Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)

20/02/201301:48(Xem: 16875)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-box_1

*
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 1

🙏🙏🙏🌻🌻🌻🌺🌺🌺🌿🌿🌿💐💐💐

Lời đầu sách

Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt.

Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: "Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào. Tôi mang quyển sách ấy đi theo cùng với những chuyến hoằng pháp tại Ý, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Nga, Na Uy v.v… nghĩa là nơi nào ngoài giờ giảng và hướng dẫn cho quý Phật Tử tu, tôi cố gắng phiên dịch cho xong quyển nầy, ngay cả trong mùa An Cư Kiết Hạ vừa rồi tại chùa Viên Giác Hannover tôi cũng đã dành rất nhiều thời giờ cho việc phiên dịch quyển sách nầy.

Mùa hè năm 2008 có Sư Cô Chơn Toàn giúp đỡ đánh máy toàn bộ quyển sách nầy; nên bây giờ anh Như Thân đã Layout và chú Sanh ở văn phòng chùa Viên Giác sửa lại lỗi chính tả để hoàn thành quyển sách và hôm nay thì sách đã trang trí xong, độ hơn 900 trang A5 và kèm thêm những hình ảnh nữa; cho nên quyển truyện rất dày, chắc phải đóng bìa cứng mới được. Do vậy giá thành mỗi cuốn khi ấn tống có lẽ rất cao. Kính mong quý Đạo Hữu ở Hoa Kỳ cũng như Âu Châu và khắp nơi trên thế giới hỗ trợ cho việc in ấn nầy để sách được ra đời, nhằm tô điểm thêm cho đức tin của người con Phật ở nhiều phương điện khác nhau.

Khi nhắc đến Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đa phần chúng ta đều nghĩ đến "Kinh Địa Tạng“ cũng như những mẩu chuyện tiếp độ cho những người chết qua
những câu chuyện được kể rải rác đó đây; nhưng trong gần 300 câu chuyện của quyển sách nầy hơn 90 phần trăm là Ngài đã cứu cho người sống, nhất là những người bị bệnh hiểm nghèo, chính y khoa Nhật Bản bó tay, người bệnh hay thân nhân họ khi đến cầu nguyện nơi Ngài sẽ nhận được những phép mầu.

Chữ Địa Tạng tiếng Phạn gọi là Kstigarbha. Chữ Ksti có nghĩa là đất; garbha có nghĩa là tạng hay tàng chứa. Đất có khả năng tàng chứa mọi vật, mọi thứ.

Điều nầy chứng tỏ rằng hạnh nguyện của vị Bồ Tát nầy có sức kham nhẫn, chịu đựng giống như sự nhẫn nại của đất vậy. Trong Ấn Độ giáo họ có thờ Thiên Tiên và Địa Mẫu. Thiên Tiên thường thường là người nam; còn Địa Mẫu đa phần là người nữ. Địa Mẫu của Ấn Độ giáo, mà Phật Giáo đã từ từ đồng hóa thành vị Bồ Tát củaPhật Giáo qua hình thức là một người nam; nhất là khi qua đến Trung Hoa, Nhật Bản,  Việt Nam, Đại Hàn v.v… là tướng của một Tăng sĩ xuất gia đầu tròn áo vuông, đầu đội mũ Tỳ Lư và ngồi trên lưng con Đề Thính, tay cầm tích trượng. Đây chính là hình ảnh của Ngài Kim Kiều Giác, là một Đông Cung Thái Tử triều nhà Kim bên Đại Hàn, khi qua Trung Quốc và đến Cửu Hoa Sơn vào đời thịnh Đường (thế kỷ thứ 7) để tìm chơn thân và hạnh nguyện của Ngài Địa Tạng; nhưngcuối cùng Ngài Kim Kiều Giác là hiện thân của Ngài Địa Tạng khi Ngài viên tịch ở tuổi 88 tại Cửu Hoa Sơn.Do vậy Cửu Hoa Sơn là một trong 4 địa danh sơn của bốn vị Bồ Tát đang hùng cứ 4 dãy núi to lớn tại Trung Quốc cho đến ngày hôm nay.

Khi dịch sách tôi cũng rất thận trọng. Vì lỡ mình truyền đi những điều mê tín cho Phật Tử thì không nên; do vậy vừa dịch ra tiếng Việt vừa kiểm lại xem thử ra sao và tôi xin kết luận rằng: Sác suất của độ chính tín hơn 80 phần trăm; 20 phần trăm còn lại dĩ nhiên là do cái nầy có; nên cái kia nó sinh ra thêm. Như vậy cũng không sai với nhân duyên trong giáo lý nhà Phật là mấy.

Dựa vào cơ sở nào để tôi nói rằng: Đây là quyển sách và những câu chuyện đa phần là chánh tín ? Xin thưa - Dựa vào văn hóa của người Nhật Bản và dựa vào Đức Tin của con người. Đứng về phương diện văn hóa mà nói thì kể từ thời Minh Trị Duy Tân (1868) tất cả mọi người dân Nhật đều phải trải qua chế độ „nghĩa vụ giáo dục“ có nghĩa là vào thời đó, bất cứ ai cũng phải học xong Tiểu Học. Sau hơn 100 năm, vào năm 1972 khi tôi có dịp sang Nhật Bản du học và vào lúc ấy thì mọi người dân Nhật đều phải tốt nghiệp Tú Tài 2; nghĩa là phải xong Trung Học đệ nhị cấp. Còn bây giờ vào thời điểm 2008 nầy gần 130 triệu dân Nhật hầu như không có người nào là không tốt nghiệp Đại Học. Như vậy là một nước Á Châu theo Phật Giáo có trình độ dân trí cao. Khi dân trí cao, dĩ nhiên y học cũng phải cao theo; nhưng tại sao từ năm 1976 đến năm 2008, gần 35 năm, và mỗi năm có khoảng một triệu người Nhật đến đây cầu nguyện chữa bệnh; trong đó hơn 70 phần trăm được lành bệnh, mà đa phần những bịnh như ung thư, trĩ, phong thấp, tê liệt v.v…mà Bác sĩ y khoa Nhật Bản đã chê, mà đến Ngài Địa Tạng cầu nguyện lại sống thêm được 5 đến 10 năm nữa và căn bệnh lại được trị lành hoàn toàn? Dĩ nhiên là không ai có thể sống đến 100 năm hay mấy trăm năm trên cuộc thế; nhưng đã có bịnh thì ai cũng mong muốn chữa cho khỏi; nếu bịnh không khỏi, ví như có một hòn đá cứ phải đeo mãi vào lưng thì khổ sở biết c hừng nào. Cách chữa bịnh của Ngài do con người cầu nguyện mà có; chứ không phải Ngài ra toa thuốc cho mọi người. Nếu có thì toa thuốc ấy chỉ là niềm tin và câu thần chú của Ngài là: Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ mà thôi.

Như vậy không có nghĩa là người Nhật Bản không mê tín; nhưng ở đây tôi chứng minh là  độ mê tín ít hơn với những người ít học. Vì ít ra văn hóa và y khoa hiện đại vẫn là nền móng căn bản cho sự chữa trị theo quan niệm thông thường. Đa phần khi người ta nghĩ đến niềm tin, người ta hay xoay qua thời kỳ Trung Cổ hay thời kỳ khoa học chưa tiến bộ mấy; nhưng Nhật Bản ngày nay là một trong những nước lớn trên thế giới, mạnh mẽ ở nhiều phương diện như kinh tế, khoa học, giáo dục, y khọc, giao thông v.v… nhưng Đức Tin ở đây vẫn vượt thắng trên tất cả. Riêng cá nhân tôi khi ở tuổi 59 vào năm ngoái (2007) mỗi ngày ngồi dịch sách, kinh 5 đến 6 tiếng đồng hồ và tối, sáng còn ngồi tụng kinh cũng như hành trang nữa; nên cái lưng khiến nó không tuân phục nữa. Nghĩa là mỗi ngày đều bị đau. Khi dịch những mẩu chuyện linh ứng nầy tôi phát nguyện rằng: „Nếu quả Ngài thật linh ứng thì xin cho con hết đau lưng sau khi con dịch xong sách nầy và con sẽ tổ chức một chuyến hành hương đến Nhật để đảnh lễ tham bái và tạ lễ Ngài“. Quả thật như vậy. Sau khi dịch xong vào tháng 6 năm 2008 cái lưng của tôi bớt đau độ 80 phần trăm. Do vậy tôi xúc tiến tổ chức một phái đoàn sang hành hương nước Nhật từ ngày 6 đến ngày 17 tháng 10 năm 2008. Chương trình dự trù đi Kanagawaken để thăm và dự lễ đặt đá xây dựng Chùa Việt Nam nơi Hòa Thượng Thích Minh Tuyền trụ trì, thăm Hachioji, chùa Honryuji nơi tôi đã có cơ duyên tá túc từ năm 1972 đến năm 1977, thăm Đại Học Teikyo, thăm tượng Phật Di Đà cao 120 mét tại Ushikyu gần Tokyo. Tiếp theo là thăm những chùa viện quanh vùng Yokohama và Tokyo. Đặc biệt phái đoàn 32 người đến từ Âu Châu và Mỹ Châu đã ghé thăm chùa Soojiji (Tổng Trì Tự) là Tổng Bổn Sơn của Thiền Tào Động Nhật Bản. Tiện thể tôi đã tặng dịch phẩm „Thiền Tào Động“ cho Ngài tác giả IZUMA là thiền chủ tại đây. Sau đó phái đoàn đi Kyoto để thăm chùa Tây Bổn Nguyện Tự, Thanh Thủy tự và đồng thời thăm chùa Tổ Tịnh Độ Từ Ân Viện nơi Ngài Pháp Nhiên khai sơn cũng như Ngài Thân Loan tu Tịnh Độ. Tại đây chúng tôi có tặng một quyển sách dịch về Tịnh Độ Tông Nhật Bản cho vị Sư trụ trì. Phái đoàn tiếp tục đi Osaka và địa phương cuối cùng là thành phố Fuchù ở Hiroishima. Fuchù là một thành phố nhỏ nằm trong tỉnh lỵ Hiroshima và Đức Địa Tạng không có đầu đang được tôn trí trên một ngọn đồi rất quang đãng. Ngày xưa nơi đây là đồng ruộng và bây giờ vẫn còn cảnh nông trang bao bọc chung quanh; nhưng khi leo lên dốc để vào đảnh lễ Ngài, lòng người con Phật đến đây từ xa hơn nửa vòng trái đất, thấy dường như có cái gì đó thật cảm động ở tận đáy lòng. Chúng tôi 32 người không ai bảo ai, cả Tăng lẫn tục đều y áo chỉnh tề để làm lễ và sau đó ai muốn cầu nguyện riêng cho mình và cho thân nhân thì cứ việc hành trì. Hôm đó là sáng ngày 15 tháng 10 năm 2008. Mỗi người thỉnh một hay nhiều chiếc khăn tay, trên đó có viết câu thần chú bằng tiếng Nhật là: „Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ và đem khăn nầy đến cọ sát vào mình đá của Ngài nhiều lần cũng như nói tên họ của người bịnh và đem về lại nhà. Khi nào người bịnh đau cái gì và đau nơi đâu thì để khăn ấy vào chỗ đau và tụng câu thần chú ấy, sẽ có hiệu nghiệm ngay.

Dĩ nhiên là sự cầu nguyện đối với trong phái đoàn cũng có hiệu nghiệm ngay. Bằng chứng là nhiều bà cụ đi đến đây bằng xe lăn và gậy chống; nhưng bây giờ khi leo lên dốc không cần xe lăn lẫn gậy chống nữa và mãi cho đến khi về lại Đức cũng chưa lần nào dùng đến gậy nữa. Quả là phép Phật nhiệm mầu là vậy. Trong đoàn cũng có nhiều Thầy Cô và quý Phật Tử đi tam bộ nhứt bái để đảnh lễ Ngài và cũng có nhiều người thấy được ánh hào quang của Ngài xuất hiện giữa ban ngày. Có người lấy nước suối uống; có người lấy bột nhang mang về lại Âu Châu, lỡ cơ nhỡ có ai bị bịnh phỏng hay bịnh khó trị, có khi còn dùng đến được nữa. Thực tế thì „mọi pháp đều do nhân duyên sanh và mọi pháp cũng đều do nhân duyên diệt“ cho nên sự đến, sự đi, sự còn, sự mất… tất cả cũng chỉ là một hiện tượng mà thôi. Ngay cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới lớn nhỏ nầy Đức Phật nói trong kinh Kim Cang cũng chỉ là một hợp tướng thôi. Đã là một hợp tướng, tức có khi tan rã. Lúc ấy là lúc không đủ duyên. Như vậy trên cuộc đời nầy đâu có cái gì miên viễn ngoài niềm tin đâu. Hãy tin sâu và nguyện thiết thì tất cả mọi nguyện ước sẽ thành tựu. Tiếng Đức có câu là: Alle Phänomen sind unbeständig hay Alle Phänomen sind unsicher. Nghĩa là „mọi hiện tượng đều không có thật tướng; mọi hiện tượng đều không chắc chắn“. Đã gọi là hiện tượng thì có gì đâu mà nắm chắc vào để cho khổ lụy tấm thân nầy. Vì căn bản của nó là giả. Phật hay Bồ Tát là đúng như các pháp vẫn thường hằng. Còn chúng ta cứ giong ruổi mãi trong 6 nẻo luân hồi chưa biết lúc nào ra; nếu không nhờ vào tha lực của Đức Phật A Di Đà hay sự cứu khổ độ mê của Ngài Địa Tạng hay Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thì chúng ta vẫn còn mãi chìm đắm nơi cảnh khổ của sanh tử luân hồi.

Tôi, anh, chị, em, con, cháu v.v... tất cả rồi cũng sẽ trôi qua đi. Vì chúng ta mỗi người đến đây cũng chỉ một thời gian ngắn để làm một số công việc, rồi đến ngày cũng phải theo Phật về Tây. Vậy khi còn sống chúng ta phải làm một cái gì đó cho thật có ý nghĩa, để khi ra đi chúng ta chẳng có ân hận gì. Vì thực tế của cuộc sống nầy nó cũng chỉ là một sự giả hợp mà thôi.

Mong rằng quý Đạo Hữu, Phật Tử khi đọc những câu chuyện linh ứng nầy hãy ghi nhớ vào lòng và nếu ai có nhân duyên hãy nên một lần đến đó để được đảnh lễ Ngài và mong Ngài cứu độ.

Kính nguyện
Viết xong lời tựa vào ngày 15 tháng 12 năm 2008
tại Tu Viện Đa Bảo – Úc Đại Lợi, nhân lần nhập
thất thứ 6.
Dịch giả: Sa Môn Thích Như Điển



pdf-icon
01. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 01_HT Thích Như Điển dịch Việt

Chuyển ngữ: HT Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh


T
ập 1 - Phần 1

  
Tập 1 - Phần 2


Tập 1 - Phần 3


Tập 1 - Phần 4


Tập 1 - Phần 5


Tập 1 - Phần 6



Tập 1 - Phần 7



Tập 1 - Phần 8



Tập 1 - Phần 9





Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 2
*
pdf-icon
02. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 02_HT Thích Như Điển dịch Việt


Tập 2 - Phần 1

 


Tập 2 - Phần 2

 

Tập 2 - Phần 3



Tập 2 - Phần 4


Tập 2 - Phần 5


Tập 2 - Phần 6



Tâp 2 - Phần 7



Tập 2 - Phần 8






Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 3
*

Tập 3 - Phần 1



Tập 3 - Phần 2



T
ập 3 - Phần 3



Tập 3 - Phần 4



Tập 3 - Phần 5




Tập 3 - Phần 6





 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4797)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6799)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4980)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10247)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3739)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4950)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5144)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 8118)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4345)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13702)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]