Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33. Vua Thi-tỳ khoét mắt bố thí

04/03/201103:31(Xem: 6468)
33. Vua Thi-tỳ khoét mắt bố thí

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TƯ: BỒ-TÁT RA ĐỜI

VUA THI-TỲ KHOÉT MẮT BỐ THÍ

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Lúc ấy, mùa an cư gần mãn, mỗi ngày chư tỳ-kheo nhóm họp hai lần để nghe Phật thuyết pháp. Ngoài những lúc ấy ra, các tỳ-kheo hoặc có người lo rửa bát, giặt y, hoặc vá sửa những mảnh y cũ rách. Cứ như vậy, ai ai cũng đều có việc để làm.

Bấy giờ, trong chúng tỳ-kheo có một vị tên là Thi-bà, già quá nên mắt mờ, trải y ra đất mà vá nhưng chẳng thấy đường xâu chỉ qua lỗ kim, mới lớn tiếng nói rằng: “Có ai muốn được thêm chút công đức thì xin vì tôi mà xâu chỉ.”

Khi ấy, đức Thế Tôn nghe được lời ấy, liền đến chỗ vị tỳ-kheo, nắm tay ông rồi lấy kim định xâu. Ông tỳ-kheo già nghe biết tiếng Phật, liền bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Ngài từ vô số kiếp đến nay từng tu hạnh đại từ đại bi, đủ sáu pháp ba-la-mật, các hạnh Bồ-tát, trừ sạch phiền não, công đức đầy đủ, tự thành quả Phật. Vì sao lại đến chỗ con mà cầu chút phước đức nhỏ bé này?”

Phật bảo vị tỳ-kheo ấy rằng: “Chính vì ta ngày xưa cũng đã từng nhờ ngươi mà tích tập công đức, lòng vẫn chưa quên, nên nay mới đến chỗ ngươi mà cầu làm phước.”

Khi ấy, chư tỳ-kheo nghe lời Phật nói rất lấy làm lạ, liền thưa hỏi rằng: “Chẳng hay ngày xưa đức Thế Tôn nhờ vị tỳ-kheo già đây mà tích tập công đức như thế nào? Xin vì chúng con mà giảng thuyết cho nghe.”

Phật liền nói với chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, nước Ba-la-nại có vị vua tên là Thi-tỳ, trị nước theo chánh pháp, nhân dân an lạc, thịnh vượng.

“Vua Thi-tỳ khi ấy rất chuộng việc bố thí, cứu tế người nghèo khổ. Đối với các món tài vật, trân bảo, cho đến những thứ trong thân thể mình như đầu, mắt, tủy não, nếu có người đến xin đều vui lòng cho đi không tham tiếc.

“Lòng thành của vua như thế cảm động cả trời đất, khiến cho cung điện của vua trời Đế-thích tự nhiên chấn động, chẳng được yên ổn. Đế-thích khi ấy liền suy nghĩ: ‘Nguyên do gì mà cung điện của ta tự nhiên chấn động? Hay là do ta phước đức đã hết, mạng sắp tự diệt nên có điềm báo này?’ Nghĩ như vậy rồi, liền dùng thần thông quan sát, thấy biết việc vua Thi-tỳ chẳng tích giữ tài vật, có ai đến xin đều vui lòng bố thí cho, lòng chân thành như vậy nên cảm ứng đến cung điện nơi cõi trời rung chuyển chấn động.

“Đế-thích liền nghĩ: ‘Nay ta nên đến đó, thử lòng vua xem hư thật như thế nào.’ Nghĩ rồi liền tự biến hình thành một con ó đen rất lớn, bay xuống chỗ cung vua mà đậu, nói với vua rằng: ‘Tôi từng nghe nói đại vương phát tâm bố thí, chẳng tham tiếc gì với hết thảy chúng sanh, nên mới đến đây có chuyện muốn cầu xin, mong được đại vương thuận cho.’

“Khi ấy, vua Thi-tỳ nghe rồi, lòng rất vui vẻ, nói với chim ó: ‘Ngươi cứ tùy ý mà xin, ta chẳng tham tiếc gì.’ Chim ó liền nói: ‘Tôi nay chẳng cầu các thứ vàng bạc, trân bảo hay tài vật. Chỉ mong được đại vương thí cho đôi mắt, đối với tôi là món rất quý vậy.’

“Vua Thi-tỳ nghe lời chim ó rồi, vui vẻ thuận cho. Vua tự tay lấy con dao bén mà khoét mắt mình trao cho ó, chẳng sợ đau đớn, thậm chí trong lòng cũng không chút hối tiếc, ân hận. Bấy giờ trời đất rung chuyển, cõi đất chấn động sáu lần, hoa trời rãi xuống khắp nơi.

“Chim ó lại hỏi vua rằng: ‘Đại vương tự tay khoét mắt cho tôi, lòng có hối tiếc gì chăng?’ Vua đáp: ‘Thật không hối tiếc.’ Chim ó lại hỏi: ‘Nếu thật lòng vua không hối tiếc, biết lấy gì chứng tỏ?’ Vua Thi-tỳ liền phát nguyện rằng: ‘Nếu lòng tôi thật không hối tiếc, xin nguyện cho đôi mắt tôi hoàn lại như xưa.’ Phát nguyện vừa xong, đôi mắt vua lập tức nguyên vẹn như xưa không khác.

“Bấy giờ Đế-thích mới hiện nguyên hình, lên tiếng khen ngợi rằng: ‘Thật lạ lùng thay! Quả là xưa nay chưa từng có vậy! Đại vương tâm lành bố thí chẳng tiếc thân mạng như vậy, chắc là cầu được sanh cõi trời, hoặc cầu làm Chuyển luân Thánh vương, hay cầu được sự vui thú, vinh hoa nơi cõi thế?’

“Vua Thi-tỳ đáp: ‘Tôi thật chẳng cầu hết thảy những điều ấy, duy chỉ nguyện trong đời vị lai được thành chánh giác, cứu tế chúng sanh thoát mọi khổ não.’ Đế-thích nghe được lời nguyện ấy rồi, liền trở lại Thiên cung.”

Phật lại bảo các vị tỳ-kheo rằng: “Vua Thi-tỳ thuở ấy, chính là ta ngày nay. Đế-thích hiện hình chim ó ngày trước, chính là vị tỳ-kheo già ngày nay đó vậy. Ta vì đời trước bố thí đôi mắt lòng không tham tiếc, nên đến ngày nay chứng thành quả Phật. Do nhân duyên ấy, dẫu đến nay đối với vị tỳ-kheo già này, vẫn muốn tích tập thêm phước đức, lòng không chán nản.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3061)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20420)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3937)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8620)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8244)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9726)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4831)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2983)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4137)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3798)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]