Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Chó rừng cảm hóa đức vua

24/10/201202:50(Xem: 9068)
08. Chó rừng cảm hóa đức vua

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Chó rừng cảm hóa đức vua





Vào một thuở rất lâu xa, Phật Thích Ca với hạnh nguyện Bồ-tát, ngài sinh làm vua chó rừng, cai quản rừng và những khu nghĩa địa mênh mông, luôn đoanh vây bên mình hàng ngàn con chó đủ loại, sống an ổn và thuận hòa với nhau như một quốc độ có nền móng pháp luật vững chắc.

Bậc Đại Chúng Sanh sống tại một cội cây to, lúc nào cũng đầy đủ cận thần và thị vệ, những dũng tướng trung kiên sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ chúa.

Cuộc sống đang yên lành bỗng nhiên tai họa giáng xuống. Hàng chục người, hàng trăm người không biết từ đâu xuất hiện, với mọi thứ vũ khí có được trong tay, họ ra sức giết chó. Lệnh báo động “ăng ẳng” truyền vang từ nghĩa địa này sang nghĩa địa khác.

Bậc Đại Chúng Sanh và đám cận thần cả kinh thất sắc. Viên dũng tướng là một chó vằn to lớn hiên ngang, không đợi lệnh chủ đã vọt đi thi hành nhiệm vụ của mình.

Lát sau chó vằn về tâu lại:

- Chúng là bọn thị vệ, là bọn quân hầu của vua loài người, thưa chúa. Chúng đã tàn sát đánh giết thần dân của chúng ta ở phương đông...

Lời chưa dứt thì từ miệt dưới, hàng trăm con chó tang thương tất tả chạy lên. Con bị què chân, con bị cụt tai, con bị thương nặng với máu me đầy mình. Chúng kêu lên những tiếng thống thiết rồi đứng tràn đầy nghĩa địa mong đợi sự bảo vệ của chúa.

Bậc Đại Chúng Sanh đứng lên, đau xót nhìn đồng loại, đưa đôi mắt buồn rầu nhìn tả hữu như han hỏi lý do.

Một con chó tâu:

- Chúng tôi không ai hiểu lý do! Tai họa từ trên trời đổ xuống cho giống chó nhà ta!

Chó khác hừ một tiếng:

- Trời không có làm hại ai. Chỉ có giống người mới tàn ác như vậy.

Bậc Đại Chúng Sanh phán hỏi:

- Trong các bạn, thời gian trước đây, có ai gặp, thấy, hoặc biết hành tung của bọn người ác độc kia? Thảng hoặc, các bạn đã có ai gây thù chuốc oán gì với họ?

Một cụ chó già nua trong đám chạy nạn, bị thương ở cẳng, lết ra phủ phục nói:

- Thưa chúa, chúa có dạy: gặp giống người thì phải biết “kính mà xa”, vì tâm địa họ tráo trở khó lường. Chúng tôi, thần dân ở phương đông, tìm chút xương thừa nơi nghĩa địa, cơm đổ nơi đường sá, miếu hoang – có bao giờ dám gần họ, đụng chạm đến họ mà sinh thù oán.

Một con chó khác rành rõi trình bày:

- Cách đây hai hôm, bọn kia cùng vua loài người, thị nữ tùy tùng vào chơi nơi khu vườn phía tây thành phố. Chúng ngồi trên hai trăm con ngựa đẹp đẽ giống Sindhu với yên cương da thú láng lẫy. Gần tối họ mới trở về. Đêm đó chẳng biết xảy ra chuyện gì mà sáng hôm sau, rải rác một vài xóm chó ven sông Hằng bị sát hại do đám thị vệ của vua loài người. Một vài thần dân sống sót chạy vào các nghĩa địa nhỏ. Chiều hôm ấy và qua sáng hôm nay, mười ba nghĩa địa gần kinh thành đều bị càn quét. Mấy ngàn chó thiệt mạng, thây chồng núi, xác ngập đường, máu đỏ đất. Và thưa chúa, bây giờ thì chúng đang tảo thanh các nghĩa địa lớn, lại sắp vượt sông.

Ngay khi đám chó đang xôn xao thì mấy trăm đồng loại ướt loi ngoi từ mạn sông lếch thếch chạy lên. Xa một đoạn phía sau, có toán người rầm rộ la hét.

Bậc Đại Chúng Sanh cất tiếng gầm uy dũng, chấn động cả nghĩa địa. Tả hữu bốn dũng sĩ đồng trở oai nghi chồm tới, phóng như bay biến về cuối chân trời, theo chúa.

Chỉ thoáng mắt, bậc Đại Chúng Sanh đã đón chặn đoàn người. Và nói tiếng người:

- Hãy ngừng lại! – Tiếng như sấm dội – các người hãy ngừng lại sự giết chóc dã man ấy! Hãy nói cho chúng tôi biết lý do tại sao các người tàn hại đồng loại chúng tôi?

Toán người kinh dị dừng lại.

Bốn viên dũng tướng như bốn mũi tên cũng vừa lao tới, lông dựng ngược, gầm gừ dữ tợn, phân thành tả hữu hai bên hộ vệ chúa. Toán người chưa hết ngạc nhiên thì không biết từ đâu trùng trùng điệp điệp, lặng lẽ như ma, một đoàn chó khổng lồ lông vằn vện đến bao vây họ ở giữa. Đứng bốn góc như trấn bốn phương là bốn chó cao lớn, phương phi oai hùng như sư tử. Bậc Đại Chúng Sanh mừng rỡ cất tiếng:

- Khá khen cho các bạn đã không quản ngại đường xa đến cứu ứng kịp thời.

Một tiếng hùng dũng tâu:

- Nghe tin muộn, chúng tôi triệu tập đám thần dân tinh nhuệ kề chân núi Hy Mã, cấp tốc ngày đêm lên đường. Thế mà vẫn không kịp. Ngưỡng mong chúa tha tội chết!

Đồng lúc, bốn chú chó rừng như sư tử đến phủ phục dưới chân bậc Đại Chúng Sanh. Vua loài chó lớn tiếng ủy lạo, tỏ lời ban khen nồng hậu. Bốn chó rừng lui ra. Một chốc, vòng vây siết chặt toán người lại với khí thế rần rộ, kinh người.

Tốp tay chân thuộc hạ của đức vua sợ hãi đến xanh mặt. Họ tự nghĩ:

- Loại chó rừng này ở đâu mà có luật lệ quy củ đến thế. Hôm nay, dẫu có chiến thắng, bên ta tất cũng tổn thất nặng nề vì các chiến tướng uy mãnh này.

Khi ấy, bậc Đại Chúng Sanh nói với họ:

- Hỡi giống người hữu phúc và cao sang! Phải chăng đạo đức và công lý đi trước mọi sự? Vậy thì nhân danh đạo đức và công lý, quý vị hãy trình bày lý do cho chúng tôi được tỏ tường. Các người dư thừa sự khôn ngoan, trí xảo cũng như sức mạnh; nhưng nếu cứ tàn hại chúng tôi như thế, chúng tôi cương quyết bảo vệ mạng sống và danh dự chung cho đồng loại, lấy mười đổi một. Các người một trăm người thì chúng tôi hy sinh một ngàn trang dũng sĩ, chắc chắn các người cũng không thể sống sót bình yên mà trở về! Xin giống người đầy đủ lương tri cao cả, hãy lượng xét cho!

Nhìn sắc diện oai nghi của vua loài chó, lời nói tình lý minh bạch, lại thấy lực lượng chó rừng hùng hậu chẳng khác gì thiên binh vạn mã, ai cũng cảm thấy đây chẳng phải là lời nói ngoa.

Người cầm đầu bước ra nói:

- Tất cả là do lệnh của đức vua! Nguyên do như sau: Hai trăm con ngựa giống Sindhu đẹp đẽ của đức vua, với bộ yên cương, dây da bền chắc và tốt đẹp; sau một đêm, đồng loại của các ngươi đã “chén” hết sạch vật trang bị phụ tùng kia. Vua nổi giận ra lệnh giết hết chó trong khắp quốc độ.

Bậc Đại Chúng Sanh cau mặt lại:

- Nếu quả là chúng tôi làm việc ấy thì chúng tôi có tội. Nhưng yên cương, da và dây ấy, đức vua đặt ở đâu?

- Vẫn mắc vào nơi xe, xe để trong nội thành suốt một đêm kia.

Suy nghĩ một lát, bậc Đại Chúng Sanh hỏi:

- Ai là người thấy rõ chúng tôi hay bắt được chúng tôi đang nhai, cắn hoặc đang ăn da và yên ấy?

- Không ai thấy, tên cầm đầu đáp – Nhưng một kẻ hộ vệ bạch với đức vua rằng: “Thưa Thiên Tử, từ miệng cống chui vào, các con chó hoang dã đã “thịt” hết những bộ yên cương bằng da ấy”. Thế là đấng Thiên Tử tức giận đến xám xanh mặt rồng, ra lệnh cho hai ngàn quân cấm vệ tảo thanh giết cho kỳ hết loài chó. Chúng tôi là kẻ thừa hành mà thôi.

Bậc Đại Chúng Sanh than to:

- Ôi! Vua loài người thiệt là ngu si, tàn độc và bất minh. Thôi! Lỗi không tại các ngươi, các ngươi hãy về đi. Ta sẽ đích thân vào cung vua làm cho nội vụ được sáng tỏ.

Khi toán người đã đi hết, bậc Đại Chúng Sanh quay lại đám thuộc hạ:

- Hãy quay trở về mái nhà yên ổn của chúng ta. Chớ có sợ hãi. Ta sẽ đến chốn của vua loài người và phó thác mình cho chánh pháp.

Bọn chó rừng tuân lệnh rút lui có trật tự, bậc Đại Chúng Sanh hướng tâm đến (àvajjitvà) Ba-la-mật rồi phát nguyện rằng:

- Tâm Từ là đệ nhất pháp. Hãy làm cho Tâm Từ được an trú vững mạnh, không có chao động. Tâm Từ cũng là phương thuốc mầu nhiệm cảm hóa kẻ kiêu căng độc ác. Với năng lực Tâm Từ có được trong vô lượng kiếp, ta phát nguyện như vầy: Trên thế gian này không ai có quyền xâm phạm đến ta bằng đao tên hoặc bằng đá gậy. Rồi bằng Từ, Tuệ tạo nên sức mạnh, ta sẽ cảm thắng đức vua để mưu cầu hạnh phúc cho phần đông.

Phát nguyện xong, bậc Đại Chúng Sanh an nhiên một mình đi vào thành. Nhờ Tâm Từ Ba-la-mật bảo trợ, không một ai khởi ác ý với ngài.

Quân canh vừa phát giác, bậc Đại Chúng Sanh đã đi thẳng đến pháp đình (vinicchaye); thấy vua, đảnh lễ vua rồi ngồi nghỉ ở một bên. Quân canh đã vào đến nơi hò hét với đùi gậy, nhưng đức vua ngăn lại vì ngài linh tính một việc lạ lùng tỏa ra nơi con chó rừng uy nghi nọ.

Nhà vua chưa hề thấy bao giờ một con chó rừng với dung sắc chói sáng rực rỡ đến như vậy, nên cứ đưa mắt tò mò ngạc nhiên nhìn mãi. Bậc Đại Chúng Sanh bấy giờ mới tiến lại, chắp tay với cung cách của một vị đại thần:

- Khải tấu bậc nhơn chủ anh minh sáng suốt! Có phải người đã ra lệnh tàn sát hết tất cả loài chó chúng tôi?

Thấy chó nói được tiếng người, đức vua ngạc nhiên quá:

- Phải! Phải!

Bậc Đại Chúng Sanh trang nghiêm chất vấn:

- Lỗi của chúng là gì? Dám thưa bậc Nhơn chủ quý trọng?

Vua đáp như cái máy:

- Chúng nhai, cắn, ăn, nuốt những đồ da phụ tùng lẫn những yên cương quý giá của ta!

- Thưa bậc chúa loài người! Ngài có tận mắt thấy, hay có ai tận mắt thấy con chó hoang, con chó nghĩa địa hoặc con chó rừng nào ăn không?

- Ta không biết và chẳng có ai tận mắt thấy và biết!

Bậc Đại Chúng Sanh cất giọng dõng dạc của một vị quan tòa:

- Hãy nghe đây! Ngài là bậc minh quân của thiên hạ! Là chúa của nhân gian! Là mặt trời của quốc độ! Là cán cân cho bá tánh! Là đại diện cho công lý, cho pháp (dhammo)! Tuy không thấy, không biết (và chẳng ai thấy và biết) những con chó nào là thủ phạm đã ăn yên cương bằng da; mà vẫn ra lệnh tàn sát tất cả chó được thấy trong quốc độ; như vậy có đúng “pháp” không, có hợp lẽ phải không, thưa bậc nhơn chủ chí tôn?

Bị buộc tội một cách đanh thép, hợp pháp và không có kẻ hở; nhà vua đâm ra bực bội, cất giọng oang oang nói:

- Lũ chó đã ăn nên lũ chó phải chết. Đó là lời phán truyền tối cao của ta! Đó là quyền lực của ta, lẽ phải của ta! Ngươi làm được gì nào?

Lời thách thức của kẻ có quyền uy và sức mạnh không phải là điều dám coi thường; bậc Đại Chúng Sanh tự nghĩ:

“- Đức vua đã tức tối, đã giận dữ vì tự ái và kiêu ngạo. Sự sáng suốt đã bị mây che. Ta hãy tìm phương tiện cho đức vua hoan hỷ bằng tư cách nhẫn nhục của ta”. Bèn nói:

- Nếu vì những lời nói ngay thật kia mà xúc phạm đến oai đức thì xin đức vua cho tôi được sám tội!

Bậc Đại Chúng Sanh quỳ xuống, chấp hai chân trước, lạy đúng ba lạy rồi phủ phục dưới chân vua không dám nói một lời nào nữa.

Thấy thái độ ấy, tự ái được vuốt ve, đức vua đẹp dạ nên sự giận dữ đã tiêu tan:

- Ta cho phép ngươi nói hết những điều muốn nói.

Bậc Đại Chúng Sanh lại nghĩ thầm:

“- Bây giờ ta phải bắt đầu lựa lời khôn khéo như trương ra một cái bẫy bằng vàng ròng. Sau đó, ta sẽ không dừng lại. Sức mạnh của pháp là phải cuốn phăng những cái bất chánh. Phải dũng mãnh dùng trí tuệ như lưỡi gươm vô địch đánh bại và bứt tung những tâm niệm bất thiện của đức vua. Phải chuyển hóa y một cách tức khắc.”

- Thưa bậc nhơn chủ! Hai trăm bộ yên cương bằng da quý báu ấy, bọn chó nào đã ăn thì phải bị trừng phạt một cách xứng đáng. Làm như vậy mới chứng tỏ đức vua chính trực và công minh xiết bao!

Nhà vua vuốt râu cười ha hả:

- Cho đến bây giờ ta mới thấy ngươi nói một câu nghe được!

- Thưa thiên tử – Bậc Đại Chúng Sanh nói tiếp – Tôi hơi tò mò vậy chẳng hay tất cả chó đều phải bị đền tội, hay có một số được ngoại trừ?

- Có chứ! Vua đáp – Mấy ngàn con chó săn cao sang thuộc nòi giống tốt, đầy đủ về dung sắc và sức mạnh của ta đều được tha mạng.

Bậc Đại Chúng Sanh vẫn ôn tồn:

- Tâu đại vương! Chỗ này tôi nghe không được rõ ràng; hay có sự nhầm lẫn nào đây? Trước thì ngài bảo ra lệnh giết tất cả loài chó, bây giờ thì ngài bảo ngoại trừ mấy ngàn chó săn thuộc giống dòng cao sang trong cung điện. Sao kỳ lạ như thế? Hay ở bên trong đại vương còn có thâm ý cao xa mà tôi chưa hiểu thấy chăng?

Đức vua lúng túng ngồi thừ ra chưa biết trả lời sao cho ổn.

Bậc Đại Chúng Sanh tự nghĩ:

“- Lao đã phóng ra rồi. Đây là mũi nhọn quyết định cho cuộc tiến công cuối cùng. Nếu đức vua nổi giận thì ta đành hy sinh thân mạng tạm bợ này. Nếu đức vua không giận thì ta sẽ dễ dàng cảm hóa ngài. Và đấy là do nhờ phước báu của phần đông sanh chúng. Ta hãy theo lao.”

Với dòng máu chánh khí sôi trào cuồn cuộn trong lồng ngực, bậc Đại Chúng Sanh cất cao lời như tiếng vọng của chân lý lồng lộng giữa từng không:

- Hỡi đức nhơn chủ tối cao và quý mến! Nếu sự việc đúng là như vậy thì chính ngài đã thực hiện bốn sở hành vô lý (agatigamanam) và bất thiện, đầy đủ dục, nộ và si. Tức là thiên vị, ghét bỏ, kiêu căng và không minh mẫn. Những sở hành như vậy là không thích đáng, không hợp với chánh trí, chẳng phải pháp, không đúng với vương pháp (ra±gadhamo); chính là con đường ngược, lộ trình đau khổ, trầm luân pháp, địa ngục nóng, phi đạo đức! Ôi đức vua nhân từ! Uổng thay! Tiếc thay!

Đức vua đã bắt đầu thấy mình sợ hãi, đã nhìn ra tội. Tay và chân ngài đã lạnh ngắt.

Bậc Đại Chúng Sanh tiếp tục cất giọng lời liêm khiết và vô úy hết mực:

- Kẻ thừa hành công lý, pháp, thì lời nói, việc làm, ý nghĩ thảy đều quân bình. Quân bình như chiếc cân chính xác nhất. Không thể bên thương bên ghét. Không thể dùng uy quyền và sức mạnh để đàn áp kẻ yếu đuối, tàn sát kẻ có tội. Ma pháp, ma lộ, trược pháp, trược hạnh không phải là sự hành trì và con đường của các đấng Chuyển Luân Thánh Vương, đức vua phải sáng suốt để xa rời, buông bỏ ngay tức khắc tất cả mọi lầm lỗi.

Rồi bậc Đại Chúng Sanh đọc lên bài kệ:

“Nếu biết mình thiên vị

Bảo vệ một giống loài

Tàn hại phía yếu đuối

Công lý thực hành sai

Bậc thánh nhân xưa kia

Tâm quân bình tuyệt hảo

Hạnh phúc cho muôn loài

Lại nhân gieo thiện đạo”.

Nhờ duyên lành đầy đủ và năng lực của Pháp, sau bài kệ, tâm đức vua đã được cảm hóa; ngài ôn tồn hỏi:

- Vậy này hiền trí! Thế ngươi có biết ai là thủ phạm đã ăn hai trăm bộ yên cương da ấy không?

- Có biết – Bậc Đại Chúng Sanh đáp – Chính mấy ngàn con chó săn thuộc nòi giống tốt của đức vua!

Vua ngạc nhiên quá:

- Này hiền trí! Hãy nói rõ ràng cho ta nghe!

- Thưa bậc nhơn chủ! Tại nội cung hoàn toàn được bảo vệ này, không thể có chuyện hàng trăm đồng loại chúng tôi chui qua ống cống vào đây được. Một vài con thì có thể. Nhưng một vài con thì làm sao là thủ phạm của hai trăm bộ yên cương da? Chính chó của đức vua làm việc ấy.

Vua gật đầu:

- Có lý! Có lý! Ồ! Những việc tầm thường như vậy sao cả triều đình và ta không ai nghĩ ra. Ồ! Mà rồi sao nữa? Có bao giờ suy luận đúng mà thực tế là sai không hở hiền trí?

- Có thể có điều đó. Nhưng thực tế là đây: Đức vua chỉ việc cho cho người lấy một ít cỏ Dabha nghiền nát hòa với nước sữa, cho những chó ấy uống, nó sẽ mửa ra những miếng da. Những loại da đã thuộc, đánh bóng kỹ lưỡng làm yên cương, vào bụng năm ba ngày vẫn chưa tiêu hóa được.

Nhà vua y lời sai người bắt chó, nghiền cỏ Dabha và nước sữa cho uống. Quả nhiên nó mửa ra những miếng da.

Nhà vua phục quá, tán thán:

- Cao minh thay bậc hiền trí! Sự xử kiện của ngài không thua gì một bậc chuyển luân. Ta rất bằng lòng và lấy làm cảm phục vô cùng.

Đến đây thì đức vua chẳng còn một chút gì để kiêu ngạo nữa, ngài quỳ xuống đảnh lễ bậc Đại Chúng Sanh rồi trang trọng dâng một chiếc lọng trắng, phẩm vật biểu lộ sự tôn kính vô hạn.

Bậc Đại Chúng Sanh thuyết một thời pháp nói về vương đạo, khuyến hóa đức vua rồi cho thọ trì năm giới. Cuối cùng kết thúc bằng lời kệ:

“Dòng dõi Sát-đế-lỵ

Chiến thắng vạn hùng binh

Còn khó hơn thế nữa

Tâm, ý giữ quân bình

Hãy hành trì chánh pháp

Rạng rỡ như vầng dương

Trời người đều an lạc

Tối thượng một con đường.”

Bậc Đại Chúng Sanh trao chiếc lọng trắng lại cho đức vua rồi từ giã. Nhưng đức vua đã thành khẩn lưu lại, lấy lễ quốc sư phụng dưỡng ngài, lại truyền cho muôn dân phải biết tri ân và biệt đãi chó trong nước.

Thiên pháp được tồn tại mười ngàn năm ở xứ này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4676)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4828)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10075)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3614)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4814)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5046)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7502)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4212)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13439)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]