Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Tâm lành quả tốt

24/10/201202:50(Xem: 9148)
12. Tâm lành quả tốt

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Tâm lành quả tốt

Thuở xưa, đã lâu xưa quá rồi, thuở Đức Phật Ca-diếp còn tại thế, ở một thôn làng ven chân núi Tuyết có hai vợ chồng làm nghề kiếm củi độ nhật.

Họ nghèo, nghèo lắm. Tuy nghèo nhưng họ vẫn sống đời đức độ hiền lương. Hiếm nỗi, đã lớn tuổi mà không con nên hai vợ chồng thường nhìn nhau thở vắn than dài.

Hôm kia đi qua làng một đạo sĩ xin ăn. Do nhân duyên tiền kiếp xa xăm nên hai vợ chồng phát tâm để bát cúng dường.

Vị đạo sĩ sau khi nhận vật thực, nói lời chúc phúc:

- Các người hãy ghi dạ: “Tâm lành, quả tốt”. Hãy làm các việc lành. Hãy tạo các công đức.

Hai vợ chồng thành kính nói:

- Chúng tôi đã lớn tuổi mà chưa con. Xin đạo nhân ban cho lời chỉ dạy.

Vị đạo sĩ nhìn hai vợ chồng một hồi rồi ôm bát, chống gậy bước đi, nói vọng lại:

- Tâm lành, quả tốt. Hãy làm các việc lành. Hãy tạo các công đức.

Từ đó, nhớ lời dạy bảo của vị đạo sĩ, hai vợ chồng người tiều phu chí thú làm ăn và tích cực giúp đỡ mọi người. Ai bệnh hoạn họ săn sóc thuốc men. Ai lỡ đường họ cho ở trọ. Họ nhường cơm sẻ áo cho những kẻ cơ hàn. Họ đùm bọc, an ủi những người cô quả, già nua. Thấy con vật bị thương họ ân cần băng bó, vuốt ve. Họ sưởi ấm cho cả những cánh chim khi đông về giá lạnh.

Không bao lâu sau, mối thiện tâm và lòng từ ái của hai người đã lớn rộng bao trùm cả một vùng. Người và vật thảy thảy được tắm mát trong dòng suối từ vô hạn của họ. Suốt mùa xuân, mùa hạ, chim chóc các nơi tìm về đậu đầy cây, đầy nhà với những tiếng hót líu lo, ríu rít tưởng như bất tận. Các lũ nai, khỉ, vượn, thỏ, sóc... con đứng, con ngồi, con nằm, con chuyền nhau chơi trên cành reo vui thoải mái.

Chẳng có nơi nào bình yên, hạnh phúc, an lạc bằng nơi góc rừng bé nhỏ xinh xinh bên chân núi Tuyết của hai vợ chồng tiều phu nhân đức.

Năm sau, người vợ nghe tin mừng mình đã đậu thai. Người chồng hoan hỷ, sung sướng, lại tích cực thêm trong các công đức như xây cầu, đắp đường, bố thí... Trong thời gian này thì đời sống họ đã no đủ lắm rồi. Có thể họ không cần làm mà vẫn có ăn nhờ công đức trước đây họ đã ban bố cho mọi người. Biết bao là thứ ngon vật lạ mà kẻ này người kia biếu xén. Biết bao trái cây ngon ngọt bổ dưỡng mà khỉ vượn mang từ rừng sâu về. Chẳng những thế, loại thú rừng hiền lành này lại có thể đỡ đần các công việc chân tay giúp hai vợ chồng nữa.

Đến ngày mãn nhụy khai hoa, ra đời một lúc ba trẻ khôi ngô tuấn tú, giống nhau như ba giọt nước. Cả ba rỡ rỡ như châu ngọc, đẹp đẽ như thiên tử nhà trời. Hai vợ chồng làm lễ tạ ơn thần thánh. Nỗi mừng biết lấy chi cân?

Năm sau, vừa chẵn thôi nôi, vị đạo sĩ xin ăn năm xưa trở lại. Hai vợ chồng lại hớn hở để bát cúng dường, với khuôn mặt rạng rỡ, trình bày là đã thỏa nguyện ước năm xưa.

Quanh nhà, trên cây cối, chim chóc thi nhau hót vang rân; nào thỏ, nào sóc đổ xô chạy lại bên đạo sĩ ve vẫy đuôi mừng rỡ. Ba con vượn lớn trân trọng bồng ba trẻ ra mắt đạo sĩ nghèo nàn.

Vị đạo sĩ gật gật đầu rồi mỉm cười nói:

- Tâm lành quả tốt, đúng vậy không sai! Tâm lành quả tốt, mình đã nhờ nương mà tất cả sinh chúng cũng được nhờ nương.

Hai vợ chồng kính cẩn cúi đầu.

Vị đạo sĩ tiếp:

- Vì nhân duyên hội ngộ năm xưa nên giờ đây bần đạo sẽ đặt tên cho ba trẻ.

Rồi ngài ngửng đầu nhìn trời:

- Bần đạo là một Sa-môn không cửa, không nhà, đang bốn phương lê gót lang thang khổ hạnh để tìm cho ra đạo lớn hầu cứu độ cho muôn loại chúng sanh đang đau khổ. Ba trẻ ra đời trong lúc này đúng là kẻ hữu duyên. Đúng là do nhân duyên sâu dày trong quá khứ. Ồ! Bần đạo thấy rõ chúng rồi. Vậy bần đạo đặt tên cho ba trẻ theo thứ tự là: Trí Lợi, Ý Lợi và Tâm Lợi.

Nói xong câu nói hàm nghĩa sâu xa, chăm chú nhìn ba trẻ một hồi rồi đạo sĩ cất chân từ giã...

Quang âm thấm thoắt, ngày tháng thoi đưa, ba trẻ giờ đã lớn.

Trí Lợi là anh, bất cứ công việc gì cũng tỏ ra thông minh, khôn ngoan, sáng suốt. Ý Lợi là em kế, là một trẻ đầy ý chí, cương nghị, dõng lực. Cùng với Trí Lợi, Ý Lợi giúp cha mẹ làm tất cả các công việc về rẫy bái, ruộng vườn. Ngoài ra, họ còn vào rừng sâu làm gỗ, tìm trầm. Đối với cả hai, chỉ có thành công, thạnh lợi chớ không có thất bại, thối giảm. Nhờ vậy, chẳng bao lâu, nhà cửa, điền trang đều được mở rộng, một đời sống hạnh phúc ấm no đã đến với gia đình.

Riêng Tâm Lợi thì hiền lành đến nhu nhược. Về “trí”, về “ý”, Tâm Lợi không bằng được hai anh nhưng về “tâm” lại tràn trề lai láng. Chàng thương người, thương vật đến quên ăn bỏ ngủ... Chỉ có thế thôi. Còn các công việc khác thì vụng về, chậm chạp. Hai vợ chồng thường ái ngại nhìn nhau thở ngắn, than dài:

- Thương người, thương vật mà đến độ như nó thì vợ chồng mình cũng không bằng được. Nhưng vụng về trong mọi công việc thế kia thì e rằng trong tương lai nó sẽ khổ thôi.

Thời gian sau, người chồng qua đời. Và cũng không lâu, đến phiên người vợ. Trước giờ lâm tử, bà kêu ba con đến mà dạy rằng:

- “Tâm lành quả tốt”. Cha mẹ chỉ nhờ học thuộc bốn chữ đó do lời dạy bảo của một vị đạo sĩ mà thành người, nhà cửa yên ấm và đồng thời sinh hạ được ba con. Mẹ vĩnh biệt các con trong lúc các con chưa nên gia thất, đó là điều hối tiếc nhỏ; nhưng các con đều đã khôn lớn, sống thuận hòa, thương yêu nhau như thế này lại là niềm vui to lớn hơn. Mẹ chẳng còn ao ước gì nữa cả. Gia sản để lại cho các con thì hãy cùng nhau gìn giữ, bảo bọc, chí thú làm ăn. Hãy bố thí, mở rộng lòng từ, thương yêu người và vật.

Câu nói cuối cùng, người mẹ thều thào:

- Hãy chiếu cố đến em!

Sau khi cha mẹ đã mồ yên mã ấm, Trí Lợi bàn với Ý Lợi rằng:

- Em ta vụng về, chậm chạp không biết làm ăn. Nếu toàn bộ gia sản này mà hai ta đồng nhượng lại thì em ta có thể sống trọn đời và làm các công đức. Hai ta đều có “trí” và có “ý” thì hãy chia tay nhau đến những phương trời xa để làm ăn. “Tâm lành quả tốt” thì lo gì chúng ta không nở mặt nở mày trong mai hậu.

Bàn thế xong, Trí Lợi và Ý Lợi mỗi người chỉ mang theo tiền lộ phí, để thư lại cho em, không từ giã, bí mật lên đường, hẹn ba năm sau sẽ trở lại quê nhà...

Trên đường lưu lạc tha phương, băng đèo lội suối, khát thì uống nước sông, đói thì ăn trái cây rừng. Hôm kia, Ý Lợi đi đến một thành phố miền biển.

Chàng luôn tâm niệm lời cha mẹ dạy:

- “Tâm lành, quả tốt. Hãy làm các việc thiện, hãy làm các công đức.”

Không biết là bao nhiêu việc lành chàng đã làm được trên đường đi. Đẩy giúp một chiếc xe bò đang ì ạch kéo dốc. Gánh một gánh củi nặng cho một cụ già. Gỡ một con thú bị thợ săn sập bẫy. Băng vết thương cho một chú nai con. Khuân đá sửa lại một đoạn đường bị nước lũ. Cho vật thực đang ăn đến một kẻ đói. Vớt một ổ kiến đang bị trôi trên khe... Ban đầu, làm những công việc này dường như là chàng noi gương cha mẹ. Sau rốt, chàng cảm thấy mình tình nguyện làm, làm một cách hoan hỷ, làm một cách tự nhiên. Quả thật chàng đã đạt đươc lạc thú khi làm các công đức.

Ngày kia, chàng đứng quan sát phu khiêng các bao hàng nặng từ thuyền to xuống. Có một cụ già đi sau cùng, dường như đôi chân đã run run dưới bao hàng quá lớn. Chàng đến vác giúp. Thấy một chị phụ nữ vóc người quá mảnh mai, chàng lại đến phụ một vai. Thế là suốt một ngày, chàng đứng đó, hết khiêng cho người này một đoạn lại khiêng giúp cho người khác một đổi. Chàng không tỏ vẻ mệt nhọc, mà khuôn mặt vốn đã đẹp như thiên thần lại càng rạng rỡ hơn lên vì hoan hỷ. Mọi người cảm kích nhìn chàng, chàng gật đầu đáp trả lại bằng một nụ cười hồn nhiên như con trẻ. Người ta bắt đầu bàn tán về anh chàng thanh niên đẹp trai kỳ dị.

Ngày hôm sau, Ý Lợi lại đến chỗ tàu cũ và tiếp nối công việc của mình. Cuối ngày, người ta vây lại, hỏi chàng từ đâu đến và đến đây có việc gì? Chàng thành thật trả lời, sau đó mỉm cười kết luận rằng:

Dầu chưa có công viêc gì để tự nuôi sống bản thân, nhưng không phải vì vậy mà không thể giúp được cái gì đó cho mọi người xung quanh. Tâm lành thì quả tốt mà. Mẹ tôi đã từng dạy như vậy.

Chuyện đến tai ông chủ, được kêu đến hỏi và chàng cũng chỉ trả lời được có bấy nhiêu với nụ cười rất dễ mến. Thế là chàng được vào làm việc với cái nhìn thiện cảm của ông chủ và của nhiều người khác. Chỉ mấy tháng sau, sự tài năng, tháo vác, lương thiện và lòng từ tâm, hỷ tâm của chàng làm cho ông chủ yêu thương lạ lùng. Chàng được làm cai coi sóc một trăm phu khiêng ở bến tàu. Thế là chàng cảm thấy trách nhiệm của mình nên đã làm việc một cách hăng say, nhiệt huyết và đầy thiện chí. Chẳng bao lâu, khắp cả bến tàu, không ai là không biết tên chàng, mang ơn chàng và thương yêu chàng. Từ giọng nói, dáng đi, cử chỉ, nụ cười của chàng dường như ban rải cho người ta niềm tin yêu và năng lượng thanh bình, an lạc. Ông chủ “ghiền” chàng. Phu khiêng “mến yêu” chàng. Trẻ em “mê” chàng. Và con gái thì “tương tư” chàng.

Năm thứ hai, ông chủ gã cho chàng một lúc hai cô tiểu thư yêu quý cùng một chiếc tàu lớn làm của hồi môn. Chàng lại đi buôn muối và trao đổi hàng hoá, vải vóc lẫn những thổ sản đó đây khắp các thành phố miền duyên hải. Người ta lại rủ chàng tìm ngọc trai và buôn bán ngọc trai. Đối với chàng, chưa bao giờ nghe đến hai chữ thất bại nên cuối năm, trong tay chàng đã có đến hàng trăm ngàn đồng tiền vàng.

Ông chủ mất, chàng được kế thừa một gia sản lớn cùng mấy chục chiếc tàu buôn. Chưa dừng lại ở đó, chàng còn tậu một trăm con lạc đà để thồ và vận chuyển hàng hoá giao thương với các nước vùng sa mạc tây bắc...

Thế là Ý Lợi đã trở thành một tay “Phú gia địch quốc” trong chưa đầy ba năm áp dụng bí quyết gia truyền: Tâm lành quả tốt – theo như lời trăn trối của mẹ.

Hôm kia, chàng bồi hồi nhớ lại lời ước hẹn cũ với anh và em, Ý Lợi chuẩn bị một cuộc trùng phùng huynh đệ suốt ba năm xa cách nhớ nhung.

“- Chẳng biết anh và em ta giờ ra sao?”

Trí Lợi lang thang vất vưởng đến một tiểu quốc. Trên đường, chàng cũng tâm tâm niệm niệm lời cha mẹ dạy. Cũng như Ý Lợi, chàng cũng đã làm vô lượng công đức trên đường đi.

Một buổi chiều, chàng lạc vào một kinh thành hoa lệ, phố phường rộn rịp, đèn treo hoa kết như sao sa. Đây một nhóm người đang sơn quét. Kia một nhóm người đang làm đường. Một nhóm khác đang chưng bày bàn trầm hương hoa bái vọng.

“- Đâu cần thì ta có, đâu khó thì ta làm.”

Nghĩ thế, chẳng biết quen hay lạ, chàng hăm hở lao vào giúp mọi người. Việc khó, chàng giúp ý kiến cho trở thành dễ. Việc nặng, chàng giúp ý kiến cho trở thành nhẹ. Chàng hăng hái bắt tay làm với sự thông minh, sáng dạ của mình.

Người ta đưa mắt ngạc nhiên nhìn chàng thanh niên đẹp trai lạ mặt. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn lan xa rồi các vị bô lão đến xin chàng ý kiến về cách thức bài trí phố phường như thế nào để đón tiếp một vị Phật.

- Một vị Phật? Chàng ngạc nhiên hỏi lại.

Một vị trưởng lão cặn kẽ giải thích:

- Phải rồi. Ngài, đầu tiên là một Sa-môn không cửa, không nhà. Sau, Ngài đã giác ngộ chân lý cao cả và huy hoàng của đời sống. Và bây giờ, Ngài đang lê gót khất sĩ khắp vạn nẻo đường để cứu độ chúng sanh.

Trong tâm Trí Lợi chợt hiện ra hình ảnh của vị Sa-môn năm xưa qua lời thuật lại của cha mẹ chàng. Đúng rồi! Chính là Ngài! Vị đạo sĩ tình nguyện sống đời bần hàn xin ăn đó đây với đại nguyên tìm cho ra phương thuốc cứu độ chúng sanh. Vậy thì phải rồi: Tâm lành quả tốt!

Nghĩ thế xong, chàng nói:

- Đối với một vị Phật, bậc Vô Thượng như vậy thì không có hình thức đón tiếp nào cho xứng đáng được cả. Mọi hình thức đều cần thiết, nhưng cái quan trọng hơn là: Tâm lành quả tốt – tâm dẫn đầu, tâm sinh ra mọi nghi lễ, hình thức. Các vị tiền bối hãy như vậy thọ trì.

Chàng chỉ nói thế, không trả lời thêm, dẫu được hỏi. Vị trưởng lão cố vấn nghi lễ và khánh tiết cũng không hiểu bèn cùng nhau cử người đại diện đi vào nội thành.

Tiểu quốc này là Đạt Xa, Quốc vương tên là Bố Đức. Dẫu là nước nhỏ nhưng thạnh mậu và phú cường do nhờ đức liêm khiết, lòng nhân hậu của đức vua cũng như bá tánh. Hôm kia, đức vua nghe tin tại Hy Mã Lạp Sơn đã xuất hiên một vị Phật, một bậc Toàn Giác, một đấng Siêu Nhân. Ngài đã lần lượt hàng phục chúng ma suốt cả mấy trăm tiểu quốc dọc theo thung lũng sông Hằng. Và, hiện giờ, Ngài và Tăng Chúng trên mười ngàn vị đang du hành qua xứ sở này. Hoan hỷ và kỉnh mộ xiết bao, đức vua cho họp triều thần lại, cử người tức tốc dùng khoái mã đến quỳ phục bên chân Đức Thế Tôn thỉnh mời Ngài và Tăng Chúng bi mẫn quang lâm hoá độ Đạt Xa.

Đức Thế Tôn im lặng nhân lời.

Công chúa nước này tên là Đoan Nghi, tán thán việc làm ấy của cha rồi xin phép được góp phần công đức. Nàng đích thân đứng ra tổ chức buổi lễ long trọng này. Tuy thế, tự trong thâm tâm không ai hiểu được cách thức nghinh tiếp một vị Phật ra sao, nên họ chỉ có việc treo đèn kết hoa, sửa sang lại đường sá cùng bày bàn trầm hương bái vọng.

Mọi việc đang diễn tiến êm thắm, ngờ đâu gặp chàng thanh niên đẹp như thiên thần từ đâu hiện ra, nói những lời hàm súc biết bao ý nghĩa?

Sau khi vị trưởng lão cố vấn nghi lễ và khánh tiết trình bày cốt cách, nghi dung, việc làm, sự thông minh lẫn lời nói của chàng thanh niên, Công chúa Đoan Nghi nghe lòng xúc động mạnh. Một niềm tin tưởng lẫn hỷ lạc đến với nàng.

Công chúa phán truyền:

- Xem chừng thanh niên kia là người hiểu đạo lý sâu xa. Hãy làm theo tất cả những gì mà y nói.

Vị trưởng lão tìm gặp Trí Lợi, nói lại lời của Công chúa rồi xin ý kiến.

Chàng hỏi:

- Thực hành tất cả những gì mà tiểu bối nói ư?

Vị trưởng lão gật đầu mạnh mẽ:

- Phải rồi! Không sai được!

Trí Lợi cất tiếng dõng dạc:

- Để đón tiếp một vị Phật, trước tiên là hãy chuẩn bị cái tâm. Cái tâm tức là cái tấm lòng. Hãy làm cho “chính cái tâm”.

Vị trưỡng lão khẽ cau mày:

- Thế nào là “chính cái tấm lòng”?

Trí Lợi nói:

- Chớ giết hại, hận thù. Không được tham lam trộm cướp, tà vạy, bất chánh... mà phải sống giữa mọi người như tình ruột thịt huynh đệ. Điểm thứ nhất đó, hãy thọ trì.

Vị trưởng lão ngẫm nghĩ một hồi:

- Xin cho nghe điều thứ hai?

Trí Lợi nói:

- Cái tấm lòng đã chính rồi thì việc lành sẽ từ cái tâm ấy mà ra. Hãy xuất một trăm ngàn đồng tiền vàng mua vải vóc lương thực chẩn bần cho những kẻ đói rách ở phương đông. Hãy xuất một trăm ngàn đồng tiền vàng mua vải vóc lương thực chẩn bần cho những kẻ đói rách ở phương tây. Cứ như thế... phương nam, phương bắc. Đây là điều thứ hai, hãy như vậy mà thọ trì.

Vị trưởng lão lại gật đầu.

Trí Lợi sang sảng tiếp:

- Còn điều thứ ba, mọi nghi lễ, hình thức thì tuỳ nghi. Có hình thức nào khả dĩ xứng đáng để cung nghinh một vị Phật được? Hơn nữa, một vị Phật, một vị Toàn Giác, một đấng Toàn Thiện chẳng bao giờ muốn chúng ta xa xỉ về của cải, mà hãy dùng của cải sao cho hợp lẽ đạo thì thôi. Hãy làm với tất cả tấm lòng. Hãy làm với tất cả tấm lòng.

Đến ngày, một vị Sa-môn dung sắc thù thắng, dáng đi trầm tĩnh uy nghi như chúa sư tử lông vàng dẫn đầu hơn mười ngàn Tăng Chúng về đến kinh đô. Đấy là Đức Thế Tôn Ca-diếp.

Tin truyền đi rất nhanh. Quốc vương, Hoàng hậu, Công chúa cùng thị nữ hơn ngàn người cả thảy đều đi chân đất từ nội thành bước ra. Các hàng bô lão, quí tộc đã túc trực sẵn, cùng tháp tùng đi cung nghinh Đức Phật và Tăng Chúng.

Trí Lợi trong lúc này đã được Quốc vương và cả triều đình sủng ái giao cho tất cả mọi công việc. Cuộc trai tăng làm phước diễn ra bảy ngày. Đức Thế Tôn Ca-diếp tỏ vẻ tán thán đức vua và triều thần đã làm đúng Chánh pháp; lại khen ngợi cuộc chẩn bần vĩ đại chưa từng có song song trong cuộc lễ. Đức Thế Tôn biết rõ mọi chuyện, Ngài cho gọi Trí Lợi đến nói rằng:

- Bánh xe Chánh pháp của Như Lai rồi sẽ có một cánh tay công đức của con.

Trí Lợi, sau đó, được Quốc vương chọn làm Phò mã. Và chàng trở thành một cận sự nam, một đại thí chủ trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Ca-diếp...

Ý Lợi trở về làm quà cho em với một trăm con lạc đà chất đầy hàng hoá. Nhưng khi đến quê hương thì nương dâu đã biến đổi; nhà cửa ruộng vườn đã qua tay người khác; khắp lối hoang lá rụng tơi bời; người em giờ đã bóng chim tăm cá, biết đâu mà tìm?

Chàng gục khóc trên lối vào nhà cũ. Khi tỉnh dậy, chàng thấp thoáng thấy một bóng vàng đứng ở trước mặt và trên trán có một bàn tay ai âm ấm dịu dàng?

Ý Lợi mê sảng nói:

- Ai đây? Em tôi đâu? Em tôi giờ ở đâu?

Bóng vàng khẽ cất giọng nhỏ nhẹ:

- Ý Lợi thân huynh! Đệ đây! Đệ chính là Tâm Lợi đây!

Câu nói kia có mãnh lực đánh thức Ý Lợi vùng đứng dậy. Chàng đã tỉnh táo hoàn toàn. Đúng là Tâm Lợi, người em út của chàng. Chàng nghẹn ngào nắm tay vị Sa-môn, không cầm được nước mắt.

Khi ấy một chiếc xe tứ mã nạm ngọc dát vàng từ hướng đông chạy đến. Trước sau những kẻ tuỳ tùng hộ vệ uy nghi nghiêm cẩn. Dân chúng lũ lượt kéo ra xem.

Trí Lợi bước xuống, tất tả chạy đến khu vườn năm xưa gọi lớn:

Ý đệ! Tâm đệ!

Cả ba gặp nhau đứng sững lại. Kẻ này nhìn người kia. Kẻ kia nhìn người nọ. Ngơ ngác. Ngỡ ngàng.

Hồi lâu, họ chợt ôm chầm lấy nhau khóc lóc, mừng rỡ.

Sau ba năm, ngày hẹn trở về, Ý Lợi đã là nhà tỷ phú, Trí Lợi đã là một kim thân phò mã. Ai cũng thành công cả. Nhưng riêng Tâm Lợi, giờ chỉ là một Sa-môn khất sĩ nghèo nàn.

Cả ba lần lượt kể chuyện mình.

Đến phiên Tâm Lợi chàng lẳng lặng không nói gì, lâu lắm mới khẽ ôn lại chuyện cũ.

Đọc được thư hai anh, Tâm Lợi khóc mùi mẫn. Khi nước mắt đã vơi, lòng chàng ngổn ngang trăm mối. Tình thương của hai anh đối với chàng thế là cùng rồi.

Trước đây ỷ lại vào cha vào mẹ, sau này ỷ lại vào hai anh, chàng chẳng làm việc gì. Chỉ có chạy nhảy vui đùa với muông cầm điểu thú. Nay bỗng dưng đã mất cha mẹ, lại mất luôn hai anh, chàng đâm ra lúng túng. Chàng đi tới đi lui nghĩ ngợi lan man.

Buổi sáng chàng cho chim ăn, cho thỏ ăn. Buổi chiều chàng thơ thẩn vườn trên lại thơ thẩn vườn dưới. Đêm nằm ngủ, Tâm Lợi bần thần lo lắng đủ mọi bề. Ôn gẫm lại lời dạy của cha mẹ, của hai anh, chàng lẩm bẩm:

“- Tâm lành quả tốt. Cha mẹ ta nhờ bốn chữ đó, hai anh ta cũng thực hành theo bốn chữ đó. Vậy thì ta cũng nương tựa nơi bốn chữ đó mà lập thân thôi.”

Sáng ngày, chàng cho treo lên trước cổng một tấm bảng đề câu:

“- Nơi đây làm tất cả các việc lành, các công đức. Ai cần gì cứ hỏi.”

Không mấy chốc, tiếng lành đồn xa, người ta lần lượt tìm đến. Đầu tiên, người ta xin một bữa cơm, một manh vải. Chàng hoan hỷ cho. Những ngày hôm sau, không những xin cơm xin vải mà người ta còn xin thêm tiền bạc. Chàng hoan hỷ cho. Cứ thế, tuỳ theo nhu cầu của mỗi người, chàng lần lượt bố thí tiền bạc, nhà cửa, điền trang...

Chẳng bao lâu, chàng hoàn toàn khánh kiệt, chỉ còn một manh áo che thân. Thế nhưng lòng hoan hỷ nơi chàng không vì vậy mà thối giảm, chàng tin tưởng mãnh liệt vào bốn chữ “Tâm lành quả tốt”.

Hôm kia, xuất hiện một vị đạo sĩ to lớn, quàng chiếc y sáng rực rỡ như vừng dương, dung sắc trang nghiêm thù thắng; vị đạo sĩ đứng tịch nhiên bất động trước cửa, bình bát trước mặt, nụ cười an nhiên trầm lặng.

- Kính bạch Ngài – Tâm Lợi bước ra cung kính chắp tay thốt. Đệ tử chẳng có gì để bố thí nữa.

Đạo sĩ khẽ nói:

- Chẳng ai là “không còn gì”. Chỉ sợ thí chủ không rộng lượng với kẻ ăn xin này thôi.

Tâm Lợi sững sốt nhìn lại mình thì chợt thấy manh vải cuối cùng; chàng sợ hãi nói:

- Quả thật đệ tử còn một manh áo đang mặc trên thân. Nhưng... như thế thì có bất kính với Ngài chăng?

Vị đạo sĩ cười:

- “Tâm lành quả tốt”. Lòng thí chủ không bất kính thì của bố thí làm sao lại bất kính được?

Câu chuyện của hai người lôi kéo một số đông đến vây kín xung quanh. Khi nghe chuyện đạo sĩ cố ý xin cả manh áo cuối cùng, họ hét lên:

- Đồ bất nhơn. Tu hành mà bất nhơn!

Người lại nói:

- Người ta chỉ còn một cái khố rách mà cũng đến xin. Đồ ác nghiệt!

Người lại than:

- Ôi chao! Vô lẽ rồi y sẽ trần truồng sao?

Người ta định đánh đuổi vị đạo sĩ.

Nhưng chuyện lạ xảy ra.

Khi Tâm Lợi thò tay định cởi áo... thì một tấm áo vàng từ đâu giữa hư không rơi xuống quàng vào người chàng. Râu tóc chàng lại tự động rơi rụng nhẵn nhụi. Tâm Lợi đã biến thành một Sa-môn khất sĩ, y bát đạo mạo trang nghiêm thoát tục.

Vị đạo sĩ tự nãy giờ vẫn an nhiên tự tại đứng bên, bây giờ chợt cao lên mười trượng. Người khẽ nắm tay Tâm Lợi rồi bay lên giữa hư không, theo đường kinh hành bằng ngọc xanh đi về phía chân trời mất hút...

Tâm Lợi vừa kể xong thì Trí Lợi chợt quì xuống, khẽ nói:

Chính Ngài đấy! Vị đạo sĩ nghèo nàn năm xưa đã tế độ cho cha mẹ ta. Ngài giờ là Đức Thế Tôn Ca-diếp.

Ý Lợi khuôn mặt chợt sáng lên một cách kỳ dị, chắp tay giữa hư không:

- “Con xin hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy!” Con xin nguyện được là một cận sự nam, sẽ bỏ cả gia tài tỷ phú này để hộ trì cho Đức Thế Tôn cùng thập phương Tăng Chúng cao cả.

Ngay khi ấy, từ bầu trời phương tây, một Sa-môn hùng vĩ như chúa sư tử lông vàng, hiện ra; tiếng nói như Phạm âm vọng lại:

- Tâm lành quả tốt! Tâm lành quả tốt! Ba đời chư Phật thành tựu đạo quả Vô Thượng, bước đầu cũng chỉ có vậy mà thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8376)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7151)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6073)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6966)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5279)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8482)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22831)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]