento, họ là những người biết nhạc, biết hát, cho nên họ nói Sư bà hát những bài ca Phật giáo do Sư bà sáng tác và hòa âm rất hay, đúng tông, đúng nhịp. Họ nghe Sư bà hát bài “Phật về”, bài hát mang ý nghĩa Phật Đản Sanh.

Một chị Phật tử tên Tất Tố ở Irvine quận Cam nói: “Những lời hát của Sư bà, chính là những lời dạy cho người Phật tử tu hành. Thay vì Sư bà giảng một bài pháp bình thường, thì ở đây Sư bà nói bằng lời ca, cùng với khúc nhạc để tăng lên sức sống của tâm hồn người nghe, dễ tiếp thu đạo lý mà Sư bà muốn gởi đến mọi người bằng lời ca, làm cho lời dạy ấy đi vào tâm thức của mọi người, khó mà quên được. Hoằng hóa độ sanh phải bằng nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, mới dễ đưa người về với Đạo Phật. Tôi yêu cầu Sư bà Diệu Từ nên cho ra những bài nhạc của Sư bà để cho mọi người ở các giới được nghe nhiều về đạo lý trong đó.”

Một nam Phật tử tên Sáu. Anh Sáu nói: “Bài Phật Về, rất có ý nghĩa. Sư bà hát hay đúng âm, đúng điệu không thua gì các ca sĩ chuyên nghiệp. Lời ca quá ư đặc biệt, được lấy ra từ chơn lý Phật Đà, làm cho lòng người nói chung, riêng tôi cảm thấy nao nao trong lòng hướng về Đạo Phật, thấy Đạo Phật là Đạo cứu khổ con người, là con đường giải thoát qua lời ca và tiếng nhạc của Sư bà, chứ không như lời ca, lời nhạc của thế gian, lụy tình.”

Một nam Phật tử tên Hoằng, pháp danh Minh Nghĩa, từ Việt Nam qua thăm con ở Sacramento, đến chùa Diệu Quang dự lễ Phật Đản. Bác Hoằng nói: “Qua những hình ảnh được trang trí tại chùa, thật là văn hóa Phật giáo và dân tộc Việt ở hải ngoại, làm cho tôi hiểu được các chư Tăng Ni Phật Giáo Việt Nam của ta hết lòng đem Đạo Phật truyền vào xứ người. Cũng như tận tâm tận lực nuôi dưỡng tinh thần Phật tử Việt Nam ở xứ người, luôn nhớ về cội nguồn dân tộc và Đạo pháp Việt Nam. Trong đó Sư bà Diệu Từ viện chủ chùa Diệu Quang ở đây, đã lấy văn hóa dân tộc và Phật Giáo Việt Nam làm nền tảng duy trì và phát triển, để tồn tại ở xứ người qua các bài nhạc và lời Việt do Sư bà sáng tác rất là xúc tích, huyền diệu, làm ấm lòng dân tộc. Được như vậy do Sư bà có nhiều huệ, làm cho tôi khâm phục, kính trọng và ngưỡng mộ. Tôi cầu nguyện chư Phật trong mười phương thường gia hộ cho Sư bà Diệu Từ viện chủ được nhiều sức khỏe, sống lâu để dắt dẫn Phật tử Việt Nam tại đây tiến mãi trên con đường chánh đạo.”

Tuệ Đạo tường thuật xong lời của một số Phật tử về tham dự Phật Đản tại chùa Diệu Quang Sacramento, đã nhận xét về bài ca “Phật Về” và sắc thái văn hóa Phật giáo, do Sư bà Diệu Từ sáng tác và chỉ đạo.

Tuệ Đạo đứng lên, đồng thời Đăng Triệu cũng đứng dậy. Cả hai không ai bảo ai, tự động bước đi ra đến tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lộ thiên, đứng chắp tay lễ bái tạm biệt Ngài, tạm biệt Như Lai Thiền Tự. Rồi bước đi ra parking ở hướng Nhà Linh. Giữa bước đi, Tuệ Đạo như luyến tiếc, nên vừa đi vừa nói lời chót:

- Thế là hơn một tháng trời, chúng ta mới kể xong cốt truyện “Bé Minh Hoàng Ngày Xưa Vẫn Còn Đây”. Tứ là Sư bà Thích Nữ Diệu Từ đang còn đây và sẽ được tiếp tục còn mãi trong lòng người Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước, qua hàng ngàn năm tới bởi những thi phẩm, bài ca Phật giáo cả nhạc và lời, những hình ảnh văn hóa, lễ lạc, thuyết giảng, hướng dẫn Phật tử tu học, lời dạy bảo Phật tử của Sư bà thật chân tình, v.v… sẽ được lưu lại trong trang sử văn hóa Phật giáo Việt Nam hải ngoại.

Lời chót được chấm dứt sau hai chữ “Hải Ngoại”, Tuệ Đạo nắm lấy tay Đăng Triệu, mỉm cười nói lời chúc thân tâm thường an lạc. Đăng Triệu cũng chúc lại như vậy. Không nghe hai người nói lời hẹn ước gặp lại.

Đăng Triệu và Tuệ Đạo đóng cửa xe, rú máy, ra đi mỗi người mỗi ngả, phương trời bắc, nam xa lộ, giữa không gian chiều tím San Diego man mác và nong nóng khí hậu của biển và lục địa phối hợp nhau, ban cho người dân bản xứ một mùa hè thật lý tưởng hơn bất cứ nơi nào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2023(Xem: 1486)
🐄Bò làm mệt, than với chó: " Tao mệt quá ". 🐶 Chó gặp mèo tâm sự: " Bò nó kêu mệt, chắc làm quá sức, chắc nó đòi nghỉ một chút". 🐱 Mèo gặp dê tám chuyện: " Bò nó muốn nghỉ một ngày vì công việc làm nó mệt quá, có lẽ ông chủ bắt nó làm quá sức". 🐐 Dê gặp gà: " Bò nó đòi nghỉ làm, ông chủ bắt nó làm đến kiệt sức thì phải". 🐔 Gà gặp heo nói: " Biết chuyện gì chưa, bò nó định đổi chủ và bỏ việc đấy".
21/10/2023(Xem: 1729)
Từ đầu đến giữa năm 2020, con virus do Tập Cận Bình (TCB) cho tạo ra tại Viện Nghiên Cứu ở Vũ Hán, chẳng những để giết người dân Tàu ở Vũ Hán chống đối đường lối cai trị tàn ác dã man của Tập, mà còn cho con virus ác ôn này xuất ngoại với âm mưu thâm độc là gây truyền nhiễm, lây lan cho người dân lành khắp mọi nơi trên thế giới. Rồi đây đảng cộng sản Tàu do TCB dẫn dắt đã gieo cái nhân ác, sẽ nhận lãnh cái quả không thể nào lường trước được. Xin quý độc giả hãy chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra.
01/09/2023(Xem: 23673)
Bát quan trai giới Cửa Vào Tuyệt Đối Chiến tranh, tình yêu, hoài niệm và truyện ngắn Võ Hồng Dẫn vào Tâm Kinh Bát Nhã Dẫn vào thế giới văn học Phật giáo Du-già Bồ-tát giới Duy-ma-cật Với Các Đại Thanh Văn Duy tuệ thị nghiệp Đạo Phật và thanh niên
03/08/2023(Xem: 1888)
Sư Khánh Vân đang dạo bước ngắm hoa ở sân sau chùa bỗng nghe tiếng ồn ào đâu phía trước. Chú tiểu Công Sơn lật đật lại gần sư thưa: – Bạch thầy, không biết ai đã đem một đứa bé trai bỏ trước cửa chùa. Nó khóc dữ quá. Một số thôn dân đang đứng quanh đấy bàn tán xôn xao, xin thầy ra xem thử.
09/06/2023(Xem: 2601)
Hằng năm cứ vào độ đầu xuân, hoa Mai vàng rồi hoa Đỗ Quyên của Đức nở rộ, Thầy Hạnh Tấn, một vị Tu sĩ Phật giáo, người có khả năng tiếp cận và truyền đạt được những giáo lý màu nhiệm của Đức Phật đến các em thanh thiếu niên sống tại nước ngoài. Dĩ nhiên là có sự tiếp sức của Thầy Hạnh Giới, cũng cùng chung một chí nguyện, cùng khả năng về ngoại ngữ, ít nhất là hai thứ tiếng Anh và Đức mới tổ chức được một Trại Thanh Thiếu Niên toàn nước Đức, có khi lên đến trên bốn trăm em tham dự.
08/05/2023(Xem: 2162)
Bạn tôi có mỗi thằng con trai độc nhất. Hai vợ chồng thương nó lắm. Qua định cư ở Mỹ lúc tuổi đã xế chiều cho nên luôn nghĩ: ”Đời mình kể như bỏ thôi hy sinh lo cho con”. Ông làm đủ nghề lao động, bà thì lớp nào giữ trẻ, lớp nào coi sóc người già, để bù thêm vào tiền lương còm cõi của ông.
05/05/2023(Xem: 2284)
Tại cánh đồng rộng mênh mông ở Phi Châu có một con sử tử con mới lọt lòng mẹ bảy ngày. Mẹ nó trong một chuyến đi săn bị bầy linh cẩu cắn chết và không bao giờ quay trở lại. Sư tử con đói kêu la thảm thiết, chập chững đi chẳng kể phương hướng để tìm sự sống. Nó may mắn lạc vào một đàn bò. Một con bò mẹ đang nằm dài dưới đất cho bê con bú.
03/05/2023(Xem: 125896)
Chết và tái sinh. Thích Nguyên Tạng (sách, tái bản 2007) Phật giáo khắp thế giới . Thích Nguyên Tạng (sách) Pháp Sư Tịnh Không, người truyền bá giáo lý Tịnh Độ (sách) Từ bi và nhân cách . Dalai Lama. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không . T. Ng. Tạng dịch (sách) Hỏi hay đáp đúng . Ven. Dhammika. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Các Bộ Phái Phật Giáo ở Ấn Độ. Dr.Nalinaksha Dutt.T Ng. Tạng dịch (sách)
21/04/2023(Xem: 2651)
An Dưỡng Địa là một khu nhà mồ ở Phú Lâm, gần bến xe đi về lục tỉnh. Trong khu An Dưỡng Địa có chùa Huệ Nghiêm, có Tháp Phổ Đồng. Tiền thân của chùa Huệ Nghiêm là Viện Phật Học Phổ Thông được thành lập đầu năm 1964, rồi chuyển qua Viện Cao Đẳng Phật Học Chuyên Khoa đầu năm 1971. Tôi và ba thầy Liêm Chính, Toàn Châu, Thiện Tường được Viện Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học Liễu Quán ở Huế gởi vào đây học thêm 04 năm. Sau ba năm tu học theo chương trình của viện, tôi đi thêm đoạn đường dài là đến tu học, hoằng hóa tại Hoa Kỳ.
15/01/2023(Xem: 2463)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 làm chết hơn 2 triệu dân miền Bắc, nặng nhất là hai tỉnh Thái Bình, Nam Định đã để lại dấu ấn không bao giờ quên về hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương do Pháp và Nhật chiếm đóng Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567