Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Món quà của vua Ma-kiệt-đà hiến tặng đức Phật

05/09/201103:08(Xem: 5243)
16. Món quà của vua Ma-kiệt-đà hiến tặng đức Phật

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Món quà của vua Ma-kiệt-đà
hiến tặng đức Phật

Kính tri ân trường hạ, chùa Phật Đà, San Diego

Suốt cuộc hành trình trong cõi ta-bà, nhân gian có không biết bao nhiêu cơ hội để tặng quà cho nhau. Tất nhiên, mỗi món quà ở mỗi thời điểm đều có giá trị đẹp đẽ đối với cả người tặng lẫn người nhận. Nhưng đóa hoa tươi rồi cũng tàn, viên kim cương lóng lánh cũng chỉ là vật trang sức trên thân tứ đại vô thường, chẳng chiếu sáng xa hơn lòng tự mãn ảo tưởng.

Nhưng cách nay hơn hai mươi lăm thế kỷ, có một món quà không ngừng được nhắc tới với lòng trân quý. Đó là món quà của vua Tần-Bà-Xa-La, quốc vương xứ Ma-Kiệt-Đà đã hiến tặng Đức Phật khi Đức Thế Tôn và tăng đoàn viếng thăm hoàng gia tại thành Vương Xá, như lời hứa năm xưa.

Với nguyện vọng tìm sự giải thoát cho bao đau khổ của nhân loại, Tất Đạt Đa, vị thái tử con vua Tịnh Phạn, dòng họ Thích Ca đã rời cung vàng điện ngọc, trở thành một vị sa-môn. Người đã tìm tới bao đạo tràng, đã đảnh lễ bao vị đạo sư tuổi cao đức trọng, đã thực tập bao môn phái nhưng không nơi nào thỏa mãn được những thao thức sâu thẳm có thể mang lại sự giác ngộ rốt ráo là vượt thoát sinh tử.

Trên con đường thiên lý đó, một buổi chiều, sa-môn Gotama vượt sông Hằng, tiến vào xứ Ma-Kiệt-Đà vì nghe tin là vương quốc này có nhiều vị cao tăng ẩn sỹ. Chính nơi đây, sa-môn đã gặp bạn tri kỷ là vua Tần-Bà-Xa-La. Một lần, rời hoàng cung thăm dân, nhà vua tình cờ nhìn thấy vị sa-môn phong thái an nhiên đĩnh đạc, đang ôm bát vào thành khất thực. Vua truyền ngừng xa giá và cảm thấy bị khuất phục ngay bởi dáng đi khoan thai, thanh thản nhưng lại cực kỳ nghiêm túc của vị sa-môn trẻ. Nhà vua bèn truyền lệnh đem thức ăn cúng dường rồi theo dõi để biết nơi sa-môn trú ngụ.

Sau đó, vua Tần-Bà-Xa-La đích thân đến gặp sa-môn Gotama tại khu rừng sồi mà sa-môn thường tọa thiền. Tình tri kỷ nẩy nở từ những lần gặp gỡ đó. Nhà vua quý mến vị sa-môn đến mức ngỏ lời mời về hoàng cung, dành riêng một cung điện để sa-môn tĩnh tu, nhưng sa-môn Gotama đã nhẹ nhàng từ chối, chỉ hứa là, nếu tìm ra Đạo Cả, sẽ không quên về thăm hoàng gia.

Lời hứa đó đã được thực hiện.

Dân chúng thành Vương Xá tràn ra đường chiêm bái Đức Phật và tăng đoàn khi các vị khất sỹ khoan thai đi về hướng hoàng cung. Vua Tần-Bà-Xa-La đích thân dẫn hoàng gia ra tận cửa thành nghênh đón.

Sau khi thọ trai tại vườn thượng uyển và được Đức Phật ban pháp về ngũ giới cho hoàng gia và hơn sáu ngàn quan khách của triều đình, vua Tần-Bà-Xa-La đã quỳ trước Đức Thế Tôn, thành tâm kính cẩn ngỏ lời xin cúng dường công viên Trúc Lâm để tăng đoàn làm trụ sở tu học. Đó là một công viên tọa lạc ở phía bắc thành Vương Xá, chỉ cách kinh đô chừng hai dặm. Công viên này rất yên tĩnh, đẹp đẽ và xanh tươi vì rừng tre bát ngát quanh công viên, bên những con suối trong veo, ngọt mát. Nếu được chấp thuận thì nhà vua sẽ cho thợ khởi công xây cất tịnh xá rải rác khắp công viên để tăng đoàn có chỗ nghỉ ngơi.

Đây là một duyên lành vì Đức Thế Tôn cũng vừa nghĩ đến việc ấn định thời gian an cư cho tăng đoàn trong mùa mưa để tránh dẫm đạp các loài côn trùng trồi lên mặt đất trong mùa ấy; đồng thời cũng là thời gian để các tăng lữ thúc liễm thân tâm, trau dồi đạo hạnh.

Món quà của vua xứ Ma-Kiệt-Đà hiến tặng đã được Đức Phật chấp nhận.

Đây cũng chính là địa điểm An Cư Kiết Hạ đầu tiên của tăng đoàn, có hình thức rõ nét cho một lịch trình trải dài suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ.

Quà tặng thiết thực, mang mục đích cao đẹp như thế, làm sao mà địa danh Trúc Lâm không đi vào lịch sử Phật Giáo.

Truyền thống An Cư Kiết Hạ đã trở thành Phật-luật. Trong mùa an cư, thời khóa và nội dung tu học sẽ được các vị trưởng lão đạo cao đức trọng, đồng hội ý biên soạn và toàn chúng sẽ tuân hành nghiêm túc để đạt được sự gạn lọc cấu trần, thanh tịnh thân tâm, trao truyền năng lượng và kinh nghiệm cho nhau để sau thời gian an cư có thêm hành trang vững chãi trên đường tiếp tục hoằng hóa.

Hàng năm, không phải chỉ giới xuất gia nao nức vân tập về các Trường Hạ mà hàng Phật tử tại gia cũng hoan hỷ không kém vì đây là dịp thể hiện sự cúng dường trong tinh thần bình đẳng theo lời Phật dạy. Một củ khoai của người nghèo khó hay trăm lượng bạc của nhà giầu, nếu dâng cúng bằng tâm chí thành như nhau thì có đồng công đức như nhau. Lời dạy từ bi này đã đem đến biết bao an ủi, hạnh phúc cho giai cấp nghèo khó, giúp họ vững tin nhìn lại bản tâm để tìm ra giá trị đích thực của hạt giống Bồ-Đề đã được gieo trong tâm thức mỗi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn. Chỉ khác, bụi vô minh dầy hay mỏng mà thôi.

Làm sao phủi lớp bụi nghiệt ngã này để nhận ra Phật-tánh? Phải từng bước tu tập, từ cạn tới sâu, kiên trì, dõng mãnh và tự tin.

An Cư Kiết Hạ cũng là thời gian tối thắng cho giới xuất gia, được diện kiến đảnh lễ những bậc trưởng-thượng, được nghe lời giáo huấn trực tiếp từ quý ngài, được đồng tu đồng học với các bạn đạo gần xa, được chia xẻ, vun bồi năng lượng, giúp mỗi cá nhân tự kiểm điểm chặng đường đang đi.

Cùng với nắng hè, Trường Hạ đang được khai pháp khắp năm châu bốn biển, bất cứ nơi nào có người biết chắp tay, niệm đôi tiếng đơn sơ: “Nam Mô Phật”, nơi đó, tinh thần An Cư Kiết Hạ sẽ được thể hiện. Ở làng xóm xa xôi thì vị thầy nơi ngôi chùa mái tranh vách lá sẽ giảng pháp; ở thành thị thì các chùa sẽ phối hợp, thỏa thuận một địa điểm để cùng câu hội về. Tùy theo hoàn cảnh địa phương, người con Phật tuân lời Cha dạy, để Trường Hạ nào cũng phảng phất hương-đạo-vị của vườn Trúc Lâm khi xưa.

Riêng chúng tôi, những người Việt tha hương cư ngụ tại miền Nam California Hoa Kỳ, vừa được hưởng tràn đầy ân triêm công đức qua bẩy ngày An Cư Kiết Hạ tại chùa Phật Đà, thành phố San Diego, do TT Thích Nguyên Siêu trụ trì.

So với một vài ngôi chùa ở vùng Orange County thì chùa Phật Đà khá khiêm nhường, nhưng với lòng dũng cảm và niềm tin ở sự nhiệm mầu, TT viện chủ chùa Phật Đà đã đứng ra nhận trách nhiệm tổ chức Trường Hạ năm nay trong thời gian từ 16 tháng 6/2008 tới 22 tháng 6/2008, khi trong tay chưa có đủ tài vật và nhân sự cho một lễ hội mang tầm vóc như thế. Chính tinh thần bi dũng này mà chùa Phật Đà đã lập tức được các chùa trong vùng nhận lời bảo trợ, trong đó phải kể đến Như-Lai thiền tự, chùa Vạn Hạnh, tịnh xá Ngọc Minh và chùa Phổ Quang đã tận tình cùng chung lo trong mọi nhu cầu cần thiết. Khi mọi việc đã thành hình, được thông báo rộng rãi thì sự chia xẻ Phật-sự của các chùa khắp nơi và phát tâm cúng dường của đông đảo Phật-tử xa gần đều quy hướng về Phật Đà, như những con sông nghe tiếng gọi mầu nhiệm đều chảy về biển cả để cùng hòa thành đại dương mênh mông …..

Trường Hạ ở chùa Phật Đà đã mãn, sau lễ Tự Tứ và truyền giới ngày 22 tháng 6/2008 nhưng âm vang trầm hùng của chú Thủ Lăng Nghiêm mỗi công phu sáng, lời nguyện chí thành khi tụng Thủy Sám buổi chiều, hình ảnh rực vàng pháp phục Như-Lai khi lạy Hồng Danh Chư Phật, chư Bồ Tát, không khí thân thương và đạo vị trong những buổi học tập và thảo luận Phật pháp, nghiêm túc và im-lặng-hùng-tráng khi thọ trai Quá Đường, nhẹ nhàng an nhiên khi thiền hành niệm Phật v.v… vẫn ấp ủ tâm tư và theo bước chân từng người, trên đường trở về trú xứ.

Với hơn hai trăm Chư Tôn Đức Tăng Ni của 50 tự viện tham dự, dọc từ Washington State, ngang từ Texas, xa từ Canada … đều một lòng câu hội về chùa Phật Đà giữa tình huống khắc nghiệt và đau thương của Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại bấy lâu nay, đã là câu trả lời hùng hồn, xác quyết rằng, cấu uế thế gian dù dàn dựng tinh vi đến đâu cũng không có chỗ bám vào tâm-thiết-thạch của những ai thực sự là trưởng tử Như Lai.

Ngàn lần tri ân cũng không đủ, đối với Chư Tôn Đại Lão Hòa Thượng, với TT viện chủ chùa Phật Đà, với chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, với tấm lòng hộ pháp của Phật tử muôn phương đã cùng góp công sức để mùa An Cư Kiết Hạ tại Trường Hạ chùa Phật Đà, thành phố San Diego viên mãn thập phần tốt đẹp trong tinh thần “Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất”, một là tất cả, tất cả là một.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

(Trường Hạ chùa Phật Đà, 22 tháng 6/2008)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3774)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3036)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2856)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2706)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3094)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2505)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4081)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3110)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3241)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]