Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thuyền Ngược Bến Không

14/06/201212:06(Xem: 15746)
Thuyền Ngược Bến Không

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

Thuyền Ngược Bến Không

Tuệ Sỹ

Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước

Thả chiếc thuyền con ngược bến không

(Viên Linh, Thủy Mộ Quan)

Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kếtthúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe vàhiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó, lúc nào đó, bao giờcũng hấp dẫn như chuyện cổ tích. Mà hìnhnhư đó lại là những chuyện mà tuổi con nít của tôi được nghe nhiều hơn là chuyệncổ tích. Trong gia đình tôi, thỉnh thoảngthấy vắng đi một người lớn. Rồi lại nghenhững câu chuyện thì thầm. Mấy chú, mấyanh lớn, đã từng ẵm bồng tôi, bỗng chốc họ trở thành nhân vật trong truyện cổtích. Cách mà người lớn kể chuyện, lạilàm cho không khí của chuyện cổ tích ấy càng trở thành huyền bí.

Cho đến khi lai rai đọc được tiếng nướcngoài, chuyện kể về chiến tranh bỗng thành hoài niệm; hay chỉ hình như là hoàiniệm thôi, vì đấy là quá khứ mà mình không thấy, không nghe. Có điều, hoài niệm ấy không làm sao mờ đi được. Vì nó đã trộn lẫn quá khứ với hiện tại. Quá khứ ấy, khi chợt biết, nó đã có quá nhiềumất mát. Vì những người đã đi, chưa thấyai trở lại. Rồi cả những người cùngtrang lứa cũng lần lượt ra đi. Mình thìmay mắn được ở lại. Nhìn quanh, bảng đen,lớp học, sân trường. Sự sống vẫn băng bănglôi người đi tới, với những cạnh tranh vất vả.

Chiến tranh, thù hận, và đâu đó, từ sâuthẳm của khát khao, tình yêu và sự chết là nỗi ám ảnh, và như chất liệu cho ýthức sinh tồn. Có một cõi thi ca riêngbiệt như vậy. Dành cho những tâm hồn nhạycảm. Nhìn con chim giãy chết trong tranhmà ngơ ngẩn, bàng hoàng. Nhưng ngôn ngữcủa nó cũng biến hình. Tình yêu, thất vọng,đam mê, như những con sóng nồng nhiệt trên mặt nước, mà dưới đáy sâu ai biết ẩnchứa những gì.

Nước xa cuồn cuộn ra khơi

Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần

(Dư tập,Thủy Mộ Quan)

Những câu thơ như vậy thật hiếm hoi chomột đời bận rộn. Không bận rộn sao được,khi quanh mình những bạn bè trang lứa lần lượt ra đi. Một số người vượt suối, vô rừng. Đi theo tiếng gọi của hận thù, máu lửa, trongtrái tim đang bốc cháy bởi chủ nghĩa anh hùng. Để lại cho thành phố khúc hát: “Người đã đi, đi trên non cao...” Một sốkhác ra đi, để lại tiếng khóc nghẹn ngào, điên loạn: “Ngày mai đi nhận xác chồng. Say đi để thấy mình không là mình.” Tình yêu,thù hận, bỗng trở thành mâu thuẫn biện chứng.

Mấy chục năm sau, một thế hệ đang lớn,như nắng trưa xích đạo che lu ánh đuốc quá khứ lập lòe của mình; thỉnh thoảngtôi đi tìm lại một vài câu thơ đâu đó, mà cũng không dễ gì tìm được, để chohoài niệm quay lại một thời, trong đó mình đã sống, đã suy nghĩ, ưu phiền, và cảđến những dại dột ngông cuồng của tuổi trẻ. Trong tình trạng mà người cũ lánh xa, vì hiểm nguy rình rập mơ hồ, thìchuyện biển rộng sông dài chỉ có trong tranh, và trong trí nhớ. Lại vẫn điệp khúc hoài niệm bâng quơ.

Tôi không đoán được bạn trẻ yêu thơngày nay, nếu tình cờ đọc được bốn câu thơ dưới đây sẽ gợi lên ấn tượnggì. Nhưng người đã sinh ra và lớn lêntrong chiến tranh, mà tình yêu và thù hận là những xung đột, khắc khoải tronglòng, những câu thơ ấy gợi nhớ một thời, hay đúng hơn là một ấn tượng, có thểthoáng qua chốc lát:

Chiều về trên một nhánh sông

Bên tôi con nước đỏ lòng quanh co

Nước loang dưới đáy trời dò

Buồn tôi thánh thót trên lò nhân sinh

(Một Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy MộQuan)

Đó là một chút hơi thở tàn sinh, nhưbóng nắng là đà trên mặt nước, không có những trầm mặc thăm thẳm trong lòng đạidương. Một nhúm cỏ xanh nhởn nhơ trêncánh đồng khô cháy. Nhưng ai có thể phêbình nhúm cỏ vô tình? Ấn tượng của một người đọc thơ từ trong hủy diệt bạo tàncủa chiến tranh là như thế.

Rồi đất nước hòa bình, dân tộc đang trởmình từ trong khói lửa, để cho hận thù hóa thân thành tình yêu. Và cũng là lúc bắt đầu một thế hệ cầm bút bịkhước từ. Vì đã không thể nhận thức tìnhyêu theo định nghĩa của biện chứng. Trong đó, tình yêu chỉ có thể trưởng thành bằng hận thù và hủy diệt. “Máu của người đem lại tình thương.”

Ngồi trên đỉnh đồi Trại Thủy, giữathành phố Nha Trang, nhìn xuống bên dưới, từ trong làng kéo ra một đoàn thiếunhi Tiểu học, hô vang khẩu hiệu chào mừng cách mạng, đả đảo văn hóa giáo dục phảnđộng, đồi trụy. Tôi biết mình đang bị chốibỏ. Và bị chối bỏ thật. Từ chỗ là thành phần ăn bám, rồi trở thành phầntử nguy hiểm, và được liệt xuống hàng cặn bã xã hội, tạm tha tội chết để đượcân huệ khoan hồng sống hết kiếp sống thừa. Lại một lần nữa, những người cũ của tôi theo nhau lần lượt ra đi. Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mởnước. Những người con theo Mẹ, đã có lúckhinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Mộtthời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốntheo, tìm về biển:

Vua gặp Âu Cơ lúc thủy du

Cùng nàng rung động nước thiên thu

Duyên tan nàng bắt con về núi

Những đứa theo cha khổ đến giờ

(Viên Linh, Thủy Mộ Quan)

Ba chục năm, một nửa theo Cha, một nửatheo Mẹ. Nhưng huyền thoại của nhà thơnày vẫn còn quên một số anh em trở thành côi cút. Cha thì ở đâu không thấy, mà tự thân thì bịruồng rẫy bởi chính anh em mình ngay trên đất Mẹ. Không Cha, cũng không Mẹ, ta đi tìm dấu tíchTrường Sơn, “Quê người trên đỉnh Trường Sơn. Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” (Thơ Tuệ Sỹ).

Tôi không nói đến hận thù. Nhưng một nỗi oan khiên nào đó, khiến cho lờinói của mình như trong cơn mê sảng. Bạncũ ở quanh đây thôi, vẫn gần như những ngày nào, một thời buồn vui. Có lẽ bạn cũ ngại ngùng, ngại nghe những điềuđược giả thiết là tôi sẽ nói. Thật sự,tôi chẳng được phép nói gì cả. Vẫn đượcchỉ định phải đứng bên lề xã hội đang hội nhập văn minh. Còn những bạn khác, hãy gọi là cố nhân, bấygiờ mỗi kẻ một phương trời. Tôi chẳng biếthọ đang làm gì, đang nghĩ gì. Mỗi ngườimột phong cách, trong một thế giới mở rộng, đa văn hóa. Tôi nghe nói như vậy.

Dù ở phương này hay phương kia, dù cóhay không có hai trận tuyến văn chương cùng chung loại hình ngôn ngữ của Mẹ, vẫncòn hàng vạn nắm xương dưới lòng biển:

Lưu vực điêu tàn ở Biển Đông

Xương bầy như thú cháy rừng hoang

Nhưng rừng không cháy nào đâu thú

Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.

(Viên Linh, Thủy Mộ Quan)

Hận thù có thể xóa được dễ dàng thôi,nhưng u uẩn của những hồn oan đáy biển vẫn ám ảnh tâm tư. Người sống vẫn mangmãi ân tình của người đã chết, dù trên rừng hay dưới biển, vì oan nghiệt riêngtư hay vì tình chung dân tộc. XưaNguyễn Du đã làm “Văn tế thập loại chúng sinh”; không chỉ là món nợ văn chươngcho người đã chết, mà đó còn là tình tự thiết tha từ cõi chết vọng về. Tôi đọc bài “Gọi hồn” trong Thủy Mộ Quan cũngvới tâm trạng tương tợ:

Trên Huyết Hải thuyền trồi về một chiếc

Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương

Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt

Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương.

(...)

Trong rêu xanh ngân ngật bóng sơn hà

Lướt hải phận về dưới trời cố quốc.

(...)

Bài thơ không mang tiết nhịp gây cảmxúc bàng hoàng tức khắc, nhưng những ấn tượng rải rác trong cả tập Thủy Mộ Quanlàm cho bài thơ phảng phất nỗi kinh sợ, rùng mình:

Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng

Thân băng ngàn hải lý về sông

Xung quanh không một người than khóc

Chỉ cá trùng dương theo hộ tang.

Dù sao thì đất nước cũng đang hồisinh. Những người ra đi, lần lượt kéonhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫncòn là vết thương nhức nhối. Văn chươngbây giờ vẫn là một lựa chọn, hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một tình tự nghìn đời,dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôimong được như lời Viên Linh nói:

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương

Trăm con cười nói tiếng trăm giòng

Ngày mai nếu trở về quê cũ

Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.

Tuệ Sỹ,

Saigon, đông 2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4786)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6786)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4953)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10212)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3695)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4922)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5125)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7995)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4319)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13623)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]