Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Dũng sĩ ngàn vàng

24/10/201202:50(Xem: 9500)
05. Dũng sĩ ngàn vàng

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Dũng sĩ ngàn vàng






Triều đình đức vua xứ Bá-nhĩ-nam trang hoàng lộng lẫy đẹp đẽ như thiên cung. Hôm nay, đức vua thết đãi các trang dũng sĩ chiến thắng vô địch từ bốn phương tại triều nội.

Giữa buổi tiệc, chợt một trang dũng sĩ to lớn hiên ngang từ cổng chính đi vào. Quân hộ vệ ùa ra chận lại.

Nhà vua nghe tả hữu báo cáo:

- Mười người không chận y lại được!

Vua cả kinh thất sắc.

Lại nghe báo cáo:

- Năm mươi quân cận vệ cũng không chận y lại được!

Vua sửng sốt đứng bật dậy:

- Sao vậy? Các trang dũng sĩ của ta đâu?

Những tiếng rầm rập đồng thanh vang lên. Một ngàn trang dũng sĩ gươm đao nai nịt sáng lòa cùng đứng lên một lượt, khí thế bốc cao chín tầng mây xanh, thần oai lẫm lẫm.

Vua vuốt chòm râu bạc nhìn quanh, vừa dạ, khẽ gật đầu:

-Tốt lắm! Chư khanh hãy bình thân!

Đức vua xứ Bá-nhĩ-nam phất tay rồng rồi mỉm cười nói:

- Chừng này trang dũng sĩ thiên hạ chẳng lẽ lại không hộ vệ được trẫm sao? Vậy thì cứ để cho tên kia vào đây!

Không cần đợi lâu, trang dũng sĩ lạ mặt kia đã hiên ngang đứng trước mặt rồng.

Vua phán hỏi:

- Tên kia! Ngươi là ai? Từ đâu đến?

Dũng sĩ lạ mặt nghiêng thân đáp:

- Tâu đại vương! Hạ thần là dũng sĩ vô địch rừng xanh!

- Ngươi làm nghề gì? Vua phán hỏi tiếp.

- Hạ thần trước đây làm nghề bắt voi, đuổi sư tử, bắn chim đại bàng... Bây giờ thì đã giải nghệ.

Vua chăm chú nhìn dũng sĩ lạ mặt, da ngăm màu đồng trụ, người cao hơn trượng, bèn hỏi:

- Vậy thì tài nghệ như thế nào?

Dũng sĩ lạ mặt ngẩng cao đầu đáp:

- Muôn tâu! Bàn tay của hạ thần đấm vỡ một lúc mấy tảng đá chồng lên nhau. Mũi tên của hạ thần xuyên thủng qua một quả núi nhỏ...

Cả triều thần và một ngàn dũng sĩ thiên hạ cất tiếng cười ồ ra vẻ chê nhạo. Dũng sĩ lạ mặt vẫn đứng nghiêm trang, khuôn mặt không hề đổi sắc.

Đức vua ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Ngươi còn có tài về môn gì nữa?

Giọng dũng sĩ lạ mặt cất lên trầm vang như chuông ngân:

- Muôn tâu! Hạ thần có thể nhảy lên hư không, thò tay bắt gọn lỏn một con chim đang bay! Có thể nhón chân túm con tuấn mã đang phi nước đại. Sông rộng mười trượng, hạ thần bơi qua chưa quá ba sải tay...

Đến đây dũng sĩ lạ mặt lại mỉm cười tiếp:

- Hiện giờ thì hạ thần có học thêm hạnh bố thí, đức kiên nhẫn, chí hy sinh, lòng từ bi và cả sự trung thành nữa!

Đức Vua xứ Bá-nhĩ-nam nhìn ngắm dũng sĩ lạ mặt, nghi ngờ khôn xiết. Một hồi, bèn hỏi:

- Ngươi đến đây có việc gì?

Dũng sĩ lạ mặt nghiêng mình khiêm tốn:

- Muôn tâu, chỉ xin một chân hộ vệ!

Vua xứ Bá-nhĩ-nam cười ha hả:

- Được lắm. Vậy thì trẫm trả cho ngươi một trăm lượng bạc nhé?

Dũng sĩ lạ mặt lắc đầu:

- Quá ít, tâu đại vương!

- Một ngàn lượng bạc nhé?

- Quá ít, tâu đại vương!

Vua lại lên giá nữa:

- Mười lượng vàng nhé!

Mọi người đồng la lên xiết bao kinh ngạc. Mười lượng vàng cho một chân hậu vệ tầm thường quả là thù lao quá hậu hĩ.

Ngờ đâu, dũng sĩ lạ mặt cũng lắc đầu:

- Vẫn ít quá, tâu đại vương!

Đức vua cười to lên:

- Vậy thì ngươi định giá bao nhiêu?

Dũng sĩ lạ mặt chợt cao giọng:

- Mười lượng vàng chỉ xứng đáng công lao của một dũng sĩ bậc trung. Một trăm lượng vàng chỉ mới xứng đáng công lao của một dũng sĩ bậc thượng. Còn đối với hạ thần... thì... một ngàn lượng vàng không thừa, không thiếu!

Vua vỗ bàn, đứng bật dậy:

- Vậy ngươi là dũng sĩ bậc gì?

- Là dũng sĩ vô địch! Muôn tâu!

Cả triều nội chợt im phăng phắc, một con ruồi bay qua cũng nghe được âm thanh. Một ngàn trang dũng sĩ đang dự yến khinh thị nhìn người lạ mặt. Một ngàn lượng vàng cho một chân hộ vệ, trong lúc số vàng ấy có thể làm chi phí cho một muôn binh mã! Như thế y có xấc xược? Có tự đánh giá mình quá cao? Có bất kính và phạm thượng chăng?

Một trang dũng sĩ to lớn uy nghi từ buổi tiệc đứng dậy báo danh, như cố ý thách thức dũng sĩ lạ mặt:

- Đức thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế! Hạ thần là dũng sĩ vô địch phương bắc!

Cùng lúc ấy, như ‘’đồng thanh tương ứng’’, tại ba hướng khác nhau, có những giọng sang sảng nổi lên:

- Muôn tâu! Hạ thần là dũng sĩ vô địch phương đông.

- Muôn tâu bệ hạ! Ngu thần là dũng sĩ vô địch phương tây.

- Tâu hoàng thượng! Kẻ bầy tôi là dũng sĩ vô địch phương nam.

Đức Vua Bá-nhĩ-nam hài lòng nhìn bốn trang dũng sĩ bốn phương, nhỏ giọng hỏi:

- Này chư khanh thân yêu của trẫm! Các khanh có ước nguyện gì?

Cả bốn dũng sĩ đồng thanh đáp:

- Muôn tâu! Muốn thử tài với dũng sĩ vô địch rừng xanh! Kẻ tự xưng giá của mình là Thiên Kim dũng sĩ (Dũng sĩ ngàn vàng).

Đức Vua xứ Bá-nhĩ-nam phất tay rồng chuẩn lời.

Thiên Kim dũng sĩ nói:

- Chẳng cần thế! Tâu đại vương!

Đức vua cười ha hả:

- Ngươi sợ bốn tay đại dũng sĩ của trẫm rồi sao?

Thiên Kim dũng sĩ ngang nhiên đáp:

- Muôn tâu! Sự sợ hãi không bao giờ có trong tâm một dũng sĩ vô địch, dẫu chỉ là thoáng qua. Chẳng cần thế! Nghĩa là chẳng cần bốn vị, mà hãy cùng ra đây một lúc cả ngàn trang dũng sĩ của đức vua. Nếu hạ thần muốn, thì dẫu có sự tấn công các phía của hàng ngàn đao kích cùng ám tiễn, hạ thần vẫn không thối lui nửa bước!

Sau đó cuộc đấu đã xảy ra.

Thiên Kim dũng sĩ đưa cánh tay lên là mấy chục thanh đại đao rơi đổ loảng xoảng. Thiên Kim dũng sĩ huơ tay một cái là nắm trọn mấy trăm mũi tên từ bốn phía bắn ra đồng loạt. Thiên Kim dũng sĩ hét lên một tiếng là cả ngàn người bất tỉnh và mấy tòa cung điện ngói gạch thi nhau rơi đổ. Thiên Kim dũng sĩ dậm chân một cái là mặt đất rung rinh chuyển động như địa chấn!

Một ngàn trang dũng sĩ vất đao, cởi giáp quỳ xuống xin hàng phục.

Mấy ngàn quan quân tại triều nội quăng cả gươm giáo, mũ nón lên trời tung hô rần rần như sấm dội:

- Dũng sĩ vô địch hoan hô! Hoan hô dũng sĩ vô địch!

- Thiên Kim dũng sĩ! Hoan hô!

Đức vua xứ Bá-nhĩ-nam hồ hởi, đẹp dạ, sai chuẩn bị một ngàn lượng vàng rồi cho Thiên Kim dũng sĩ làm chân hộ vệ thân tín đứng canh gác tại tẩm cung (phòng ngủ).

Từ đây đức vua cảm thấy mình được an toàn không còn sợ bất cứ một nguy hiểm nào từ bên ngoài giữa đêm hôm khuya khoắt...

Thời gian trải qua đã lâu, đức vua vì công việc không còn nhớ đến Thiên Kim dũng sĩ nữa.

Đêm kia trời mưa gió bão bùng, lạnh đến đóng băng, đức vua không ngủ được, đi tới đi lui trong tẩm phòng. Qua màn kính lờ mờ, đức vua nhìn loáng thoáng thấy một người đứng bất động uy nghi như tượng đồng, giáo chống thẳng nơi bức tường phía nam. Đến canh hai trời trở rét hơn, đức vua thức dậy nhìn ra bên ngoài, người kia giáo vẫn chống thẳng chẳng đổi oai nghi. Rồi canh ba, rồi đến khi trời sáng, khi tất cả lính hộ vệ trong cung đã lục tục trở dậy, thay phiên chống giáo đứng gác đầy đặc khắp các nơi, người kia mới trở mình, cúi đầu hướng đức vua tung hô vạn tuế; rồi cắp giáo, nhảy ra bức tường phía đông đi mất.

Hôm sau, những hôm sau nữa. Cứ khi đêm vừa buông xuống là có mặt người ấy, dẫu khí trời băng giá thế nào, y vẫn một mực giữ một oai nghi đứng canh đầu đêm cho đến sáng. Đức vua hỏi vọng xuống:

- Tên kia! Ngươi có bổn phận gì mà dám đứng gác cung điện của ta?

- Muôn tâu! Hạ thần là Dũng Sĩ vô địch của đại vương, được đại vương ban cho là Thiên Kim dũng sĩ. Suốt bao nhiêu năm nay hạ thần đã chu toàn nhiệm vụ không dám xao lãng.

Ngay khi ấy, đức vua nghe một tiếng nói từ rừng sâu vọng lại:

- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi có dám ra đây không?

Vua ngạc nhiên hỏi rằng:

- Ngươi có nghe tiếng nói ấy chứ? Của ai vậy?

- Muôn tâu! Đã lâu lắm rồi, cứ vào quãng cuối canh hai là hạ thần đều nghe rõ tiếng nói ấy, nhưng vì hạ thần bổn phận phải canh gác nghiêm ngặt nên chẳng dám rời chân. Nếu đại vương hạ lệnh, hạ thần tức khắc bắt hắn đem về đây ngay.

- Hãy đi! Đức vua phán - Và hãy tìm cho ra lý do rồi về tâu lại cho trẫm hay.

Thiên Kim dũng sĩ lập tức cắp giáo nhảy ra khỏi tường, lao đi vun vút như vệt khói.

Chẳng kể lạnh lẽo, nhà vua hóa trang che kín mặt rồi tức tốc ra khỏi cổng thành, hướng theo bóng người dũng sĩ.

Đến góc rừng, nhà vua thấy tên dũng sĩ đang đứng chống giáo, và nơi gốc cây là một con quỷ La Sát nhe nanh nhọn hoắt. Thiên Kim dũng sĩ trầm giọng nói:

- Thưa ngài! Đã bao lâu nay, cứ đêm đêm là ngài cất tiếng gọi tên ta, chẳng hay có việc gì vậy!

Quỷ La Sát chợt vươn người cao ba trượng, cất giọng như sấm sét:

- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi canh gác cho đức vua đến khi nào thì mãn nhiệm kỳ!

- Đời đời, mãn kiếp - Dũng sĩ đáp - Nếu đức vua nhân đức còn tín nhiệm ta.

Quỷ La Sát chợt cất giọng than dài:

- Chao ôi! Vậy là mối huyết hải thâm cừu của ta làm sao trả được?

- Ngài có mối thù với đức vua ư? Dũng sĩ hỏi.

- Phải - Quỷ La Sát nói - Một mối thù truyền kiếp. Đức vua đã từng giết ta, vợ ta và con ta, đã từng làm cho ta tán gia bại sản, lênh đênh cơ khổ. Đã mấy kiếp rồi, khi làm ma, khi làm quỷ, ta thường đi theo y hầu tìm cơ hội báo cừu. Nhưng trước đây, trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ y có tu nhơn tích đức, xung quanh bao giờ cũng có thiên thần bảo trợ, cho nên ta đành ôm mối hận mà thôi. Mấy năm nay, y xâm lăng các nước, giết người vô số nên đức xưa giờ đã tổn giảm, các thiên thần lần lượt bỏ đi. Nhân cơ hội này ta tìm đến...

Nghiệp của ta chỉ xuất hiện ban đêm. Nhưng hỡi ôi! Hằng đêm... hằng đêm... đêm nào cũng như đêm nấy... mấy trăm đêm... mấy ngàn đêm, ngươi canh gác nghiêm ngặt quá, chẳng có hình bóng nào lọt ra khỏi đôi mắt “cú vọ” của ngươi, suốt trong cả mấy dãy nội thành. Hơn nữa, ngươi là một trang dũng sĩ vô địch, dẫu có tài thiên biến vạn hóa ta cũng không đánh thắng nổi ngươi thì biết làm thế nào?

Nói đến ngang đây, quỷ La Sát đôi hàng nước mắt tuôn rơi lả chả:

- Đành nuốt hận mà thôi sao? Đành nuốt hận mà thôi sao?

Quỷ La Sát hét lên một tiếng xé trời, phun lửa tung tóe:

- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi không phải là mình đồng da sắt, thế tất có lúc ngươi bệnh, ngươi đau chứ? Chắc cũng có khi canh gác mà ngươi lơ là một vài chớp mắt chứ?

Dũng sĩ gật đầu:

- Chắc cũng có lúc như vậy!

Quỷ La Sát cười hô hố:

- Vậy thì những khi ấy... những khi ấy, ta sẽ lao vào như luồng gió, rồi uống máu, an gan, ăn tim và cắt đầu nhà vua.

Nói xong, khoái chí, quỷ La Sát tung bổng lên cao, lao đi. Nhưng một chiếc bóng nháng lên, dũng sĩ đã chận lại:

- Oán thù nên giải không nên kết. Ngài có thể nào bỏ qua mối thù hận ấy không?

- Chẳng thể - Quỷ La Sát hét to - chẳng thể quên được mối thù sâu tựa bể này!

Quỷ như giận dỗi, căm hờn:

- Thiên Kim dũng sĩ! Nếu có kẻ giết vợ con ngươi thì ngươi có tha thứ cho y được không?

Dũng sĩ gật đầu mạnh mẽ:

- Tha thứ được!

Quỷ La Sát gầm to rồi cất tiếng cười rùng rợn:

- Vậy thì hãy đi! Này Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi hãy đem vợ và con ngươi đến đây cho ta ăn thịt, thì ta sẽ giải hóa mối thù với đức vua.

Dũng sĩ đáp:

- Được lắm! Ta đi ngay! Ta tin lời hứa của ngài.

Nói xong, Thiên Kim dũng sĩ về nhà - mà không biết đức vua cũng đang hối hả theo sau - chàng đánh thức vợ con dậy:

- Này vợ hiền yêu quý! Này con trai thân thương! Vị thánh thượng nhân đức của chúng ta có thể nguy hiểm tính mạng bất cứ lúc nào. Nhưng nếu nàng và con đồng ý hiến dâng tính mạng cho quỷ La Sát ăn thịt, thì sẽ giúp thánh thượng giải tan được mối hiểm họa chết người.

Người vợ hiền cùng chàng trai phúc hậu bèn đáp:

- Phải rồi! Đức vua là vị vua nhân đức. Ngài còn sống ngày nào thì muôn dân được sống an vui hạnh phúc ngày ấy. Ngài mất đi, lỡ kẻ kế vị tàn ác, bất nhơn, thì bao người sẽ điêu linh, đồ thán. Hy sinh vài sinh mạng bé nhỏ như vợ, như con vì hạnh phúc cho muôn dân thì nên làm lắm chứ!

Dũng sĩ gạt nước mắt dẫn vợ và con đến bên chân quỷ La Sát, nói:

- Đây là người vợ hiền đôn hậu và đây là người con trai hiếu thảo của ta. Ngài hãy ăn thịt đi, rồi giữ lời hứa hóa giải mối oán thù với đức vua. Cầu nguyện cho tuổi thọ của đức vua trường tồn. Cầu nguyện cho muôn dân được thái bình an lạc. Cầu nguyện cho ngài được hạnh phúc lâu dài về sau.

Quỷ La Sát nghe trái tim mình rung động mạnh. Đã lâu quá rồi chưa bao giờ trái tim quỷ lại rung động như vậy. Quỷ đưa mắt chăm chú nhìn chàng trai nhân đức, tuấn tú, lại đưa mắt nhìn người đàn bà mỹ miều, đức hạnh... Rất lâu. Rất lâu. Chợt y quát to một tiếng, bắn mình lên cao, thò những móng vuốt nhọn hoắt như gươm, nghiêng đầu chộp xuống thật nhanh như luồng sao xẹt...

Dũng sĩ đứng im bất động.

Nhà vua đứng sau gốc cây bưng mặt lại. Một tiếng động kinh khủng nổi lên. Cát đá bay rào rào. Người đàn bà và chàng trai vẫn bình yên vô sự. Trong lúc đó, mười ngón tay của quỷ La Sát đâm ngập xuống đất thành mười cái hố sâu. Quỷ La Sát thở hào hển, rút tay lên, khóc rống rồi quỳ xuống bên chân dũng sĩ:

- Này người dũng sĩ cao cả! Ngươi đã cảm hóa được ta. Cầu nguyện cho ngươi được hạnh phúc!

Quỷ La Sát đứng dậy, thò tay nhấc mấy gốc cổ thụ quăng lên giữa hư không.

- Ta mà còn thù oán với ai, thì đời đời, vĩnh kiếp sẽ như gốc cây này!

Nói xong, quỷ băng băng phóng vào rừng sâu, để lại giữa hư không tràng cười ghê rợn.

Đức vua thấy tận mắt tất cả mọi việc, vội vã về cung, bước lên lâu phòng đứng tựa cửa sổ như không có chuyện gì xảy ra.

Người dũng sĩ đưa vợ con về nhà, trở lại cung điện cúi mình chào vua và tung hô vạn tuế.

Vua hỏi:

- Ngươi đã về rồi ư? Vậy thì đấy là tiếng nói của ai? Hãy kể lại tỉ mỉ cho trẫm nghe.

Thiên Kim dũng sĩ cung kính đáp:

- Muôn tâu! Đấy là một âm oán cũ đến đòi nợ, nhờ ân đức của hoàng thượng, thù xưa đã hóa giải xong. Và giờ y đã đi xa rồi.

“Y trả lời thật là thông minh và khôn khéo” - Nhà vua tự nghĩ; rồi bất chợt lạnh toát cả người: “Y, vợ y, con y đã làm một việc cao cả trong bóng tối, thi ân cho ta, bố đức cho thiên hạ, lại bảo nhờ ơn đức của ta! Vậy ta phải biết làm người nhân đức”.

Xúc động quá, nhà vua bèn nói:

- Hỡi người dũng sĩ ngàn vàng! Hãy nghe lời trẫm đây! Khi ngươi vừa đi khỏi, ta theo sau bén gót. Và ta đã thấy rõ mọi hành động cao cả của ngươi và vợ con ngươi. Đạo đức, trí và tài ấy mà một ngàn lượng vàng để trả công lao thì đâu có đủ được? Ngươi phải là kẻ đứng đầu muôn dân bách tính mới xứng đáng cho.

Thiên Kim dũng sĩ vẫn cúi đầu nghiêm cẩn.

Như nhớ lại chuyện gì, vua lại hỏi:

- Thiên Kim dũng sĩ! Trẫm hơi tò mò. Trẫm đã thấy rõ ngươi sống trong một gia đình nghèo nàn. Một ngàn lượng vàng đâu có phải là nhỏ. Vậy ngươi chi phí vào việc gì?

Thiên Kim dũng sĩ đáp:

- Muôn tâu! Đại vương đã hỏi thì hạ thần xin thưa: hạ thần không hề dùng vào việc gia đình những thù lao nhân đức của hoàng thượng.

Vua ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao thế? Vậy ngươi chi dùng vào việc gì?

- Muôn tâu! Thù lao nhân đức thì chi dùng vào việc nhân đức.

- Trẫm không hiểu!

- Muôn tâu! Năm trăm lượng để cúng dường cho thập phương Sa-môn, đạo sĩ; hai trăm lượng cho kẻ nghèo đói khắp kinh thành; ba trăm lượng để thuốc men vải vóc cho các cơ sở từ thiện.

Đức vua Bá-nhĩ-nam nghe thân mình nổi gai ốc, giây lâu bèn hỏi:

- Vậy thì sự sống của gia đình ngươi, ngươi phải làm sao?

- Muôn tâu! Bằng mồ hôi, sức lực và bằng nghề nghiệp chơn chánh của vợ và con của hạ thần.

Đức vua hỷ lạc dâng lên đầy khắp cả người. Suốt đêm, đức vua nằm ngủ ngon lành rồi ngợp chìm trong một giấc mộng rực rỡ huy hoàng.

Sáng ngày, đức vua cho họp triều thần, kể lại tất cả câu chuyện về chàng dũng sĩ rồi tuyên bố:

- Nãy hỡi các quan đại thần cùng chư khanh mến yêu! Trẫm muốn báo một tin mừng. Hôm nay trẫm sẽ truyền ngôi cho người dũng sĩ vô địch có tâm hồn cao cả này, để tỏ lòng kỉnh mộ và tri ân.

Nói thế xong, đức vua quay qua Thiên Kim dũng sĩ:

- Này khanh yêu quý! Đây là lầu ngọc! Đây là ngai vàng! Đây là các quan đại thần chính trực liêm khiết! Kia là cung phi mỹ nữ hai muôn người đẹp đẽ, đôn hậu! Nọ là giang sơn gấm vóc cùng mấy muôn triệu lương dân ruột thịt mến yêu. Tất cả đó bây giờ là của khanh. Khanh hãy làm cho chúng quang vinh hơn. Khanh hãy làm cho muôn phương đều được tấn hóa trên con đường đạo đức.

Những tiếng vỗ tay và những lời hoan hô reo mừng từ bốn phương như từng đợt hải triều âm rì rào bất tận lan xa đến mấy do tuần.

Thế là, một triều đại chánh pháp huy hoàng như mảnh trăng dịu dàng vừa xuất hiện ở chân trời...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8376)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7151)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6073)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6966)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5279)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8482)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22831)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]