Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Người đưa thư không trở lại

05/09/201103:08(Xem: 3234)
10. Người đưa thư không trở lại

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Người đưa thư không trở lại

Túi vải đã sẵn trên vai, gã nhìn quanh căn phòng tạm trú, với tay, lấy chiếc mũ nỉ trong tủ áo, chụp lên đầu rồi khép cửa, bước ra đường.

Nắng buổi trưa như đổ lửa, nóng hừng hực. Gã đứng ngơ ngác trước ngã tư, mất định hướng, dù gã đã được cho biết nơi gã tạm trú là đường Vĩnh Viễn, đi thẳng, sẽ gặp đường Lê Hồng Phong, rẽ trái không xa sẽ là Ngã Bẩy. Ngôi nhà xưa ở trong một đường hẻm gần đấy.

Những địa danh này từng quá quen thuộc, nhưng sau hơn ba mươi ba năm, gã đang là người khách lạ giữa lòng quê hương. Rừng xe gắn máy đủ loại, ngược xuôi hối hả, luồn lách tài tình quanh những xe tải, xe taxi, khách bộ hành. Người và xe đều thản nhiên chen lấn trên những con đường hẹp.

Gã đứng đó, nhìn xuôi, nhìn ngược một lúc, chợt bật cười khi có cảm tưởng đang lạc vào một hành tinh khác, chứ không chỉ lạc giữa lòng quê hương, vì những người đi xe gắn máy đều đội nón sắt, đeo khẩu trang, trừ hai con mắt, chẳng ai nhìn rõ mặt mũi nhau ra sao! Họ như đoàn người máy bận rộn, lạnh lùng. Lòng gã chợt nao nao bóng hình tà áo lụa Hà-Đông e ấp bay trong gió, tiếng guốc ai khoan thai gõ nhịp trên những hè phố thân quen…

Gã giật mình khi một chiếc Honda, vừa ép sát lề đường, vừa hỏi trống không:

- Đi đâu?

Gã nhìn quanh, không chắc có phải người lái xe hỏi mình.

- Đi không?

Xe vẫn nổ máy, nhưng đã ngừng ngay trước mặt gã. Vậy, chắc là hỏi gã rồi. Gã cũng trả lời trống không, cho cùng một tần số:

- Đi.

- Đi đâu?

- Gò Vấp, đường Lê Quang Định. Có xa không?

Ngôn ngữ như phải xài tằn tiện lắm nên thay vì trả lời, người lái xe đưa cho gã một chiếc nón an toàn. Loay hoay một lúc gã mới đội được chiếc nón sắt vẽ hoa lá đủ mầu sắc lộn xộn, để cùng trở thành “người từ hành tinh khác” như gã vừa nghĩ dăm phút trước đây.

Chiếc Honda lao vào giòng xe cộ đông nghẹt. Đôi lúc, gã nhắm mắt, chờ nghe một tiếng “rầm” vì không thể tưởng tượng có thể quẹo như thế, chạy như thế, tránh như thế mà không va chạm nhau! Ấy vậy mà cũng tới được đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, còn đủ tứ chi!

- Xuống đâu? Khúc nào?

- Ơ ….. chùa Quảng Hương Già Lam ở khúc nào?

- Gần chùa Dược Sư phải không?

Gã đáp bừa:

- Ừ!

May quá, vừa qua chùa Dược Sư chừng hai trăm thước, gã nhìn thấy tấm bảng nhỏ treo trên cột đèn ngoài đầu hẻm: “Tu viện Quảng Hương Già Lam”. Gã rối rít nói:

- Ngừng đây! Ngừng đây đi!

- Không vào tới chùa hả?

- Không, đây được rồi. Bao nhiêu?

- Cho bẩy chục.

Gã móc túi vải, trả tiền, chờ chiếc Honda rồ máy, phóng đi, mới thở một hơi thật sâu, lững thững vào con hẻm nhỏ.

Gã bước chậm lắm. Bước mà như không bước. Gã muốn cởi giầy, đi chân không, để nền đất này tiếp xúc với gan bàn chân, truyền ra từng tế bào, từng mạch máu. Gã nghe tiếng thổn thức không ngừng bên lồng ngực trái, nơi trái tim đang đập lạc nhịp.

Hôm đầu tiên, gã cứ tưởng gã sẽ khóc nức nở hay ít nhất, cũng thầm lặng rung động toàn thân khi máy bay đáp xuống sân bay, nơi hơn ba mươi ba năm trước gã đã hốt hoảng rời quê hương ra đi. Vậy mà lòng gã lạnh tanh! Gã thử cấu mạnh vào cánh tay, xem còn cảm giác không. Còn chứ! Vết cấu trắng bạch vì máu bị chặn, rồi sau đó đỏ bầm! Hay vì chuyến bay khá dài, thần hồn chưa về với thần xác? Cũng không phải nốt, vì gã đã ăn uống, nghỉ ngơi, tắm gội tỉnh táo thoải mái rồi mới bắt đầu “phiêu lưu ký.” Gã đã gặp dăm bạn cũ, đã thử đi trên vài góc phố xưa, nhưng lạ quá, lòng dửng dưng trước người xưa cảnh cũ nên đi như chỉ để mà đi! Đi như kẻ độc hành trên con đường thiên lý mịt mù!

Đêm qua, trở về nhà trọ, gã nằm khóc vì sự mất mát bất ngờ này. Người đã lạ, cảnh đã dời, hay chính gã đã sẵn những chắn song vô hình vạch lằn ranh oan nghiệt??? Có thể tất cả đã trộn lẫn với nhau thành sự hủy hoại vô tình, vốn là bản chất của tự thể vạn hữu!

Nhưng gã còn một sợi nắng để bám víu. Gã vẫn để dành sợi nắng này, như kẻ nghèo khó cẩn thận cất giữ vật quí giá cuối cùng, chỉ dùng khi đứng trước sự sống và cái chết. Bảo vật của gã là ngôi cổ tự mà gã đang tìm đến, một nơi mà trong trí tưởng và trong cả niềm tin, đẹp như tranh vẽ của vua Lý Thái Tôn:

“Hạo hạo Lăng-già nguyệt

Phân phân Bát-nhã liên”

Tạm dịch là:

“Lăng-già ngời trăng tỏ

Bát-nhã ngát hương sen”

Nét tịch-lặng-như-nhiên không thể đến từ vết thương của những mưu toan tuyệt vọng, mà phải từ hạnh nguyện Bồ Tát “Hư không hữu tận. Ngã nguyện vô cùng”, là lời kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, phát nguyện rằng “Hư không còn có thể đến chỗ cùng tận, nhưng tâm nguyện đại bi của ta thì vô cùng vô tận.”

Không thực hiện ý định cởi giầy mà đi được nửa đường hẻm, gã bỗng cảm thấy gan bàn chân co giựt thật nhẹ. Những tế bào li ti đang kể cho nhau nghe cuộc điện đàm ngắn ngủi với một sư-cô, đã hỏi gã hơn một năm trước đây:

- Sư-phụ của em là ai? Có phải vị ẩn-sư trong ngôi cổ tự Già Lam không?

Gã im lặng.

- Có phải em đã về đó để xin Thầy xuống tóc?

Gã im lặng.

- Hay ngoài này có ai đại diện Thầy, xuống tóc cho em?

Gã im lặng.

Gã không có câu trả lời vì tự thể những câu hỏi đó đã thấp thoáng tinh thần Bát-Nhã “có mà không, không mà có.” Ấy thế mà do đâu, những câu hỏi đã thành hình? Có phải giữa bao hữu hình ngộ nhận còn có những vô hình chứng thực sự mầu nhiệm chân-như?

Hôm nay, những câu hỏi mà thực chẳng phải câu hỏi, lại đang xôn xao theo bước chân gã, đi tìm cái vô-hình-vô-hạn trong chật hẹp của cái hữu-hình-hữu-hạn!

Thầy ơi, con đang bước những bước đến rất gần Thầy. Con biết, con đang bước trên đường quê hương, vì quê hương đích thực chỉ có một. Người ta có thể không chấp nhận những dị đồng về chủ thuyết, ý thức hệ, nhân sinh quan …v… v… nhưng làm sao chối bỏ được quê hương, khi những dị đồng đó đều sẽ thành rồi hoại, đến rồi đi. Lịch sử nhân loại có bao giờ ngừng chứng minh sự thăng trầm bất tận này đâu! Thực chất của giòng chảy đó chỉ mong manh như ngọn thu phong làm rụng những lá vàng, mà quê hương là ngút ngàn tuyết sơn thinh lặng, trơ gan cùng tuế nguyệt. Theo biến chuyển của lịch sử, người ta cũng có thể có quê hương thứ hai, thứ ba, thứ tư, nhưng vẫn biết và biết rất rõ, từ mảnh đất nào người ta đã hiện hữu.

Có gì là tội lỗi trước sự thực này không? Con muốn tự chứng nghiệm nên đã về đây. Thời gian hơn một phần tư thế kỷ có thể là quá dài với một đời người, nhưng vẫn là quá ngắn với giòng lịch sử không ngừng đổi thay, hưng phế…

Từng bước chậm, con đang tiến vào ngôi cổ tự, nơi có tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ở sân trước, có cầu thang xi măng bên trái, dẫn lên từng lầu một. Hết những bực thang, bước thêm dăm bước sẽ thấy bên phải là tấm bình phong đan bằng tre đơn sơ, nhìn từ đó có thể thấy rõ hành lang hẹp, treo chiếc võng xanh, mầu đã bạc, gai đã sờn, chiếc nón lá móc gần đấy cũng đã cũ. Trên hành lang nền gạch đá hoa mầu huyết dụ là chiếc bàn nhỏ, có một khay gỗ để dăm cái tách, chiếc bình thủy trắng và một ấm đất nung, để pha trà. Hành lang này chính là “phòng khách” in bao dấu chân khách vãng lai đến rồi đi, chỉ những giỏ phong lan là vẫn còn đó với tháng năm, qua bao mùa mưa nắng. Cảnh trí này từng phổ biến nhiều nơi, từ nhiều năm vẫn chỉ có bấy nhiêu nên tuy đến lần đầu mà con thấy quen thuộc quá!

Dừng lại trước tấm bình phong ngăn ranh giới đó, khách chỉ cần lên tiếng: “Thưa Thầy”, là giây lát thôi, tấm màn trúc trước Thị Ngạn Am lay động, và vị thầy tu “mình hạc sương mai” bước ra.

Như thế đó, ngoài những giờ Thầy miệt mài với dịch kinh, với soạn bài cho các lớp học, thì ai có lòng viếng thăm, xin cứ đến. Cửa ngõ chẳng bao giờ đóng, mâm cao cỗ đầy chẳng bao giờ có để mời, nên ai đến thì cũng như ai; tâm chủ an nhiên tự tại rộng mở, tâm khách ra sao, tự khách biết, vì “Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về” (*)

Cố trấn tĩnh thế nào, gã cũng nghe giọng mình nghẹn ngào khi cất tiếng “Thưa Thầy”. Rồi tấm màn trúc lay động. Thầy bước ra.

Thầy đó.

Vẫn tấm áo nhật bình dài quá đầu gối mà khi xưa, các học tăng Phật học viện Hải Đức trên đồi Trại Thủy đã thầm thì với nhau: “Không ngờ giảng sư trẻ qúa! Mà sao y phục Thầy giản dị thế!” Vẫn nhân dáng đó, phong cách đó, ánh mắt đó, nụ cười đó, trước sau như một, có phải là thể hiện của “Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” mới “viễn ly điên đảo mộng tưởng” như thế?

- Ai đó? Mời vào!

Tuy hỏi nhưng rõ ràng khách là ai, không cần biết. Điều đáng biết là tấm lòng khách đã tới đây thì xin mời vào!

Gã lách qua tấm vách tre, vừa thở chánh niệm, vừa cúi đầu, bước vào.

“Ôi mênh mông một trời Bát Nhã.

Từ bi tâm hiển lộ liên hoa

Mở trang Kinh Ngọc, thơm ba cõi

Đảnh lễ Thầy, sông núi chia xa” (+)

Gã đã quỳ xuống, đảnh lễ Thầy. Lúc ngửng lên, Thầy nhìn gã bằng đôi mắt từ ái, rồi bất ngờ hỏi:

- Diệu Trân, phải không?

Trái tim gã như muốn rớt ra khỏi lồng ngực:

- Dạ, bạch Thầy, con đây ạ.

Chỉ có thế thôi. Cuối cùng thì cũng phải tới lúc gã đi tìm Thầy. Và Thầy đã nhận ra gã. Gã chỉ xúc động chứ không hề ngạc nhiên khi Thầy mỉm cười nhẹ nhàng hỏi, mà thực đã biết.

“Người đưa thư đã không trở lại.” Thầy nói như thế khi gã nhắc tới lá thư nhờ trao tận tay Thầy mấy năm trước đây. Trong thư, gã xin Thầy một pháp danh. Người đưa thư sẽ trở lại nhận hồi âm, nếu lời thỉnh cầu này được chấp thuận. Khi nhận được pháp danh thì từ phương xa, gã sẽ hướng về trời Nam, đảnh lễ Thầy và xuống tóc.

Tâm là họa sỹ, tự sáng tác mọi họa phẩm theo hoài mong và trí tưởng. Tâm gã như thế, nhưng không được hồi âm nên bức họa dở dang. May thay, những nghịch duyên đời-thường lại là thuận duyên để gã quyết tâm đi tiếp cho bức họa hoàn thành, dù lời thỉnh cầu năm xưa không một âm vang vọng lại!

Thầy nhìn gã, ánh mắt vừa hoan hỷ, vừa xót thương rồi lẳng lặng đứng lên, khuất sau màn trúc. Một lát, Thầy trở ra, ngồi xuống chỗ cũ. Vẫn ánh mắt vừa hoan hỷ, vừa xót thương, Thầy trao cho gã một tờ mộc bản. Trên nền giấy đã úa vàng, những nét chữ Hán vẫn bay bướm, vẫn thong dong. Gã đưa hai tay nhận, chăm chú nhìn. Thầy chỉ vào hai chữ chính giữa và hỏi:

- Biết chữ gì đây không?

Gã ấp úng:

- Dạ … chữ …

- Hạnh Chi.

Gã mừng rỡ vì đã ngờ ngợ nhận ra chữ “Chi”. Gã thưa:

- Bạch Thầy, phải chữ “Chi” ở đây là “cành”, như “Nhất chi Mai” là “Một cành Mai” không ạ?

- Phải, “Chi” này là “cành” chứ không phải “Tri” là “biết”, và “Hạnh” đây không phải “hạnh kiểm” mà là “cái Hạnh, nét đẹp của trí tuệ”. Tôi đã viết hai chữ này ngay khi nhận thư. Nhưng người đưa thư không thấy trở lại. Tôi vẫn giữ đây.

Gã nhìn trân trối tờ giấy mỏng, lay động vì những nét chữ trên đó đang cùng nhảy múa theo một cung bực trầm bổng mơ hồ nào, mà hát ra lời giải tỏa nỗi mong chờ đằng đẵng bao năm: “Người đưa thư đã không trở lại. Người đưa thư đã không trở lại. Ơi …Ớ … Ơi. Người đưa thư đã không trở lại Ơi Ớ Ời …Ơi …Ớ … Ời …”

Không kềm lòng nổi, gã đã nấc lên “Trời ơi!”

Phong linh treo trên những giò lan chợt lao xao trong gió. Âm thanh quyện với hương trà Thầy tự tay pha, đãi trò, khiến gã rưng rưng khi nâng tách. Không còn thấy ranh giới nào của quá khứ, hiện tại, vị lai, chỉ là sự kỳ diệu của vô thỉ vô chung, không nơi bắt đầu, không chỗ kết thúc.

Tách trà nằm yên mãi trên tay.

Thầy lặng thinh, như đang nghe hương lan thẩm thấu trong hương trà.

Phút giây, gã vụng về để những giọt nước mắt thổn thức rơi xuống tách. Những giọt nước mắt muộn màng, lặng lẽ hóa thân thành những câu thơ tưởng đã chôn vùi sau lớp bụi thời gian:

“Hỡi ơi! Một buổi hoa râm
Trời chưa nắng dại, tóc dầm sương khuya
Nụ cười, rồi một chuyến đi
Còn e năm tháng đã về trước ta
Môi in nửa bóng trăng tà!” (*)

(Cốc Thảnh Thơi – Mùa Trăng, 2008)

(*) Thơ Thầy Tuệ Sỹ
(+) Thơ DT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 2200)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 2368)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
05/10/2010(Xem: 1971)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
05/10/2010(Xem: 2605)
Kiều bào hơn 30 quốc gia trên thế giới đã về Thủ đô nhân mùa lễ hội kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà nội. Ngày 30/9, tất cả đã có mặt, và được đón về khách sạn Kim Liên. Ngày mồng 1 và mồng 2 tháng 10, tất cả các đoàn Kiều bào được tập dợt tại đường Bắc Sơn, sơ duyệt diễu hành tại Quảng trường Ba Đình. Và những ngày sau đó được Ban Tổ chức đưa đi thăm viếng thắng cảnh, các khu di tích có liên quan đến triều đại Thánh Vương Lý Thái Tổ.
04/10/2010(Xem: 1823)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
02/10/2010(Xem: 2158)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
30/09/2010(Xem: 7891)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
27/09/2010(Xem: 5801)
Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi. Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật. Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy. Còn như nói đến tiền thân của Ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp Ngài làm con gái, có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567