Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

97. Người xấu xí

04/03/201103:31(Xem: 6730)
97. Người xấu xí

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ MƯỜI: CÁC NHÂN DUYÊN KHÁC

NGƯỜI XẤU XÍ

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có một người trưởng giả giàu có vô cùng. Người ấy cưới vợ thuộc dòng hào phú, sống cùng nhau hoan lạc, vui thích.

Không bao lâu người vợ có thai, sinh được một bé trai, hình dung cực kỳ xấu xí.

Khi lớn lên, càng thêm xấu xí, ai nhìn thấy cũng phải lánh xa. Đến cha mẹ dần dần cũng gớm ghiếc, xa lánh. Người ấy buồn bã lánh vào nơi thâm sơn cùng cốc, mà đến thú vật nhìn thấy cũng sợ hãi xa lánh, huống hồ là người.

Người ấy đến ở trong một khu rừng, hái quả cây rừng mà ăn để sống. Các loài chim muông cầm thú nhìn thấy cũng đều kinh sợ, tránh xa chẳng dám đến ở cùng trong khu rừng ấy.

Đức Thế Tôn thường lấy tâm đại bi quán sát chúng sanh, cứu độ cho những người nạn khổ. Ngày kia, ngài biết người xấu xí ấy căn lành đã đủ, có thể hóa độ cho, liền bảo chư tỳ-kheo rằng: “Hôm nay chúng ta sẽ đến khu rừng kia mà hóa độ cho một người hình dung xấu xí.”

Khi Phật và chư tỳ-kheo đến nơi khu rừng ấy, người xấu xí trông thấy liền muốn chạy trốn. Phật dùng thần lực khiến cho người không chạy thoát đi được. Bấy giờ, chư tỳ-kheo đến các gốc cây trong rừng mà ngồi thiền.

Khi ấy Phật hóa hình thành một người hình dung cũng cực kỳ xấu xí, chẳng kém gì người kia. Ngài ôm bình bát chứa đầy những thức ăn ngon quý, đi dần đến chỗ người xấu xí. Người ấy thấy Phật hình dạng xấu xí giống mình thì mừng rỡ lắm, trong lòng nghĩ rằng: “Đây chính thật là người mà ta có thể kết bạn.” Nghĩ vậy rồi bước đến chào hỏi. Phật liền mời người ấy cùng ăn với mình.

Khi ăn xong, Phật hiện hình đẹp đẽ, thanh lịch. Người xấu xí lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi: “Ông làm sao giờ lại hóa ra xinh đẹp, thanh lịch như thế?” Phật đáp: “Tôi ăn cơm này xong, lấy lòng lành mà chiêm ngưỡng các vị tỳ-kheo đang ngồi thiền dưới những gốc cây kia. Nhờ đó mà được xinh đẹp, thanh lịch.”

Người xấu xí nghe vậy, liền cố bắt chước theo. Người lấy lòng lành mà chiêm ngưỡng các vị tỳ-kheo đang tọa thiền. Khi ấy, hình dung liền được trở nên xinh đẹp, thanh lịch. Trong lòng vui mừng khôn xiết, sanh lòng kính tín sâu vững đối với các vị tỳ-kheo.

Khi ấy Phật liền hiện lại nguyên hình. Người ấy được thấy Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu sáng quanh thân, oai nghi rực rỡ thù thắng vô cùng, sanh tâm kính ngưỡng, liền chí thành lễ Phật rồi đứng sang một bên.

Phật liền vì người mà thuyết pháp, nghe pháp rồi tâm ý được khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền quỳ lạy Phật xin được xuất gia. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán.

Chư tỳ-kheo thấy việc như vậy thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị tỳ-kheo này trước đây đã tạo những nhân duyên gì, sanh ra thân thể xấu xí, bị người xa lánh, rồi nay lại được gặp Phật xuất gia đắc đạo?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Phất-sa, ngồi thiền định dưới một gốc cây nọ.

Khi ấy, ta với ngài Di-lặc đều là hàng Bồ-tát, cùng đến chỗ Phật ấy mà cúng dường, chỉ đứng trên một chân mà hầu bên đức Phật ấy. Cho đến bảy ngày như vậy, rồi mới đọc kệ mà ca ngợi đức Phật rằng:

Khắp thế gian không ai như Phật,
Mười phương thế giới chẳng sánh bằng.
Trải khắp thế giới đã từng biết,
Chưa nhìn thấy ai được như Phật.

Đọc kệ như vậy rồi, trong núi ấy có một vị thần hiện hình cực kỳ xấu xí muốn đến dọa nạt ta. Khi ấy, ta dùng thần lực khiến cho vị thần ấy đi đến chỗ nào cũng đều gặp những khe rãnh, đồi núi hiểm trở, chẳng thể nào vượt qua được.

Vị thần núi ấy liền tự nghĩ rằng: ‘Ta có ác tâm muốn dọa nạt người ấy, nay người khiến cho ta đi đến đâu cũng đều gặp những khe rãnh, đồi núi hiểm trở chẳng thể vượt qua. Ta phải đến sám hối cùng người mới được.’ Nghĩ vậy rồi, liền đến trước mặt ta lễ lạy cầu xin sám hối.”

Phật lại dạy rằng: “Vị thần núi ngày trước đến dọa nạt ta, nay thọ thân xấu xí là tỳ-kheo mới xuất gia chứng quả A-La-hán đó. Do muốn dọa nạt ta, nên trong năm trăm kiếp đều phải mang hình thể xấu xí, ai thấy cũng đều kinh sợ. Nhờ chí thành sám hối, nên đến nay được gặp Phật, xuất gia đắc đạo.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4763)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6748)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4933)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10186)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3682)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4907)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5108)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7914)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4297)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13592)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]