Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Viên ngọc như ý

24/10/201202:50(Xem: 8849)
10. Viên ngọc như ý

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Viên ngọc như ý





Một thời, tiền thân Phật Thích Ca làm Thiên Vương cõi Ba Mươi Ba, thường dùng thiên nhãn xem khắp mọi nơi, hễ ai hữu duyên là biến hóa hiện thân, dùng phương tiện trí để cứu độ.

Cõi Diêm Phù Đề, thành Ba-la-nại lúc bấy giờ, có một vị vua tham lam và bỏn xẻn. Tuy bạc vàng châu báu dẫy đầy cung khố mà nhà vua lúc nào cũng cảm thấy mình thiếu thốn. Quốc độ trù phú và rộng mênh mông mà luôn đưa mắt dòm ngó sang các nước lân cận. Hai muôn cung nga thể nữ phi tần mỹ miều, duyên dáng, ngày đêm túc trực hầu hạ vẫn không thỏa mãn được dục vọng vô độ của nhà vua. Sơn hào, hải vị thay đổi từng bữa, từng ngày, vẫn không đáp nổi khẩu vị của nhà vua...

Hưởng thụ thì như vậy, nhưng chưa bao giờ đức vua ban thưởng cho ai một điều gì, bố thí cho ai một đồng nào. Thật là một kẻ chỉ biết nhận về chứ không biết cho đi!

Dẫu vậy, nhưng y cũng có túc duyên, hóa độ được.

Nghĩ thế xong, đức Đế Thích với thời gian khảy móng tay đã hiện ra trước mắt đức vua trong dáng dấp một thanh niên Chiên-đà-la rách rưới bẩn thỉu.

Vua ngạc nhiên:

- Này, này, gã Chiên-đà-la kia! Đi, đi, đi ra, ta không có xu lẻ, ta không còn cả đồ ăn nguội! Quân đâu? Đuổi nó đi!

Tiếng dạ rân bốn phía

Thanh niên trầm tĩnh:

- Ta không đến để xin, ta đến để cho đức vua đấy chứ!

Nhà vua chỉ nghe được chữ “cho” mà thôi, nên không hề để ý đến cách xưng hô ngang tàng của thanh niên. Đôi mắt sáng rực, vua hối hả:

- Cho ư? Ồ, được! Cái gì ta cũng thiếu. Ngươi cho ta gì nào? Mỹ nữ chăng?

Thanh niên mỉm cười:

- Hơn thế nữa.

- Ồ, châu báu hử?

- Hơn thế nữa.

Nhà vua bèn thay đổi thái độ:

- Vậy thì quân đâu? Mời ngài ngồi, và rót cho ngài một ly nước... lạnh! Ồ, ngài cho gì nào?

Đang sốt sắng, rối tít, niềm nở, bỗng thấy bộ quần áo rách rưới của thanh niên, đức vua vô cùng thất vọng. Sự tức giận nổi lên đùng đùng làm cho đức vua đỏ mặt tía tai:

- Gã Chiên-đà-la láo xược. Người rách nát thế kia, thân tàn ma dại thế nọ, vậy mà bảo cho ta ư? Cho cái gì? – Rồi tròng mắt trợn trắng lên – Chém đầu, quân bay!

Nhà vua thở hổn hển, hai tay run run nắm chặt lại. Thanh niên bỗng cười ha hả:

- Đức vua lầm rồi!

Nhà vua vỗ mạnh lên ngai vàng, đứng bật dậy:

- Lầm, ta mà lầm ư? – Lại vỗ ngực – một đức vua tài trí, giàu sang và hùng mạnh cõi Diêm Phù Đề?

Thanh niên thần sắc vẫn tươi tỉnh, nụ cười dí dỏm vẫn nở trên môi, thò tay kéo mảnh áo rách lên:

- Thánh nhân xưa có dạy rằng: “Viên minh châu nằm trong chiếc áo rách”. Vậy thì đức vua có muốn xem chăng? Ở đây, sẽ có những tấm vàng mịn, rất mịn.

Nghe đến vàng, dẫu chưa biết thực hư, đức vua từ từ ngồi xuống, chăm bẳm nhìn không nói gì.

Một tiếng “roạt” vang lên. Một tấm lá vàng lóe lên chấp chóa. Đức vua chồm tới nom cho thật rõ, thốt lên:

- Đúng, đúng là những tấm vàng mịn, rất mịn.

Lại đưa mắt nhìn, trợn ngược, lại than:

- Ồ! Mà ta chưa bao giờ có được những tấm lá bằng vàng mịn đẹp đẽ dịu dàng đến thế!

Thanh niên từ từ tiếp:

- Chưa hết đâu. Sau những tấm lá bằng vàng mịn còn có những hạt kim cương…

- Kim cương hả? Kim cương à? Đức vua dồn dập trong hơi thở – Kim cương thật chứ?

Thanh niên gật đầu:

- Có bao giờ mà ta lại không nói thật? Đúng là ở đây có trăm ngàn hạt kim cương mà toàn thể châu Diêm Phù Đề chưa có được một.

Đức vua, quần thần vây quanh không nhắm mắt lại được nữa: những hạt kim cương cứ đổ ra từ bên sau tấm áo rách của chàng thanh niên Chiên-đà-la. Những hạt kim cương to lớn dị thường, lóng la lóng lánh muôn hồng nghìn tía nhảy múa đến loạn cả mắt.

Đức vua hối hả chồm tới:

- Còn nữa không? Đổ ra, cứ đổ ra nữa xem. Càng nhiều càng tốt. Hãy cho ta thêm nữa, càng nhiều càng… tốt…!

Đức vua quỳ xuống hả hê ôm cả đống kim cương vào lòng, reo to lên sung sướng:

- Kim cương! Kim cương vạn tuế!

Để cho đức vua chết mệt một hồi, thanh niên cất từng tiếng:

- Bên sau những hạt kim cương, ta lại còn...

Đức vua quay lại nhanh hơn cả loài sóc:

- Gì nữa? Còn gì nữa hả đại nhân? Bậc rộng lượng? Kẻ đức độ? Ôi tấm lòng ngài cao cả xiết bao? Ngài cứ ban cho ta nhiều thêm nữa, vật quý trọng chừng nào thì người cho càng quý trọng chừng đó...

Thanh niên cười thầm trong bụng, nói to:

- Ngọc tỵ thủy!

- Ồ, sung sướng quá! Thứ này có thể rẽ nước mà đi, ta chỉ mới được nghe qua trong những trang sử hoang đường. Ôi! Quý hóa đến vô cùng vô tận. Đâu ngài hãy cho kẻ hèn hạ này xem thử coi?

Một viên ngọc xanh biếc và trong suốt như mắt mèo hiện ra. Vua thò tay chộp lấy, nhảy cẫng lên:

- Ồ, mà ngài cho thiệt hử?

Thanh niên mỉm cười không nói gì. Một viên ngọc rực lửa rơi xuống, chóa lên, tưởng như bốc cháy cả cung điện.

- Cái gì thế? Vua hốt hoảng la lên, đôi mắt chằm chặp nhìn cái vật kỳ lạ.

- Đấy là ngọc tỵ hỏa, vào lửa không cháy, vật trân bảo ấy xin dâng hiến đức vua.

Thanh niên ngưng một lúc, viên ngọc khác rơi ra. Cứ thế, tỵ thổ, tỵ phong... những viên ngọc mà thế gian tưởng như huyền thoại lần lượt trình diện trước những cặp mắt thèm thuồng của mọi người.

Ngọc cứ rơi ra, đức vua cứ chộp lấy. Như ngấu nghiến. Ngộp thở. Vươn miện nghiêng lệch. Long bào xuệch xoạc. Bá quan văn võ chôn chân tại chỗ, lặng như tờ.

Thanh niên đã ngồi chễm chệ trên chiếc ghế da hổ, chân bắt chéo, cất giọng rõ ràng trầm ấm bằng tiếng nói của của chư thiên:

- Những viên ngọc kia thế gian vô giá, tuy thế, ta còn có cái trân quý hơn thế nhiều. Muôn triệu vàng bạc, kim cương, ngọc ngà; kể cả ngàn quốc độ, vương vị… đối với nó dường như cỏ rác.

Một tiếng ồ đồng loạt khởi lên. Rồi đột ngột im lặng. Hàng trăm đôi mắt đứng tròng.

Đức vua không còn tự chủ được, đã đến quỳ bên chân thanh niên tự bao giờ, ngập ngọng, lắp bắp:

- Ta... ta... Hãy... cho... ta...!

- Đây mới chính là vật mà ta định cho đức vua – thanh niên giảng giải – khi có vật này rồi thì muốn mỹ nữ, nó cho mỹ nữ, muốn châu báu nó cho châu báu, muốn quốc độ, vương vị nó cho vương vị, quốc độ... Nghĩa là muốn gì thì có nấy.

Bất giác, đức vua sụp xuống lạy thanh niên, thở không ra hơi:

- Hãy... cho... ta... Ta lạy ngài vạn lạy! Chẳng hay nó la... Nó là...

- Ngọc Như Ý.

Ba tiếng Ngọc Như Ý từ miệng thanh niên rơi xuống giữa cung khuyết như ba nhát búa của thiên lôi gõ xuống đầu mọi người làm cho xây xẩm.

Thanh niên từ từ đứng dậy bước đến long án, khoan thai lấy từ đỉnh đầu ra một viên ngọc trắng tinh tinh. Viên ngọc bắt gặp ánh sáng chợt túa ra muôn đạo hào quang, muôn vạn sắc màu lóng lánh. Như triệu triệu ngôi sao đồng ngời lên một lượt, cung điện bỗng rực rỡ như cung điện của trời Đế Thích. Đức vua và quần thần cảm nghe một sự mát mẻ kỳ lạ thấm nhuần khắp cả châu thân; nó làm cho tâm hồn cảm thấy no đầy, khinh khoái và an lạc.

Viên Ngọc Như Ý đang trước tầm mắt của đức vua. Không chờ đợi được, vua đưa tay chộp lấy.

Bỗng, đức vua “á” lên một tiếng đau đớn, nhăn mặt, thối lui. Viên ngọc vẫn còn nằm kia, sáng rực rỡ trên long án, nhưng bàn tay phải của đức vua máu chảy ròng ròng. Mọi người kinh ngạc không hiểu tại sao? Đôi mắt đức vua vẫn không rời viên ngọc, lại cố gắng bặm môi, cắn chặt răng, thò bàn tay trái ra, chộp mạnh.

Một tiếng la lên đau đớn, như tiếng la của một con thú bị tử thương, đức vua nhìn cả hai bàn tay máu tuôn từng giọt. Trên long án, viên ngọc bất khả xâm phạm vẫn cứ sáng rỡ như khiêu khích.

Thanh niên chợt ồ lên một tiếng:

- Ta quên. Ta quên nói điều quan trọng. Viên Ngọc Như Ý này vốn “kỵ tham!”. Tham lam nhiều, máu chảy nhiều. Tham lam ít máu chảy ít. Hỡi đức vua vô tham cao cả và chí thiện, viên ngọc trân quí không hai này, ta cung kính hiến dâng ngài...

Thanh niên cầm viên ngọc bước tới. Đức vua hốt hoảng thối lui, xua tay lia lịa:

- Ta... ta...

Máu từ hai bàn tay của đức vua không ngớt rỉ ra, đọng thành vũng. Thanh niên nhìn rồi khẽ à một tiếng, than dài:

- Ồ! Đáng tiếc thật là đáng tiếc! Té ra đức vua vì tham lam quá độ nên không có duyên phần làm chủ được viên ngọc vô giá này. Vậy hẳn để ta cho người khác.

Thanh niên quay lại. Bây giờ, bá quan, hoàng tử, công chúa, hoàng hậu, phi tần, cung nga... đã đứng chật cả triều phòng. Đức vua nghe thanh niên nói, sợ Ngọc Như Ý vào tay kẻ khác, hốt hoảng chạy đến, không để ý máu đã vương vãi lấm lem khắp người.

- Nó là phần của ta!

Đức vua hét ngược, sát khí đằng đằng.

Chưa thôi, vua lại còn rút dao ra, dữ tợn như loài thú điên:

- Ai bước tới, ta chặt đầu!

Nhìn cử chỉ, ngôn ngữ và thần sắc quái dị của đức vua, thanh niên chán nản và ngao ngán cho tâm địa con người; nhưng nghĩ rằng cơ hội đã đến, là thời điểm giáo hóa, bèn nói:

- Phải rồi. Là của đức vua. Ta đã hứa. Vậy xin ngài hãy nhận.

Thanh niên trao viên ngọc, đức vua định thò tay, nhưng chợt như vừa tỉnh ngộ:

- Ta... còn tham! Máu... máu sẽ còn chảy nữa...

Thanh niên trầm ngâm rồi trang nghiêm nhìn đức vua:

- Thật tình nhà vua có muốn viên Ngọc Như Ý này chăng?

Vua gật đầu lia lịa:

- Muốn! Muốn vô cùng!

- Nhưng khốn nỗi, Ngọc Như Ý lại kỵ tham, nhà vua cũng biết vậy chứ?

- Biết! Biết vô cùng!

- Vậy, muốn làm chủ Ngọc Như Ý, nắm Ngọc Như Ý mà không đổ máu, cái điều kiện là như thế nào, đức vua có rõ không?

- Rõ! Rõ vô cùng! – Đức vua trả lời như cái máy – Tham lam nhiều, máu chảy nhiều. Tham lam ít, máu chảy ít. Muốn được Ngọc Như Ý thì phải vô tham!

- Hay quá – Thanh niên cười to – Đức vua đã hiểu biết rành rẽ như vậy thì viên Ngọc Như Ý này thế gian ai giành phần được. Hỡi đức vua cao cả và chí thiện, ngài có muốn hết tham không?

Đức vua đôi mắt sáng lên:

- Muốn! Muốn vô cùng!

- Vậy thì hãy thực hành những điều ta chỉ dạy.

Đức vua hối hả trợn mắt, cầm đao đuổi tả hữu chạy ra ngoài...

Bắt đầu từ dạo ấy, người ta thấy đức vua tự nhốt mình trong cung cấm. Tất cả việc triều chính đều giao cho các quan đại thần xử lý. Cung nga, thể nữ không được bén mảng tới nơi. Rõ là đức vua đang tinh tấn thực hành những lời chỉ dạy của thanh niên để hy vọng hôm nào nắm được Ngọc Như Ý.

Đã một lần. Hai lần. Rồi hàng chục lần, thanh niên kỳ dị, bí mật kia trở lại, viên ngọc được đưa ra. Nhưng lạ lùng sao, tay đức vua vừa nắm đến là từ viên ngọc như có những chiếc gai nhô ra, đâm sâu vào tay ngài đau điếng, máu phọt ra có vòi. Dường như càng ngày cường độ gai đâm và máu chảy càng nhiều chứ không giảm bớt. Lửa tham âm ỉ thiêu đốt đêm ngày làm cho đức vua quên ăn, bỏ ngủ; hết kinh hành thì thiền định, hết thiền định thì kinh hành. Sự tinh tấn và nhẫn nại ấy thật khó có người hơn được.

Cho đến hôm kia, thanh niên đến, với Ngọc Như Ý trước mắt, nhưng nhà vua bình thản lạ lùng, nhìn thanh niên một hồi rồi dịu dàng mỉm cười:

- Đây là Ngọc Như Ý ư?

Nói xong đức vua chậm rãi cầm lấy viên ngọc bỏ lên lòng bàn tay, mân mê, ngắm ngía.

Lạ lùng chưa: viên ngọc giờ lại không có gai! Đức vua đã nắm được!

- Đế Thích Thiên Vương – Đức vua mở lời bằng thái độ hoàn toàn tự chủ – Dẫu ngài bỡn cợt ta bấy lâu nay nhưng ta cảm kích ngài lắm, vô vàn cảm kích.

Đức vua giỡn với viên ngọc trong tay, lại nói tiếp:

- Không tu trì, không hiểu được; không lên đường đâu biết lộ trình gần xa? Thật khó mà tưởng tượng được rằng, viên Ngọc Như Ý tối trân quý này, đã làm cho ta khao khát thèm muốn lại không phải là thứ thiệt! Đế Thích Thiên Chủ ơi! Nó không phải là giả nhưng kỳ lạ chưa, chắc chắn nó không phải là thứ thiệt. Thứ thiệt đó... quả là bất khả tư nghì, ta cũng có một viên, ngài có muốn xem không?

Đức vua dứt lời, thanh niên cười ha hả, hiện thành Đế Thích Thiên Vương, to lớn, oai nghiêm với rực rỡ dung sắc, biến mất giữa hư không rồi về thiên giới.

Đức vua nhìn theo, hoan hỷ mỉm cười.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8376)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7151)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6042)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6966)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5277)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8482)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22831)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]