Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

90. Thái tử xuất gia

04/03/201103:31(Xem: 6486)
90. Thái tử xuất gia

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ CHÍN: CÁC VỊ THANH VĂN

THÁI TỬ XUẤT GIA

Lúc ấy, Phật ở nước Câu-tỳ-la, dưới gốc cây thổ la, tự nghĩ rằng: “Đã đến lúc ta nên hóa độ cho thái tử Hộ Quốc của xứ này xuất gia nhập đạo.”

Như Lai liền cùng chư tỳ-kheo vào thành. Vừa bước qua cửa thành, mặt đất liền chấn động, chư thiên trên trời rải hoa báu xuống như mưa mà cúng dường, lại có ánh hào quang chói sáng chiếu khắp trong thành. Khi ấy, nhân dân trong thành, người mù bỗng nhiên được sáng, người điếc bỗng nhiên được nghe, người câm bỗng nhiên nói được.

Thái tử Hộ Quốc thấy sự thần biến như vậy, khen là chưa từng có, liền tìm đến lễ Phật. Khi được nhìn thất đức Thế Tôn với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu sáng quanh thân, oai nghi rực rỡ thù thắng vô cùng, thái tử sinh lòng hoan hỷ, tín kính, chí thành lễ bái rồi chấp tay đứng hầu một bên.

Phật vì thái tử thuyết pháp Tứ diệu đế, tâm ý liền khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn.

Thái tử quay về tâu lên vua cha rằng: “Đức Thế Tôn có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nếu chẳng xuất gia tất làm bậc Chuyển Luân Thánh Vương, cai trị bốn cõi. Như vậy mà ngài còn dứt bỏ để ra đi xuất gia cầu đạo, huống chi như con đây, sao chẳng biết xuất gia theo Phật?”

Nói vậy rồi, cầu xin vua cha cho được xuất gia theo Phật.

Vua xứ ấy tên là Tu-đề, nghe thái tử nói vậy thì không ưng thuận. Thái tử trong lòng sầu não, liền tuyệt thực luôn trong sáu ngày. Các vị quần thần thấy vậy liền đến tâu vua rằng: “Thái tử bỏ ăn đã sáu ngày liền, tính mạng e rằng nguy kịch. Xin đại vương chiều ý mà cho xuất gia, may ra sau này còn được gặp mặt.”

Vua Tu-đề nghe vậy cầm lòng không được, liền thuận cho. Thái tử vui mừng tìm đến chỗ Phật lạy xin xuất gia. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Chư tỳ-kheo thấy vậy liền thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay tỳ-kheo Hộ Quốc đây trước đã tạo những nhân lành gì mà được sinh vào hoàng tộc, lại gặp Phật, xuất gia chưa bao lâu được thành đạo quả.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị vua tên là Tỳ-đề, kéo binh sang đánh nhau với một vị vua lân quốc.

Bấy giờ, vua Tỳ-đề bị đánh bại, cùng với quân binh bỏ chạy thoát thân, lạc đến một vùng hoang vắng kia lại gặp lúc trời nắng nóng, khô khát không nước uống. Nơi ấy có một vị Phật Bích-chi, vua liền đến lễ bái cầu xin cứu hộ. Phật Bích-chi liền hiện thần biến, khiến cho vua và tất cả quân binh đều được đầy đủ nước uống và lương thực, lại tìm được đường về nước cũ.

“Khi ấy, vua vui mừng khôn xiết, liền tự nghĩ rằng: ‘Nay chúng ta được khỏi chết khát, lại tìm được đường về nhà, đều là nhờ ân đức của vị Phật Bích-chi này. Vậy nên thiết lễ cúng dường mà thỉnh ngài thọ nhận.’

“Nghĩ rồi liền thiết lễ cúng dường trọng hậu, thỉnh Phật Bích-chi vào cung thọ nhận. Phật Bích-chi nhận cúng dường xong, liền nhập Niết-bàn. Vua và quần thần than khóc thảm thiết, thu gom xá-lỵ Phật dựng bốn ngọn tháp báu đặt vào trong mà lễ bái cúng dường.

“Nhờ công đức ấy, trải qua vô số kiếp đều không phải đọa vào các nẻo dữ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, trong cõi trời người thường sinh trong nhà giàu sang quyền quý, hưởng nhiều khoái lạc, cho đến nay gặp Phật xuất gia đắc đạo.”

Phật lại dạy rằng: “Vua Tỳ-đề ngày trước, nay là tỳ-kheo Hộ Quốc đó. Nhờ công đức cúng dường Phật Bích-chi, nên nay được gặp Phật, xuất gia đắc đạo.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3060)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20419)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3935)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8619)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8243)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9726)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4830)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2983)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4137)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3798)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]