Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

78. Hai vua giảng hòa

04/03/201103:31(Xem: 6559)
78. Hai vua giảng hòa

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TÁM: CÁC VỊ TỲ-KHEO NI

HAI VUA GIẢNG HÒA

Lúc ấy, Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Vua Ba-tư-nặc cùng với vua Phạm-ma khi ấy thường tranh chấp nhau, đôi bên đều dùng đến cả bốn đạo quân lớn là quân cưỡi voi, quân cưỡi ngựa, quân đi xe và quân đi bộ.

Khi ấy, hoàng hậu của hai vua có thai, cùng sinh nở một lúc. Một người sinh trai, một người sinh gái. Vua Ba-tư-nặc đặt tên cho công chúa là Sai-ma.

Hai vua vui mừng lắm, đều ban lệnh ra cho tất cả quân binh rằng: “Thu hồi quân binh, ban thưởng các thứ tài vật, đôi bên cùng nhau hòa giải. Cho hai đứa trẻ sau này sẽ kết hôn cùng nhau. Hai nước từ nay không tranh chấp nữa, cho đến con cháu nhiều đời sau cũng vậy.”

Đến năm thái tử con vua Phạm-ma được 7 tuổi, vua sai mang các thứ báu vật, trân bảo sang làm lễ cầu hôn với công chúa con vua Ba-tư-nặc. Công chúa Sai-ma nghe chuyện, tâu với vua rằng: “Thân người rất khó được, nay con được thân người. Thân thể rất khó toàn vẹn, nay con được toàn vẹn. Lòng tin rất khó phát sinh, nay con phát sinh lòng tin. Phật pháp rất khó gặp, nay con được gặp. Xin cha đừng buộc con vào vòng khổ ách, phải vĩnh viễn lìa xa các bậc thiện tri thức. Chỉ xin cha thương tưởng cho con được xuất gia theo Phật.”

Vua đáp lại rằng: “Khi con còn trong thai, ta đã có lời hứa với vua kia. Nhờ có con mà hai nước giảng hòa, dứt được nạn đao binh. Nay nếu con không thuận kết hôn, tức là ta mang tội chẳng giữ lời hứa. Vua kia tất sẽ xem ta là thù địch. Chư thiên cũng giận ta mà không phù trợ. Đối với các vị đại thần và dân chúng, cũng đều xem ta là hạng chẳng giữ chữ tín, đi ngược lại với pháp chế của các vị tiên vương. Con chẳng từng nghe vua A-xà-thế, vua Ba-cù-lỵ... cho đến cả chục vị vua như thế, đều do nói không đúng sự thật mà đọa vào địa ngục. Nay con lại muốn ta nuốt lời, để phải sa vào địa ngục mà chịu khổ như các vị vua ấy hay sao? Con thật không nên nói những lời ấy mà cầu xin ta từ chối việc hôn nhân.”

Vua Ba-tư-nặc nói vậy rồi, tức tốc sai người sang báo với vua Phạm-ma là trong vòng bảy ngày phải tiến hành ngay hôn lễ.

Công chúa Sai-ma nghe vua sai sứ đi hối thúc gấp rút như vậy, trong lòng sầu khổ bi lụy, liền cởi bỏ hết các thứ trang sức châu báu, mặc áo thô vải xấu, lên tận lầu cao, quay mặt về hướng tinh xá Kỳ Hoàn mà khấn nguyện rằng: “Đức Như Lai Thế Tôn từ bi thương xót hết thảy chúng sanh, trong một ý nghĩ có thể biết hết sự việc trong ba đời. Nay con lâm nạn, khổ não cùng cực, xin được cứu độ.”

Bấy giờ đức Thế Tôn từ xa đã thấu hiểu tâm nguyện chí thành của công chúa Sai-ma, chỉ trong chớp mắt liền hiện đến trước mặt công chúa mà thuyết pháp cho nghe. Công chúa nghe xong liền đắc quả A-na-hàm.

Đúng hạn bảy ngày, vua Phạm-ma đưa người đến để đón dâu, số đông đến trăm ngàn người đều mang theo y phục đắc tiền và những trân bảo, vàng ngọc quý giá.

Vào tới trong cung muốn xem mặt cô dâu, liền hốt nhiên nhìn thấy công chúa Sai-ma hiện thân giữa không trung, biến hóa đủ mười tám phép, hiện bên đông, mất bên tây, lại hiện bên nam, mất bên bắc, đi đứng nằm ngồi giữa hư không thật tự tại, rồi từ giữa không trung mà hạ xuống.

Vua Ba-tư-nặc thấy công chúa hiện phép thần thông như vậy, trong lòng hổ thẹn, nói rằng: “Ta thật ngu si, không biết con đã tu đắc thần thông như vậy, nên mới đem chuyện ô nhiễm của trần thế mà buộc vào con. Nay ta xin sám hối, thuận cho con xuất gia.”

Vị vương tử con vua Phạm-ma cũng sinh lòng tín kính, liền nói rằng: “Ta cũng ngu si không chút hiểu biết, nên mới nghĩ đến chuyện kết hôn với người. Nay xin thành tâm sám hối.”

Công chúa Sai-ma được lời của vua cha rồi, liền đến tinh xá Kỳ Hoàn lạy Phật cầu xuất gia. Phật liền hứa thuận. Từ đó thành tỳ-kheo ni, chuyên cần tu tập đắc quả A-La-hán.

Bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy vậy liền thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo ni Sai-ma trước đây đã tạo phước đức như thế nào, mà nay được sinh vào hoàng tộc, chẳng vướng vào ái dục, lại được gặp Phật, xuất gia chưa bao lâu đã thành đạo quả?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về khoảng giữa Hiền kiếp này, xứ Ba-la-nại có vị Phật ra đời hiệu là Ca-diếp.

Trong chúng hội của Phật, có người phụ nữ thường hay có chuyện xích mích với chồng. Ngày kia cả hai cùng đến lễ bái một vị tỳ-kheo mà thọ giới Bát quan trai. Nhân đó cùng nhau phát lời nguyện rằng: “Nhờ công đức này, nguyện trong đời vị lai chúng tôi đều được sinh vào nhà hào tộc, quyền quý, có chuyện tranh chấp nhau đều nhờ chúng tôi mà hòa giải.” Phát nguyện như vậy rồi, đến khi mạng chung thường được sinh vào hoàng tộc.”

Phật lại dạy rằng: “Cha của người chồng ngày ấy, nay là vua Phạm-ma. Cha của người vợ, nay là vua Ba-tư-nặc. Người chồng khi ấy, nay là con trai vua Phạm-ma. Người vợ khi ấy, nay là tỳ-kheo ni Sai-ma đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4675)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4828)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10074)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3609)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4813)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5039)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7501)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4211)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13436)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]