Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Người đàn tín hộ trì tối thượng

24/10/201202:50(Xem: 8946)
11. Người đàn tín hộ trì tối thượng

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Người đàn tín hộ trì tối thượng




Vào một thời quá khứ, Vebhaliṅga là một thị trấn dân cư đông đúc, giàu có và thạnh mậu. Đức Phật Ca-diếp thánh cư tại một tu viện ở đó để giáo hóa chúng Tăng. Ngài có một vị đàn tín đệ nhất là người thợ làm đồ gốm, tên là Ghaṭīkāra. Mặc dầu nhà nghèo, lại sanh thuộc hạ cấp, người thợ gốm Ghaṭīkāra rất được sự tín ái của Thế Tôn Ca-diếp, vì ông ta đã thành tựu được lòng tin bất thối đối với Phật, với Pháp, với Tăng; đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tình dục, bất bình: đắc A-na-hàm quả) và đang sống trong giới hạnh của bậc Thánh. Làm bạn với Ghaṭīkāra là thanh niên Jotipāla, thuộc giai cấp khác, không có lòng tin đối với Tam Bảo. Đã bao nhiêu lần, người thợ gốm Ghaṭīkāra khuyên bạn của mình đến yết kiến Đức Thế Tôn – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, hầu giúp bạn tiến hóa trên con đường Thánh hạnh nhưng thanh niên Jotipāla đều tìm cách từ chối. Thợ gốm Ghaṭīkāra không buồn, không nản; với lòng từ ái và nhẫn nại sâu xa vẫn quyết tâm khuyến hóa thanh niên Jotipāla cho bằng được.

Một lần nọ, sau khi hầu hạ cơm nước cho cha mẹ mù lòa xong, Ghaṭīkāra đến thăm bạn với trang phục bình dị nhưng dung sắc rạng rỡ và tiêu sái được toát ra từ một nội tâm không khi nào là không thanh tịnh lạc trú. Thấy Ghaṭīkāra đến, thanh niên Jotipāla cười cười, nói: - Này bạn! Hôm nay trời đất thật là trong sáng và mỹ diệu, thù thắng, tuyệt vời, không một mảy bụi. Hoa nở rộ, hương thơm ngát; từng con đường cũng trong sáng, mỹ diệu, không một mảy bụi. Thế Tôn Ca-diếp đang thánh ngụ trong một tu viện gần đây, không bao xa, hãy đi đến đảnh lễ Ngài, ta sẽ được phúc lạc tối thượng!

Biết bạn nói chặn trước, Ghaṭīkāra mỉm cười:

- Dòng sông mùa xuân nước cũng trong xanh, cũng mỹ diệu tuyệt vời, không một mảy bụi. Thật là thoải mái cho ta được bơi lội nơi ấy, được thở, được chà xát thân thể bằng bột tắm và đồ gãi lưng. Này bạn! Hãy cầm đồ gãi lưng và bột tắm, ta sẽ đi!

Thanh niên Ghaṭīkāra ngạc nhiên giây lát rồi gật đầu:

- Quí hóa thay, này thiện hữu! Đấy mới thật là đệ nhất tri kỷ, tối thượng tri kỷ của ta vậy.

Nói xong, với sự nhanh nhẹn của loài sóc, loài thỏ rừng, thanh niên Jotipāla lấy đồ gãi lưng và bột tắm rồi cùng đi đến sông với thanh niên Ghaṭīkāra. Người thợ gốm thầm nghĩ: Đến yết kiến Sa-môn trọc đầu ấy để làm gì? Lúc nào y cũng hỏi lại ta như vậy khi ta có lòng từ ái muốn cho y được lợi ích, tấn hóa trong giáo pháp của bậc Thánh. Người thanh niên này – người bạn thân mến của ta, thật là cứng đầu lắm. Rồi ta sẽ dùng biện pháp khác đối với y, không dừng được.”

Nghĩ vậy xong, thợ gốm Ghaṭīkāra cố dẫn thanh niên Jotipāla đi xa hơn chỗ đã định năm đòn gánh... mười đòn gánh...

Với sự khôn ngoan của vua loài chồn, thanh niên Jotipāla cười ha hả:

- Hãy dừng lại ở đây, này bạn thân, này Ghaṭīkāra quí mến! Ở đây cũng có một đoạn sông, nước cũng trong xanh, mỹ diệu, không một mảy bụi; cần gì phải đi xa như vậy, đến gần tu viện của Sa-môn trọc đầu với năm đòn gánh, với mười đòn gánh?

Không biết làm sao hơn, Ghaṭīkāra bèn dừng lại. Sau khi tắm xong, Ghaṭīkāra – người thợ gốm nắm chặt cổ tay của Jotipāla và nói:

- Này bạn! Thật là hy hữu thay khi có một bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Làm thân người đã khó, làm thân người nam khó hơn, làm thân người nam mà đầy đủ các căn lại càng khó, lại sinh nhằm thời với Đấng Pháp Vương Vô Thượng lại càng khó hơn nữa. Hãy đi! Chớ có chần chờ, chớ có trì hoãn. Hãy đến yết kiến Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật là tốt lành, là phúc lành tối thượng cho ta được đảnh lễ Ngài, yết kiến Ngài. Hãy đi! Chớ có lần lữa, chớ có cứng đầu!

Sau một hồi vùng vẫy bằng sức mạnh của mình, thanh niên Jotipāla gỡ thoát tay ra được, cười lớn:

- Thôi mà bạn, vừa rồi, đủ rồi. Đừng có nói nữa. Yết kiến bậc Sa-môn trọc đầu ấy mà làm gì? Có lợi ích gì? Có an lạc gì? Đừng có nói nữa!

Thợ gốm Ghaṭīkāra với sự cương quyết tối thượng, với sức mạnh được tập trung tối thượng; lần này chàng nắm chặt búi tóc của thanh niên Jotipāla bằng cả hai tay của mình:

- Hãy đi! Này bạn Jotipāla! Thế Tôn Ca-diếp ở tu viện gần đây, không có bao xa. Ta sẽ nắm chặt, ta sẽ lôi và kéo ngươi đến yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác. Dẫu tay ta có bị đốt bằng lửa, có bị chặt bằng dao; ngươi cũng đừng nghĩ là ta sẽ thả tay ra. Ta sẽ không bao giờ thả tay ra nếu chưa đạt được ý nguyện.

Nghe lời nói ấy, thanh niên Jotipāla chợt dựng tóc gáy, thần sắc thay đổi; rồi ý nghĩ sau đây lại khởi sanh đến y: “Thật là vi diệu thay! Thật là hy hữu thay! Thợ gốm Ghaṭīkāra tuy sanh thuộc hạ cấp lại dám nắm chặt lấy búi tóc của ta bằng hai tay? Lại hăm dọa là sẽ lôi và kéo; dẫu ta vừa mới gội đầu, dẫu ta sanh thuộc giai cấp quí trọng hơn y? Vậy thì chắc chắn việc này không phải là tầm thường! Lại nữa, y còn nói dẫu bị đốt bằng lửa, bị chặt bằng dao, y cũng không thả ra! Đến yết kiến Sa-môn trọc đầu ấy thì sẽ lợi gì cho y? Ồ! Đây rõ ràng là y có tâm từ ái đối với ta chứ không phải là không có tâm từ ái!”

Nghĩ vậy xong, thanh niên Jotipāla cất giọng dịu dàng:

- Này bạn thân! Ta đã hiểu rồi. Ta đã nghĩ rồi. Có phải đi đến chỗ ấy phải cần thiết có những cử chỉ đặc biệt như nắm chặt cổ tay? Nắm chặt lấy búi tóc bằng cả hai tay mà lôi và kéo?

- Cần thiết lắm chứ – người thợ gốm gật đầu cương quyết - thật sự là cần thiết, nếu bạn không đi! Thật là tốt lành làm sao nếu ta được yết kiến Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!

Thanh niên Jotipāla nhìn thần sắc nghiêm nghị của thợ gốm Ghaṭīkāra, nghĩ thầm: “Chưa một lần nào ta thấy y bỡn cợt với ta. Chưa một lần nào ta thấy y lẫm lẫm uy nghiêm đối với ta như thế. Dẫu ta có sức mạnh của Tượng Vương, dẫu ta có oai hùng như Sơn Lâm Vương, y vẫn lôi và kéo ta như thường, không có thối thất, không có sợ hãi.”

- Vậy thì hãy thả tay ra, này bạn yêu quí – thanh niên Jotipāla thở ra một hơi nhẹ nhàng – chúng ta sẽ đi. Chúng ta sẽ yết kiến Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.

- Lành thay! Này bạn thân! Lành thay! Nhưng mà như vậy đừng nghĩ là ta đã thắng ngươi. Ta là gì mà có thể thắng ngươi được? Sự thắng là do Thế Tôn – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Sự thắng là do sức mạnh của thiện pháp!

Sau đó, thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla cùng đi đến Thế Tôn Ca-diếp. Thợ gốm Ghaṭīkāra cung kính đảnh lễ Ngài, còn thanh niên Jotipāla chỉ nói lên những lời hỏi thăm thân hữu.

Ngồi một bên, thợ gốm Ghaṭīkāra chắp tay trước ngực:

- Bạch Thế Tôn! Đây là thanh niên Jotipāla, bạn của con, bạn thân tình của con. Mong Thế Tôn thuyết pháp cho bạn con.

Rồi Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác với pháp thoại, phấn khích, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla. Cả hai đều tín thọ lời dạy ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn Ca-diếp, thân bên hữu hướng vào Ngài rồi ra về.

Như một người vừa được hóa sanh từ giáo pháp, với lạc và hỷ đầy ắp trong tâm, với tín và trí ngời sáng trong mắt – trên đường về, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:

- Bạn hỡi! Tại sao khi nghe pháp này, một thời pháp chưa từng được nghe, một thời pháp vi diệu, thù thắng, lại có thể không xuất gia? Có thể như vậy được chăng?

Thợ gốm Ghaṭīkāra nắm chặt tay bạn:

- Jotipāla thân ái! Jotipāla thân yêu! Jotipāla kính mến! Phải lắm. Với thời pháp tối thượng hy hữu ấy, ngoại trừ những ai không có tai. Còn ngoài ra, tất phải xuất gia trong giáo pháp nầy của Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.

Lần thứ hai, thanh niên Jotipàla hỏi, lần thứ hai thanh niên Ghaṭīkāra trả lời. Lần thứ ba, thanh niên Jotipàla hỏi như vậy, lần thứ ba thợ gốm Ghaṭīkāra trả lời như vậy.

Thanh niên Jotipàla chợt quay lại nhanh như sự xẹt xuống của một ngôi sao, nắm chặt vào cổ tay thợ gốm Ghaṭīkāra với sức mạnh chưa từng được thấy:

- Thế tại sao bạn không xuất gia? Hay là ta phải nắm chặt cổ tay bạn, nắm chặt búi tóc bạn rồi kéo bằng sức mạnh của trăm con voi to, bằng sức mạnh của ngàn con voi to?

Thợ gốm Ghaṭīkāra chợt phì cười rồi cất giọng dịu dàng, từ ái như tiếng nói của Phạm Thiên:

- Này bạn Jotipāla kính mến! Bạn không biết tôi sao? Tôi còn có cha mẹ già mù lòa cần phải phụng dưỡng.

Thanh niên gật đầu:

- Tôi hiểu. Còn tôi? Tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”

Thế rồi, hôm sau, thanh niên Jotipāla được thợ gốm Ghaṭīkāra dẫn đến Thế Tôn Ca-diếp, xuất gia, thọ Đại giới, sống đời phạm hạnh.

Thanh niên Jotipāla xuất gia chưa được bao lâu, chừng nửa tháng, Thế Tôn Ca-diếp từ thị trấn Vephanninva du hành đến xứ Ba-la-nại, trú tại Isipatana ở vườn Nai. Vua xứ Kāsi tên là Kikī, sau khi được nghe Thế Tôn Ca-diếp đang ngụ tại vườn Nai; liền cho thắng các cỗ xe mỹ diệu, thù thắng; với nghi vệ của bậc Đại vương, ra khỏi thành Ba-la-nại để yết kiến bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Tại chỗ xe không còn đi được, vua xứ Kāsi bèn xuống đi bộ đến chỗ Thế Tôn Ca-diếp đang ngự trú.

Sau một thời pháp vi diệu, làm cho phấn khích, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ vua xứ Kāsi – Thế Tôn im lặng nhận lời mời của vua ấy vào ngày mai sẽ đến dùng cơm với đại chúng tỷ-kheo. Kikī - vua xứ Kāsi từ chỗ ngồi đứng dậy, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Đêm đã mãn, tại trú xứ của mình, vua xứ Kāsi cho bày soạn các món ăn thượng vị loại cứng mềm: Cơm thù thắng, các loại cà-ri thù thắng; các loại bánh bao, bánh hấp, bánh gói thù thắng; các món gia vị thù thắng; các thức ăn phụ tùng béo, ngọt và bùi thù thắng rồi báo thì giờ cho Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác: “Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, trai phạn đã sẵn sàng.” Rồi Thế Tôn Ca-diếp vào buổi sáng, mặc y, đắp đại y ngời sáng như sắc vàng chói của Kim mao Sư vương cầm bát đến trú xứ của vua Kāsi. Đến nơi, Ngài ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn với đại chúng tỷ-kheo. Vua Kāsi đã tự thân kính hầu, làm cho đẹp dạ chúng tỷ-kheo với Thế Tôn là vị cầm đầu bằng những món ăn thù thắng đó. Khi Thế Tôn tay vừa rời khỏi bát, vua xứ Kāsi lấy một chiếc ghế rồi ngồi xuống một bên hiệp chưởng cung kính:

- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con, an cư mùa mưa tại Ba-la-nại, sẽ có sự cúng dường như vậy cho chúng tỷ-kheo.

- Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi, Đại vương. Ta đã nhận lời An cư mùa mưa rồi.

Được thỉnh lần thứ hai, lần thứ ba, Thế Tôn Ca-diếp vẫn trả lời y như cũ. Vua xứ Kāsi tự tâm ưu sầu và phiền muộn với ý nghĩ: “Thế Tôn đã không nhận lời mời của ta đã làm cho ta mất an lạc. Thế Tôn không nhận lời mời của ta đã làm cho ta mất an lạc, chẳng hay, Ngài đã có người hộ trì tối thượng, một đàn tín tối thượng hơn ta? Một bậc Đại vương giàu có, uy quyền và danh tiếng lẫy lừng?”

- Bạch Thế Tôn! Có thể như thế được chăng? Trên quốc độ này, trên trần gian này, Thế Tôn và đại chúng tỷ-kheo lại có một đại thí chủ khác, với công đức hộ trì thù thắng hơn con, Kikī – vua xứ Kāsi?

- Đại vương! Đừng có ưu phiền! Đừng có thất vọng!

Với giọng buồn bã, với một hơi thở dài, vua xứ Kāsi nói:

- Làm sao mà con không ưu phiền và thất vọng cho được, bạch Thế Tôn! Khi con biết rằng Thế Tôn và đại chúng tỷ-kheo đã có người đàn tín mà kim cương và hột xoàn, ngọc ngà và vàng bạc to hơn cung khố của con - Kikī, vua nước Kāsi!

- Không phải vậy, Đại vương. Nhưng ta cũng nói là ta đã có người đàn tín hộ trì tối thượng. Đại vương! Đừng có ưu phiền! Đừng có thất vọng!

- Làm sao mà con không ưu phiền và thất vọng cho được, bạch Thế Tôn! Khi con biết chắc rằng trên trần gian này còn có kẻ ở ngoài uy quyền của con, còn có người mà danh tiếng vượt thoát ra ngoài bổn quốc? Lành thay! Thế Tôn và đại chúng tỷ-kheo đã có người đàn tín hộ trì tối thựợng!

- Không phải vậy, Đại vương! Nhưng ta cũng nói là ta đã có một đàn tín hộ trì tối thượng. Đừng có ưu phiền! Đừng có thất vọng!

Đến đây, Kikī - vua xứ Kāsi ngạc nhiên với đôi mắt mở lớn:

- Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn cho con được nghe!

- Đại vương! Ta sẽ nói.

- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Rồi Thế Tôn Ca-diếp nói như sau:

- Đại vương! Có một thị trấn tên là Vebhaliṅga, tại đấy có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra, rất nghèo, sanh thuộc giai cấp thấp kém, sống trong căn nhà cỏ với cha mẹ mù lòa...

Vua xứ Kāsi cảm thán thốt to lên:

- Thật là hy hữu thay! Thật là hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Có thể như thế được ư? Là đàn tín hộ trì tối thượng?

- Đại vương, phải rồi. Đấy là đàn tín hộ trì tối thượng của ta trong mùa mưa an cư này!

Một ý nghĩ chợt khởi lên trong tâm của nhà vua: “Có nguyên nhân thù thắng chứ không phải không có nguyên nhân thù thắng, Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác mới lặp đi lặp lại mãi như vậy.”

- Bạch Thế Tôn! Con đang kính cẩn lắng nghe với tâm định tĩnh chứ không phải không định tĩnh.

- Đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra dẫu là nghèo nàn, lại sanh thuộc hạ cấp nhưng đã qui y Phật, Pháp, Tăng, đã từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, từ bỏ những đắm say rượu men, rượu nấu... Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, một người như thế có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?

- Bạch Thế Tôn, có thể được!

- Lại nữa, này Đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra dẫu nghèo nàn, dẫu sanh thuộc hạ cấp nhưng đã thành tựu lòng tin đối với Tam Bảo, thành tựu các giới luật của bậc Thánh, không có một nghi ngờ nào đối với khổ, với khổ tập, với khổ diệt, với con đường đưa đến khổ diệt. Này Đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra ăn mỗi ngày một bữa, sống thiện hạnh, theo thiện pháp. Thợ gốm Ghaṭīkāra từ bỏ ngọc và vàng, không nhận vàng và bạc. Với trí tuệ, với lòng dục được đoạn trừ, với thánh hạnh thanh tịnh mạng, vị ấy tự nuôi sống mình bằng nghề thợ gốm. Dẫu là nghề gốm nhưng y không tự tay cuốc và đào; vị ấy lấy đất từ những bờ đê sạt lở, lấy đất từ những chỗ do chuột và cáo đào lên – để nặn lên những chén, bát, chum, vại... cùng những đồ dùng bằng đất khác. Này Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, một thiện nam cư sĩ như vậy có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có thể được.

- Lại nữa! Này Đại vương. Thợ gốm Ghaṭīkāra với những đồ gốm được nắn, nung thiện xảo, có hoa tay, tốt đẹp do mình làm ra; không đổi bằng vàng và bạc, không đổi bằng tiến giấy và tiền kẽm, không đổi bằng tiền đồng và tiền xu. Khi có người đến, vị ấy nói: “Này bà con! Này thiện hữu kính mến! Hãy lấy đi bất cứ vật gì mà mình muốn, mình thích, mình sử dụng được; rồi bỏ vào đây một ít thôi, một trong các loại: một vài nhúm hạt gạo có vỏ, một vài nhúm các hạt đậu, ít củ khoai, vài củ sắn, củ nâu, củ chuối, muối, vừng, hoặc bất cứ thứ gì ăn được mà bà con có sẵn... chớ có mua! Đừng có mua và bán!” Này Đại vương, bằng cách ấy, thợ gốm Ghaṭīkāra sinh sống không có ác mạng, phụng dưỡng cha mẹ mù lòa. Đại vương nghĩ thế nào, có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có thể được.

- Lại nữa! Này Đại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra đã dập tắt năm hạ phần kiết sử, đã hóa sanh vào cõi của bậc Thánh, trọn đời này. Này Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?

- Bạch Thế Tôn! Một phần năm như vậy cũng đã đáng được cung kính, lễ bái, cúng dường, cũng đã xứng đáng được gọi là người đàn tín hộ trì tối thượng.

- Này Đại vương! Một thời, ở thị trấn Vebhaliṅga, với đại y vắt vai, với bình bát cầm tay, ta đi đến căn nhà cỏ của Ghaṭīkāra rồi hỏi vọng vào: “Thợ làm gốm, người đàn tín hộ trì đi đâu?” Bạch Thế Tôn – cha mẹ mù lòa của Ghaṭīkāra trả lời – y đã đi khỏi và có dặn rằng: “Nếu Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có đến đây thì hãy lấy cháo từ nơi nồi, hãy lấy đồ ăn từ nơi chảo mà dùng.” Rồi ta, này Đại vương, sau khi lấy cháo từ nơi nồi, lấy đồ ăn từ nơi chảo; ăn xong, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Trở về, thấy trong bếp đã mất phần cháo và đồ ăn, thợ gồm Ghaṭīkāra bèn hỏi mẹ. “Này con – người mẹ trả lời – Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi lấy cháo và thức ăn ấy, ăn xong, đã đi.” Nghe vậy, thợ gồm Ghaṭīkāra thốt to lên: “Thật là hy hữu thay cho ta! Thật là lợi ích thay cho ta, khi được Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đặt trọn lòng tin tưởng đến ta như vậy!” Rồi này Đại vương, thế là hỷ lạc được phát sanh suốt nửa tháng không rời khỏi trong tâm của người thợ gốm; hỷ lạc được phát sanh suốt một tuần không rời khỏi tâm của cha mẹ mù lòa...

- Thật là tối thượng hy hữu! Thật là hy hữu tối thượng!

- Lại nữa! Này Đại vương, ta trú ở Vebhaliṅga, lúc bấy giờ cốc của ta bị mưa dột, ta gọi các tỷ-kheo: “Hãy đi! Này các tỷ-kheo, hãy đến nhà thợ gốm Ghaṭīkāra xem thử có cỏ hay không?” Một hồi lâu, các tỷ-kheo trở lại đáp: “Bạch Thế Tôn, không có cỏ, nhưng có mái cỏ trên nhà của thợ gốm ấy.” “Hãy đi! Này các tỷ-kheo - ta nói - Hãy đến rút cỏ trên mái của ngôi nhà ấy rồi mang về đây lợp lại cốc cho ta.” Mẹ của thợ gốm thấy vậy, bèn hỏi: “Quí vị là ai mà tự tiện đến đây rút cỏ trên mái của ngôi nhà?” – Này đại tỷ – các tỷ-kheo đáp – ngôi nhà của Thế Tôn Ca-diếp bị mưa dột”. “Vậy thì hãy lấy đi, chư hiền giả! Vậy thì hãy lấy đi, chư hiền giả!” Mẹ của Ghaṭīkāra hối hả nói. Trở về, thấy nhà của mình trống trơn, hứng lấy bầu trời làm mái nhưng không hề có một giọt mưa, giọt nắng nào rơi vào; ngạc nhiên, Ghaṭīkāra hỏi, được cha mẹ trình bày tự sự. Cũng như lần trước, thợ gốm Ghaṭīkāra phát sanh hỷ lạc nửa tháng, cha mẹ Ghaṭīkāra phát sanh hỷ lạc một tuần. Và như vậy, này Đại vương, đó là câu chuyện về người đàn tín hộ trì tối thượng của ta – Ghaṭīkāra thợ gốm nghèo nàn, sanh thuộc hạ cấp ở thị trấn Vebhaliṅga.

Kikī - vua xứ Kāsi nghe xong, hân hoan phát sanh, hỷ lạc phát sanh, thốt lên:

- Thật là lợi ích thay! Thật là hy hữu thay! Thật là thù thắng thay câu chuyện về người đàn tín này, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đặt trọn lòng tin là phải lắm. Bạch Thế Tôn! Trăm phần, ngàn phần công đức của con, sự hộ trì của con - vua xứ Kāsi giàu sang, uy quyền và danh tiếng cũng không bằng được Ghaṭīkāra – người thợ gốm ấy.

Vua xứ Kāsi ngay ngày hôm sau, với khoảng năm trăm xe gạo có vỏ và không vỏ, thực phẩm khô và đồ ăn cho chở đến nhà của người thợ gốm Ghaṭīkāra.

- Này tôn giả, này bậc hiền trí! Hãy thọ nạp tất cả những thực phẩm này để bố thí, cúng dường hoặc làm bất cứ công việc từ thiện nào mà tôn giả nghĩ là phải lẽ. Những thực phẩm này là của đức vua Kāsi, nay là của tôn giả, mong tôn giả nhận cho!

- Nhà vua rất nhiều phận sự, rất nhiều công việc cần phải làm, thật là vừa đủ cho tôi, thật là phải lẽ cho tôi khi được nhà vua nghĩ đến như thế này.

Người thợ gốm Ghaṭīkāra hết tuổi thọ, mệnh chung, hóa sanh vào cõi trời Tịnh cư, cùng với tâm an lạc của bậc Thánh.

Thanh niên Jotipāla – bạn thâm tình của người thợ gốm là tiền thân của Đức Phật Thích-ca vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4673)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4828)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10074)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3608)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4811)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5039)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7500)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4209)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13431)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]