Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

37. Phật độ Tu-bạt-đà

04/03/201103:31(Xem: 6306)
37. Phật độ Tu-bạt-đà

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TƯ: BỒ-TÁT RA ĐỜI

PHẬT ĐỘ TU-BẠT-ĐÀ

Lúc ấy, Phật ở thành Câu-thi-na, giữa hai cây sa-la, sắp nhập Niết-bàn. Khi ấy, có ông Tu-bạt-đà nghe Phật sắp nhập Niết-bàn liền cùng với một nhóm người khác, cả thảy 500 người cùng tìm đến chỗ Phật, chí thành lễ bái cầu xin xuất gia nhập đạo.

Phật bảo những người ấy rằng: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Liền đó, râu tóc đều rụng hết, áo cà-sa hiện nơi thân, hóa thành 500 vị sa-môn oai nghi, đức hạnh. Phật liền vì mọi người khai diễn thuyết pháp, khiến cho tâm ý khai mở, thảy đều có chỗ đắc pháp.

Khi ấy, chư vị tỳ-kheo thấy việc như vậy liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay nhóm 500 người bọn ông Tu-bạt-đà đây, trước đã trồng căn lành chi mà lúc Phật sắp nhập Niết-bàn còn thuyết pháp cứu độ cho họ không hề mỏi mệt.”

Phật nói: “Chẳng phải ngày nay họ mới được cứu độ. Trong đời quá khứ, ta cũng đã từng cứu độ cho họ như vậy.”

Các vị tỳ-kheo nghe nói đều lấy làm lạ, liền thưa hỏi xin Phật thuyết cho nghe nhân duyên thời quá khứ. Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa, cùng dẫn theo nhiều người ra khỏi thành dạo chơi, đến một vùng núi kia có con suối rất lớn, gặp một bầy nai, liền mang cung tên cùng nhau đuổi bắn.

“Khi ấy, con nai chúa trong bầy liền dẫn cả bầy cùng chạy trốn, nhưng gặp suối nước lớn cản ngang không sao qua được, cả bầy đều cầm chắc phải bỏ mạng. Nai chúa thấy vậy liền bảo 500 con nai trong bầy rằng: ‘Nay ta lấy thân mình làm cầu nối, bắc ngang qua suối, các ngươi nương trên thân ta mà qua suối nhanh kẻo chết.’

“Nói rồi, nai chúa hóa hình to lớn, bốn chân dạng ra đạp tỳ hai bên bờ suối. Cả bầy nai cùng lần trên lưng nai chúa mà chạy sang bờ bên kia. Khi ấy, da thịt nai chúa bị chân của bầy nai dẫm đạp lên, tróc ra từng mảng, đau đớn không nói hết. Đến chừng không chịu được nữa, đã muốn thu mình lại thì nhìn thấy trên bờ vẫn còn một con nai mẹ, vì dẫn theo một nai con nên chậm chạp chưa qua kịp. Nai chúa lại gắng hết sức mình để chịu đựng, chờ cho hai mẹ con nai qua thoát đến bờ bên kia. Quá sức đau đớn, khi ấy nai chúa liền bỏ mạng, sinh lên cảnh trời Đao-lỵ.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Nai chúa thuở ấy chính là ta ngày nay. Trong đời quá khứ, còn mang thân thú vật, ta đã tu hạnh đại từ bi, chẳng kể khổ nạn, quên thân mình mà cứu độ chúng sanh. Huống chi nay ta thành Phật, vượt trên ba cõi, lẽ nào lại mỏi mệt trong việc cứu độ chúng sanh hay sao?”

Phật lại nói: “Bầy nai 500 con thuở ấy, chính là nhóm 500 người của ông Tu-bạt-đà ngày nay, vừa được ta độ cho xuất gia làm tỳ-kheo đó.”

Khi ấy, chư tỳ-kheo lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay nhóm ông Tu-bạt-đà 500 người đây nhờ phước báo gì mà nay được gặp Phật, lại được xuất gia đắc đạo?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Vào giữa Hiền kiếp này, xứ Ba-la-nại có vị Phật xuất thế hiệu là Ca-diếp. Phật hóa độ chúng sanh đã lâu, pháp duyên đã mãn, liền muốn nhập Niết-bàn. Khi ấy có 500 vị tỳ-kheo cùng nhau ngồi thiền học đạo trong chốn núi sâu, không hay biết việc Phật sắp nhập Niết-bàn.

“Bấy giờ, có mấy vị thần cây nơi ấy, biết Phật sắp nhập Niết-bàn nên buồn thảm khóc lóc, nhỏ lệ xuống chỗ các vị tỳ-kheo đang ngồi thiền.

“Các vị tỳ-kheo liền hỏi mấy vị thần cây rằng: ‘Hôm nay vì sao mà các ngài buồn khóc nhỏ lệ như vậy?’ Mấy vị thần cây đáp: ‘Đức Phật Ca-diếp sắp nhập Niết-bàn nên chúng tôi buồn khóc.’

“Chư tỳ-kheo nghe vậy thì kinh hoàng, sửng sốt, trong lòng sầu não không sao nói hết, liền hỏi các vị thần cây rằng: ‘Nay chúng tôi đang ở xa quá, biết làm sao gặp được đức Thế Tôn lần cuối trước khi ngài nhập Niết-bàn?’

“Các vị thần cây đáp: ‘Nếu các ngài muốn đến đó, chỉ việc nhắm mắt lại, thần lực của chúng tôi có thể giúp đưa các ngài đi.’

“Chư tỳ-kheo nghe vậy liền nhắm mắt cả lại. Trong phút chốc, bỗng thấy mình được đưa đến ngay trước chỗ Phật Ca-diếp. Các vị liền đối trước Phật mà sám hối hết thảy tội lỗi ác nghiệp từ muôn đời. Nhờ công đức tu tập từ kiếp trước như thế, nên nay các vị lại được gặp ta mà xuất gia, đắc đạo.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Năm trăm tỳ-kheo thuở ấy, chính là nhóm năm trăm người của ông Tu-bạt-đà ngày nay đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4757)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6742)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4927)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10175)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3679)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4900)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5103)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7894)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4294)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13581)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]