Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Hoàng tử Nan-đà

24/10/201202:50(Xem: 8201)
07. Hoàng tử Nan-đà

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Hoàng tử Nan-đà






Nghe tin Đức Phật trở về Ca-tỳ-la-vệ, trái tim của hoàng tử Nan-đà đập lên rộn rã. Đã lâu lắm rồi, người anh tôn quý của chàng, bỏ vương vị ra đi, lang thang lê gót khổ hạnh; nghe đâu bây giờ đã tìm ra con đường vô thượng.

Hoàng tử Nan-đà không bao giờ có thể quên được người anh trai cao cả, uy nghiêm đó. Chàng đã học được nơi con người ấy từ cách đi, dáng đứng, nụ cười. Nhất là sự hiểu biết thâm sâu bao giờ cũng dường như toả ra nơi vầng trán thẳng và mịn. Rồi thể hiện tròn đầy nơi tình thương vô bờ bến lẫn cả đức độ bao la nữa.

Đức Phật đã trở về, và vài ba hôm sau sẽ có lễ thành hôn của chàng cùng công nương Kiều-dạ-lý (Kalyàni)! Ôi ! Thế là niềm vui ở nơi chàng trong sáng và phất phới như mảnh lụa trắng, như nụ cười của thiên thần, như cánh đào mùa xuân phô màu hồng thắm.

Mảnh vương bào chợt tung bay trong ánh nắng ban mai tinh anh hồng ngọc, hoàng tử Nan-đà hối hả thúc con thần mã để báo tin mừng đến vị hôn thê.

- Hỡi con hoàng anh kiều diễm của ta! Chàng đắm đuối nhìn Kiều-dạ-lý rồi nói – Người anh cao cả của chúng ta đã về đến lâu đài của vương phụ. Hãy cùng ta đến thăm người.

- Này chàng! Kiều-dạ-lý nắm tay hoàng tử Nan-đà say sưa nói – Này hỡi con voi chúa với đôi ngà vàng kiêu hùng và mỹ lệ của em! Không nên đến thăm vị sa môn tầm thường ấy. Chẳng có gì tốt đẹp và vinh hạnh cho đôi ta đâu.

Nói xong, Kiều-dạ-lý chớp chớp đôi mắt xanh màu hồ thuỷ, gợn tia lửa nồng nàn như nắng ấm của cung trời. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy lòng mình mềm yếu và ẻo lả như tơ. Chàng chết đuối giữa biển tình của thiên nữ Dạ-ma mất rồi.

Ngày cử hành hôn lễ đã đến. Trong lúc mọi người rộn rịp mang lễ vật đến chúc mừng cho đôi tân giai nhân, thì Đức Phật hiện ra rực rỡ và đẹp đẽ như chúa phượng hoàng, chói ngời hào quang ngũ sắc.

Cả dòng họ Thích Ca vốn kiêu căng, ngã mạn nhưng bây giờ cũng tự động quỳ cả xuống.

Uy nghi như chúa sơn lâm, Đức Phật cất tiếng nói:

- Như Lai cũng đến dự lễ. Như Lai cầu nguyện hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Hoàng tử Nan-đà sững sờ nhìn anh. Nhìn không chớp mắt, tự nghĩ:

- Đây là vị Phật? Ôi cao cả xiết bao! Ở trước ngài, vua núi là đỉnh Hy Mã Lạp Sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp.

Sau khi thọ thực xong, Đức Phật trao bát cho hoàng tử Nan-đà, nói lời phúc chúc rồi đứng dậy ra về.

Hoàng tử Nan-đà kính cẩn ôm bát lặng lẽ đi theo sau, tự nghĩ:

- Đến cửa, Đức Cao Cả sẽ thâu bát lại.

Nhưng không, Đức Thế Tôn vẫn đi thẳng. Vì kính trọng anh, hoàng tử Nan-đà không dám thưa. Cho đến khi rời khỏi cung điện khá xa, Đức Thế Tôn vẫn không hề quay lại. Hoàng tử Nan-đà tự nghĩ:

- Rồi đây, khi nhớ lại, ngài sẽ thâu bát. Ta hãy đưa ngài đến chỗ tạm cư trong vườn Ngự Uyển.

Khi hoàng tử Nan-đà vừa rời khỏi cửa, nàng Kiều-dạ-lý sợ hãi trông theo, linh tính như báo trước cho nàng hay một điềm chẳng lành nào đó về chuyện hạnh phúc lứa đôi. Với hàng lệ ngọc lóng lánh tuôn rơi, với xiêm y tóc tai rối bời, Kiều-dạ-lý phủ phục bên đường, cất tiếng gọi não nùng:

- Hỡi hoàng tử ngọc ngà châu báu của em! Hãy trở lại!

Hoàng tử Nan-đà nghe từng âm thanh quấn quýt, thiết tha, vương vấn đọng lại giữa không gian. Tâm chàng dường như bị bao phủ trọn vẹn trong chiếc lưới của vị thần tình ái; những mũi tên xé gió buốt đau đến tận tâm can.

- Hỡi con voi chúa có đôi ngà vàng của em! Đã đến giờ xây dựng ngôi rừng diễm lệ của đôi ta!

Hoàng tử Nan-đà một chân bước tới, một chân bước lui. Nhưng vị Đại Sa-môn kia, Đức Thế Tôn, người anh cao cả, bậc trưởng thượng đáng kính ấy vẫn như chúa sơn lâm, từng bước, từng bước uy nghi, an nhiên tự tại. Hoàng tử Nan-đà bịt chặt tai lại, cắn răng, hối hả bước theo. Tự nghĩ:

- Cũng không muộn gì. Hãy đưa Đấng Tự Tại đến nơi đến chốn, dâng bát cho ngài, trở về còn kịp giờ cử hành hôn lễ.

Và cứ thế, hoàng tử Nan-đà lủi thủi theo chân Đức Phật đến ngự viên.

Sau khi Đức Thế Tôn rửa chân, ngồi kiết già trên toà sư tử, quay lại nói với hoàng tử Nan-đà – khi ấy vẫn đang lặng lẽ ôm bát đứng hầu một bên.

- Này Nan-đà! Ngươi có muốn sống đời xuất gia với Như Lai không?

Hình ảnh Kiều-dạ-lý kiều diễm lại đến với chàng. Ôi! Vóc ngọc, dáng ngà! Ôi! Đôi mắt biếc, vòng tay mềm và nụ cười như chén rượu say của thần hoan lạc. Nàng đấy! Nàng hiện rõ trong chàng, lả lơi, mời mọc đến ngất lịm cả tâm hồn. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy mình thở hổn hển, trán toát mồ hôi, mệt lả.

Khi trái tim đã hết hồi hộp, hoàng tử Nan-đà trấn tĩnh lại, trước mặt, Đức Phật vẫn an nhiên, trầm lặng, trên môi ngài dường như mãi nở nụ cười bất diệt. Như con beo con đứng trước chúa sơn lâm, hoàng tử Nan-đà chợt quỳ sụp xuống:

- Con... con... ưng thuận đời sống xuất gia!Tỷ-kheo Nan-đà không tìm thấy chút lạc thú nào trong đời sống khước từ. Tinh thần chàng mỗi lúc mỗi mỏi mòn, suy nhược. Hình bóng vị tân nương kiều diễm đã chiếm trọn tâm hồn chàng. Suốt ngày, suốt đêm, vị tân tỷ-kheo kia sống trong cơn mộng trùng trùng của mơ tưởng; bỏ cả ngủ, quên cả ăn, bần thần dã dượi.

Hôm kia dường như không còn chịu đựng nổi nữa, Nan-đà tâm sự với đạo bạn:

- Này chư pháp hữu! Ích gì đời sống xuất gia phạm hạnh này? Tôi bất mãn với nó. Tôi sẽ từ chối phẩm hạnh thanh cao để cam chịu đời sống thấp hèn, làm người cư sĩ.

Đức Phật cho gọi Nan-đà đến hỏi sự thật. Nan-đà thừa nhận sự suy nhược thái quá của mình và tỏ ra lo ngại đến đời sống cô quạnh của Kiều-dạ-lý công nương.

Biết tâm của vị thánh tương lai đang bị lửa ái dục đốt cháy mê loạn, Đức Phật bèn nói:

- Nan-đà! Hãy cùng với Như Lai đi chơi một chút cho khuây khỏa. Ta sẽ đến thăm một cõi trời.

Đức Phật liền dùng oai lực thần thông đưa tỷ-kheo Nan-đà đến cung trời Đẩu Xuất (Tusita).

Trên đường, khi đi qua một khu rừng, Nan-đà để ý thấy một con khỉ cái đã bị mất tai, mũi và đuôi, đang cố bám lấy thân cây cháy trơ trụi giữa đám đất vừa bị thiêu rụi.

Đến cung điện huy hoàng rực rỡ của đệ tứ Thiên Đường, nhạc trời trỗi lên lồng lộng giữa hư không, những cánh hoa mạn đà trải đầy trên lối đi bạch ngọc, óng ánh trân châu và mã não. Một muôn chư thiên lấp lánh ánh sáng, phục sức diễm lệ, kiêu kỳ, phơi phới hiện ra chào đón đấng Thiên Nhơn Sư. Và kìa! Mười muôn thiên nữ sắc đẹp lộng lẫy làm lu mờ nhật nguyệt, đang e thẹn núp sau những đám mây hồng...

Khi đến tòa lâu đài với năm trăm bảo tháp kim cương, hội tụ giữa hư không lóng lánh muôn màu, Nan-đà thấy một chiếc ngai rực rỡ bảy báu, không có chư thiên ngự, năm trăm thiên nữ thân ngọc yêu kiều đứng hầu một bên, bèn rụt rè hỏi:

- Chiếc ngai vô vàn trân trọng kia sao chưa có vị chư thiên diễm phúc nào an ngự, mà lại để trống không như vậy?

Một thiên nữ tủm tỉm cười đáp:

- Chúng thiếp chờ đợi cung nghinh một vị tỷ-kheo đang tu hành trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

Nan-đà thót mình hỏi:

- Vị nào vậy?

- Vị nào tinh tấn tu hành – Thiên nữ cất giọng lảnh lót đáp – nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà!

Rời khỏi tòa lâu đài, quả tim Nan-đà như còn nhảy loạn trong lồng ngực.

Trên đường trở về hạ giới, Đức Thế Tôn hỏi:

- Này Nan-đà! Những thiên nữ tại Thiên đàng thứ tư, nhất là thiên nữ nơi năm trăm ngôi bảo tháp; so với công nương trân quý Kiều-dạ-lý, ai đẹp, mỹ miều hơn?

Nan-đà đỏ mặt ra đến mang tai, cúi đầu đáp:

- Bạch Đức Thế Tôn! So với các vì thiên nữ, dẫu là thiên nữ mạt hạng, thì Kiều-dạ-lý công nương tựa như con khỉ cái bị cháy, đang cố bám lấy thân cây nơi khu rừng nọ!

Đức Thế Tôn nở nụ cười trong tâm nói:

- Vậy này Nan-đà! Hãy tinh tấn, hãy cố gắng! Như Lai bảo đảm rằng nếu Nan-đà kiên trì thực hành giáo lý, thì một ngày kia, Nan-đà cũng đạt được những công nương mỹ lệ như vậy.

Nan-đà như một đứa trẻ được khuyến khích, hớn hở đáp:

- Nếu vậy, đệ tử sẽ lấy làm thỏa thích mà sống đời phạm hạnh cao thượng!

Từ đó, khi ở tịnh đường, khi thì nơi gốc cây, khi thì tại khu rừng vắng, Nan-đà thiền định rất mực tinh tấn. Các vị tỷ-kheo khác biết chuyện, bàn tán với nhau rằng:

- Tỷ-kheo Nan-đà “người làm thuê”. Tỷ-kheo Nan-đà với mục đích phạm hạnh là đạt cho được năm trăm vì thiên nữ và chiếc ngai vàng thất bảo!

Chuyện đến tai, Nan-đà nhận thấy có một cái gì thấp kém, hạ liệt trong mục đích của mình, nên cảm thấy xấu hổ vô cùng.

Đức Thế Tôn biết tâm của vị tân tỷ-kheo, bèn cho gọi đến, rồi nói:

- Này Nan-đà! Hôm nay, hãy cùng với Như Lai đi chơi một miền xa, đến một cảnh giới đau khổ!

Đức Phật dùng oai lực thần thông đưa Nan-đà vào tầng địa ngục. Dịp này vị tân tỷ-kheo được cơ hội chứng kiến tận mắt những hình ảnh hãi hùng. Đây là một cột trụ đồng đỏ lửa hừng hực, các tội nhân trần truồng phải ôm siết để leo lên, bên dưới những con quỷ mặt trâu đầu ngựa cầm những chiếc đinh ba nhọn hoắt đâm suốt qua lưng, da thịt cháy xèo xèo. Nọ là những chiếc cưa, cưa tội nhân ra làm mấy đoạn, gan ruột đổ lòng thòng. Và thôi, nào là bàn chông lửa cháy ngùn ngụt, tội nhân máu me, giãy đành đạch, la hét kêu gào; nào là những cái cối đồng to lớn, đưa lên đưa xuống nhịp nhàng những chiếc chày to, bên trong là những tội nhân xương thịt bầy nhầy... Nan-đà đi đến một lò nấu người. Những chiếc vạc to lửa cháy ngụt trời, bên trong dầu sôi sùng sục. Những con quỷ mặt xanh, mũi đỏ, thò tay quăng tội nhân vào từng chảo một. Nơi chảo khác, dầu cũng đã sôi như sóng cuộn, lại không có tội nhân. Tỷ-kheo Nan-đà hỏi lý do, quỷ đáp:

- Để dành cho một vị tỷ-kheo đang thối thất trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

Nan-đà thót mình lên, hỏi:

- Ai vậy?

- Cho vị nào đắm say sắc dục, tưởng tư ái lạc – Quỷ đáp – Nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà.

Từng chân tơ kẻ tóc đều dựng đứng cả lên, da thịt nổi gai ốc, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Nan-đà quày quả theo Đức Thế Tôn trở lại trần gian mà cả tâm thần còn bủn rủn.

Nan-đà phủ phục bên chân đấng Giác ngộ:

- Bạch Đức Thế Tôn! Xin ngài hãy hủy bỏ lời đảm bảo với đệ tử về chuyện các vị thiên nữ diễm kiều.

Biết tâm vị tân tỷ-kheo này đã đầy đủ hai pháp tàm và quý (hổ thẹn và ghê sợ). Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này Nan-đà! Cho đến chừng nào ngươi không còn bám víu vào những sự vật thế gian! Chừng nào ngươi đã vĩnh viễn viễn ly dục lạc, nội tâm hoàn toàn thanh tịnh như viên ngọc trong suốt không tỳ vết ô nhiễm... thì lúc ấy Như Lai hủy bỏ lời hứa cũng không muộn gì!

Nói thế xong Đức Phật đọc lên bài kệ:

"Đau khổ và khoái lạc

Bùn nhơ đáy mặt hồ

Hương hoa sen tỏa ngát

Cho người diệt si mê

Khoái lạc và đau khổ

Xúc động tâm phàm phu

Người vĩnh ly nhiễm ái

Hoa sen thắm mặt hồ!"

Từ đó tỷ-kheo Nan-đà gạt bỏ mọi tư tưởng xấu xa, kiên trì tu tập, không bao lâu đắc quả A-la-hán.

Sau khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, ngài tri ân sâu xa đến phương pháp giáo huấn thù thắng của Đức Thế Tôn, cảm thán thốt lên bài kệ:

"Giữa ao tù vô tận,

Tâm tôi được vớt lên

Đức Thế Tôn vô thượng

Giúp tôi thoát não phiền."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8376)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7151)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6017)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6966)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5277)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8482)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22831)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]