Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật

04/03/201103:31(Xem: 6430)
19. Vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ HAI: CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC THỌ BÁO

VUA TẦN-BÀ-SA-LA THỈNH PHẬT

Lúc ấy, Phật ở thành Vương-xá, nơi tinh xá Trúc Lâm.

Bấy giờ, vua Tần-bà-sa-la cùng với rất đông người đi đến chỗ Phật. Đến nơi, vua lễ bái cung kính rồi quỳ xuống mà thưa thỉnh rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin ngài mở lòng từ bi mà nhận cho con được suốt đời cung phụng cúng dường mọi thứ cho Phật và chư tăng.”

Phật không nhận lời.

Vua liền bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu ngài chẳng nhận cho con suốt đời cung phụng cúng dường, thì xin nhận cho trong 12 năm.”

Phật cũng không nhận.

Vua lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu ngài chẳng nhận cho con cung phụng cúng dường trong 12 năm, thì xin nhận cho trong 12 tháng.”

Phật cũng không nhận.

Vua lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu ngài chẳng nhận cho con cung phụng cúng dường trong 12 tháng, thì xin nhận cho trong 3 tháng.”

Phật liền nhận lời.

Vua lập tức ban lệnh cho quần thần chuẩn bị lễ đàn, sửa dọn đường sá cho bằng phẳng, nhặt sạch đá sỏi, cho đến các thứ dơ nhớp, ô uế. Lại dựng tràng phan, treo chuông nhạc, rưới nước thơm lên đất, rãi các loại hoa thơm, và sửa soạn đủ các thứ giường nằm, ghế ngồi, thảy đều rộng rãi, đẹp đẽ, lại chuẩn bị đủ các món ăn thức uống ngon lạ, tinh khiết, thỉnh Phật và chư tỳ-kheo tăng đến cúng dường trong ba tháng.

Khi ấy, vua Tần-bà-sa-la đích thân cầm một cái lọng quý mà che cho Phật. Các vị quần thần mỗi người cũng đều cầm một cái lọng, đi theo che cho chư tỳ-kheo.

Vừa lúc đức Thế Tôn đặt chân lên ngưỡng cửa thành, mặt đất liền chấn động, trong thành kho báu tự nhiên khai mở, người mù được sáng, người điếc được nghe, người câm nói ra tiếng, người bệnh được khỏi, người nghèo được của báu, trên không trung có tiếng ca nhạc vang lên, các loài voi, ngựa chim chóc bỗng hòa tiếng kêu khắp chốn, từ trên hư không có mưa rãi các loại hoa thơm xuống theo đường Phật đi cho đến tận cung vua Tần-bà-sa-la.

Vua dâng các món ngon vật lạ, đủ trăm mùi vị, cúng dường Phật với chư tỳ-kheo tăng như vậy trong ba tháng.

Lễ cúng dường xong, Phật vì vua mà thuyết pháp. Vua nghe pháp rồi, trong lòng hoan hỷ, vui sướng, lại dùng loại áo quý ca-thi-dục mà dâng cúng Phật với chư tỳ-kheo tăng.

Khi ấy, chư tỳ-kheo thưa hỏi đức Thế Tôn rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên phước báo gì mà nay vua Tần-bà-sa-la cúng dường Phật trọng hậu như vậy?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, cách nay vô số kiếp, nước Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Sai-ma, cùng với chư tỳ-kheo đi giáo hóa khắp nơi, đến nước Bảo Thắng, của một vị vua tên là Già-sí. Vua ấy nghe tin Phật đến thì trong lòng hoan hỷ, sung sướng, liền cùng với quần thần ra nghinh đón. Lễ bái trước Phật rồi thỉnh Phật và chư tỳ-kheo tăng vào trong thành để cúng dường. Đức Phật nhận lời.

Vua cúng dường Phật đủ các món ăn thức uống ngon lạ, tinh sạch. Lễ cúng dường xong, vua khao khát muốn được nghe pháp. Phật liền vì vua Già-sí mà thuyết pháp. Vua nghe Pháp rồi trong lòng vui vẻ, liền đối trước Phật mà phát tâm Bồ-đề, nguyện thành quả Phật. Khi ấy, đức Phật Sai-ma liền thọ ký cho vua rằng: “Ngươi về sau sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.”

Phật bảo chư tỳ-kheo rằng: “Vua Già-sí thuở ấy chính là ta ngày nay. Quần thần thuở ấy chính là tỳ-kheo các ngươi. Nhờ nhân duyên cúng dường, phụng sự đức Phật Sai-ma, nên trải qua bao kiếp lưu chuyển, ta chẳng bao giờ đọa vào các đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, thường hưởng những sự khoái lạc trong cõi trời, cõi người, cho đến ngày nay được quả vị vô thượng Bồ-đề. Cũng vì thế mà khắp trong cõi trời người, ai ai cũng muốn đến cúng dường ta.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3059)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20419)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3935)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8619)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8242)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9724)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4830)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2983)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4137)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3798)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]