Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)

20/02/201301:48(Xem: 16667)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-box_1

*
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 1

🙏🙏🙏🌻🌻🌻🌺🌺🌺🌿🌿🌿💐💐💐

Lời đầu sách

Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt.

Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: "Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào. Tôi mang quyển sách ấy đi theo cùng với những chuyến hoằng pháp tại Ý, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Nga, Na Uy v.v… nghĩa là nơi nào ngoài giờ giảng và hướng dẫn cho quý Phật Tử tu, tôi cố gắng phiên dịch cho xong quyển nầy, ngay cả trong mùa An Cư Kiết Hạ vừa rồi tại chùa Viên Giác Hannover tôi cũng đã dành rất nhiều thời giờ cho việc phiên dịch quyển sách nầy.

Mùa hè năm 2008 có Sư Cô Chơn Toàn giúp đỡ đánh máy toàn bộ quyển sách nầy; nên bây giờ anh Như Thân đã Layout và chú Sanh ở văn phòng chùa Viên Giác sửa lại lỗi chính tả để hoàn thành quyển sách và hôm nay thì sách đã trang trí xong, độ hơn 900 trang A5 và kèm thêm những hình ảnh nữa; cho nên quyển truyện rất dày, chắc phải đóng bìa cứng mới được. Do vậy giá thành mỗi cuốn khi ấn tống có lẽ rất cao. Kính mong quý Đạo Hữu ở Hoa Kỳ cũng như Âu Châu và khắp nơi trên thế giới hỗ trợ cho việc in ấn nầy để sách được ra đời, nhằm tô điểm thêm cho đức tin của người con Phật ở nhiều phương điện khác nhau.

Khi nhắc đến Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đa phần chúng ta đều nghĩ đến "Kinh Địa Tạng“ cũng như những mẩu chuyện tiếp độ cho những người chết qua
những câu chuyện được kể rải rác đó đây; nhưng trong gần 300 câu chuyện của quyển sách nầy hơn 90 phần trăm là Ngài đã cứu cho người sống, nhất là những người bị bệnh hiểm nghèo, chính y khoa Nhật Bản bó tay, người bệnh hay thân nhân họ khi đến cầu nguyện nơi Ngài sẽ nhận được những phép mầu.

Chữ Địa Tạng tiếng Phạn gọi là Kstigarbha. Chữ Ksti có nghĩa là đất; garbha có nghĩa là tạng hay tàng chứa. Đất có khả năng tàng chứa mọi vật, mọi thứ.

Điều nầy chứng tỏ rằng hạnh nguyện của vị Bồ Tát nầy có sức kham nhẫn, chịu đựng giống như sự nhẫn nại của đất vậy. Trong Ấn Độ giáo họ có thờ Thiên Tiên và Địa Mẫu. Thiên Tiên thường thường là người nam; còn Địa Mẫu đa phần là người nữ. Địa Mẫu của Ấn Độ giáo, mà Phật Giáo đã từ từ đồng hóa thành vị Bồ Tát củaPhật Giáo qua hình thức là một người nam; nhất là khi qua đến Trung Hoa, Nhật Bản,  Việt Nam, Đại Hàn v.v… là tướng của một Tăng sĩ xuất gia đầu tròn áo vuông, đầu đội mũ Tỳ Lư và ngồi trên lưng con Đề Thính, tay cầm tích trượng. Đây chính là hình ảnh của Ngài Kim Kiều Giác, là một Đông Cung Thái Tử triều nhà Kim bên Đại Hàn, khi qua Trung Quốc và đến Cửu Hoa Sơn vào đời thịnh Đường (thế kỷ thứ 7) để tìm chơn thân và hạnh nguyện của Ngài Địa Tạng; nhưngcuối cùng Ngài Kim Kiều Giác là hiện thân của Ngài Địa Tạng khi Ngài viên tịch ở tuổi 88 tại Cửu Hoa Sơn.Do vậy Cửu Hoa Sơn là một trong 4 địa danh sơn của bốn vị Bồ Tát đang hùng cứ 4 dãy núi to lớn tại Trung Quốc cho đến ngày hôm nay.

Khi dịch sách tôi cũng rất thận trọng. Vì lỡ mình truyền đi những điều mê tín cho Phật Tử thì không nên; do vậy vừa dịch ra tiếng Việt vừa kiểm lại xem thử ra sao và tôi xin kết luận rằng: Sác suất của độ chính tín hơn 80 phần trăm; 20 phần trăm còn lại dĩ nhiên là do cái nầy có; nên cái kia nó sinh ra thêm. Như vậy cũng không sai với nhân duyên trong giáo lý nhà Phật là mấy.

Dựa vào cơ sở nào để tôi nói rằng: Đây là quyển sách và những câu chuyện đa phần là chánh tín ? Xin thưa - Dựa vào văn hóa của người Nhật Bản và dựa vào Đức Tin của con người. Đứng về phương diện văn hóa mà nói thì kể từ thời Minh Trị Duy Tân (1868) tất cả mọi người dân Nhật đều phải trải qua chế độ „nghĩa vụ giáo dục“ có nghĩa là vào thời đó, bất cứ ai cũng phải học xong Tiểu Học. Sau hơn 100 năm, vào năm 1972 khi tôi có dịp sang Nhật Bản du học và vào lúc ấy thì mọi người dân Nhật đều phải tốt nghiệp Tú Tài 2; nghĩa là phải xong Trung Học đệ nhị cấp. Còn bây giờ vào thời điểm 2008 nầy gần 130 triệu dân Nhật hầu như không có người nào là không tốt nghiệp Đại Học. Như vậy là một nước Á Châu theo Phật Giáo có trình độ dân trí cao. Khi dân trí cao, dĩ nhiên y học cũng phải cao theo; nhưng tại sao từ năm 1976 đến năm 2008, gần 35 năm, và mỗi năm có khoảng một triệu người Nhật đến đây cầu nguyện chữa bệnh; trong đó hơn 70 phần trăm được lành bệnh, mà đa phần những bịnh như ung thư, trĩ, phong thấp, tê liệt v.v…mà Bác sĩ y khoa Nhật Bản đã chê, mà đến Ngài Địa Tạng cầu nguyện lại sống thêm được 5 đến 10 năm nữa và căn bệnh lại được trị lành hoàn toàn? Dĩ nhiên là không ai có thể sống đến 100 năm hay mấy trăm năm trên cuộc thế; nhưng đã có bịnh thì ai cũng mong muốn chữa cho khỏi; nếu bịnh không khỏi, ví như có một hòn đá cứ phải đeo mãi vào lưng thì khổ sở biết c hừng nào. Cách chữa bịnh của Ngài do con người cầu nguyện mà có; chứ không phải Ngài ra toa thuốc cho mọi người. Nếu có thì toa thuốc ấy chỉ là niềm tin và câu thần chú của Ngài là: Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ mà thôi.

Như vậy không có nghĩa là người Nhật Bản không mê tín; nhưng ở đây tôi chứng minh là  độ mê tín ít hơn với những người ít học. Vì ít ra văn hóa và y khoa hiện đại vẫn là nền móng căn bản cho sự chữa trị theo quan niệm thông thường. Đa phần khi người ta nghĩ đến niềm tin, người ta hay xoay qua thời kỳ Trung Cổ hay thời kỳ khoa học chưa tiến bộ mấy; nhưng Nhật Bản ngày nay là một trong những nước lớn trên thế giới, mạnh mẽ ở nhiều phương diện như kinh tế, khoa học, giáo dục, y khọc, giao thông v.v… nhưng Đức Tin ở đây vẫn vượt thắng trên tất cả. Riêng cá nhân tôi khi ở tuổi 59 vào năm ngoái (2007) mỗi ngày ngồi dịch sách, kinh 5 đến 6 tiếng đồng hồ và tối, sáng còn ngồi tụng kinh cũng như hành trang nữa; nên cái lưng khiến nó không tuân phục nữa. Nghĩa là mỗi ngày đều bị đau. Khi dịch những mẩu chuyện linh ứng nầy tôi phát nguyện rằng: „Nếu quả Ngài thật linh ứng thì xin cho con hết đau lưng sau khi con dịch xong sách nầy và con sẽ tổ chức một chuyến hành hương đến Nhật để đảnh lễ tham bái và tạ lễ Ngài“. Quả thật như vậy. Sau khi dịch xong vào tháng 6 năm 2008 cái lưng của tôi bớt đau độ 80 phần trăm. Do vậy tôi xúc tiến tổ chức một phái đoàn sang hành hương nước Nhật từ ngày 6 đến ngày 17 tháng 10 năm 2008. Chương trình dự trù đi Kanagawaken để thăm và dự lễ đặt đá xây dựng Chùa Việt Nam nơi Hòa Thượng Thích Minh Tuyền trụ trì, thăm Hachioji, chùa Honryuji nơi tôi đã có cơ duyên tá túc từ năm 1972 đến năm 1977, thăm Đại Học Teikyo, thăm tượng Phật Di Đà cao 120 mét tại Ushikyu gần Tokyo. Tiếp theo là thăm những chùa viện quanh vùng Yokohama và Tokyo. Đặc biệt phái đoàn 32 người đến từ Âu Châu và Mỹ Châu đã ghé thăm chùa Soojiji (Tổng Trì Tự) là Tổng Bổn Sơn của Thiền Tào Động Nhật Bản. Tiện thể tôi đã tặng dịch phẩm „Thiền Tào Động“ cho Ngài tác giả IZUMA là thiền chủ tại đây. Sau đó phái đoàn đi Kyoto để thăm chùa Tây Bổn Nguyện Tự, Thanh Thủy tự và đồng thời thăm chùa Tổ Tịnh Độ Từ Ân Viện nơi Ngài Pháp Nhiên khai sơn cũng như Ngài Thân Loan tu Tịnh Độ. Tại đây chúng tôi có tặng một quyển sách dịch về Tịnh Độ Tông Nhật Bản cho vị Sư trụ trì. Phái đoàn tiếp tục đi Osaka và địa phương cuối cùng là thành phố Fuchù ở Hiroishima. Fuchù là một thành phố nhỏ nằm trong tỉnh lỵ Hiroshima và Đức Địa Tạng không có đầu đang được tôn trí trên một ngọn đồi rất quang đãng. Ngày xưa nơi đây là đồng ruộng và bây giờ vẫn còn cảnh nông trang bao bọc chung quanh; nhưng khi leo lên dốc để vào đảnh lễ Ngài, lòng người con Phật đến đây từ xa hơn nửa vòng trái đất, thấy dường như có cái gì đó thật cảm động ở tận đáy lòng. Chúng tôi 32 người không ai bảo ai, cả Tăng lẫn tục đều y áo chỉnh tề để làm lễ và sau đó ai muốn cầu nguyện riêng cho mình và cho thân nhân thì cứ việc hành trì. Hôm đó là sáng ngày 15 tháng 10 năm 2008. Mỗi người thỉnh một hay nhiều chiếc khăn tay, trên đó có viết câu thần chú bằng tiếng Nhật là: „Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ và đem khăn nầy đến cọ sát vào mình đá của Ngài nhiều lần cũng như nói tên họ của người bịnh và đem về lại nhà. Khi nào người bịnh đau cái gì và đau nơi đâu thì để khăn ấy vào chỗ đau và tụng câu thần chú ấy, sẽ có hiệu nghiệm ngay.

Dĩ nhiên là sự cầu nguyện đối với trong phái đoàn cũng có hiệu nghiệm ngay. Bằng chứng là nhiều bà cụ đi đến đây bằng xe lăn và gậy chống; nhưng bây giờ khi leo lên dốc không cần xe lăn lẫn gậy chống nữa và mãi cho đến khi về lại Đức cũng chưa lần nào dùng đến gậy nữa. Quả là phép Phật nhiệm mầu là vậy. Trong đoàn cũng có nhiều Thầy Cô và quý Phật Tử đi tam bộ nhứt bái để đảnh lễ Ngài và cũng có nhiều người thấy được ánh hào quang của Ngài xuất hiện giữa ban ngày. Có người lấy nước suối uống; có người lấy bột nhang mang về lại Âu Châu, lỡ cơ nhỡ có ai bị bịnh phỏng hay bịnh khó trị, có khi còn dùng đến được nữa. Thực tế thì „mọi pháp đều do nhân duyên sanh và mọi pháp cũng đều do nhân duyên diệt“ cho nên sự đến, sự đi, sự còn, sự mất… tất cả cũng chỉ là một hiện tượng mà thôi. Ngay cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới lớn nhỏ nầy Đức Phật nói trong kinh Kim Cang cũng chỉ là một hợp tướng thôi. Đã là một hợp tướng, tức có khi tan rã. Lúc ấy là lúc không đủ duyên. Như vậy trên cuộc đời nầy đâu có cái gì miên viễn ngoài niềm tin đâu. Hãy tin sâu và nguyện thiết thì tất cả mọi nguyện ước sẽ thành tựu. Tiếng Đức có câu là: Alle Phänomen sind unbeständig hay Alle Phänomen sind unsicher. Nghĩa là „mọi hiện tượng đều không có thật tướng; mọi hiện tượng đều không chắc chắn“. Đã gọi là hiện tượng thì có gì đâu mà nắm chắc vào để cho khổ lụy tấm thân nầy. Vì căn bản của nó là giả. Phật hay Bồ Tát là đúng như các pháp vẫn thường hằng. Còn chúng ta cứ giong ruổi mãi trong 6 nẻo luân hồi chưa biết lúc nào ra; nếu không nhờ vào tha lực của Đức Phật A Di Đà hay sự cứu khổ độ mê của Ngài Địa Tạng hay Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thì chúng ta vẫn còn mãi chìm đắm nơi cảnh khổ của sanh tử luân hồi.

Tôi, anh, chị, em, con, cháu v.v... tất cả rồi cũng sẽ trôi qua đi. Vì chúng ta mỗi người đến đây cũng chỉ một thời gian ngắn để làm một số công việc, rồi đến ngày cũng phải theo Phật về Tây. Vậy khi còn sống chúng ta phải làm một cái gì đó cho thật có ý nghĩa, để khi ra đi chúng ta chẳng có ân hận gì. Vì thực tế của cuộc sống nầy nó cũng chỉ là một sự giả hợp mà thôi.

Mong rằng quý Đạo Hữu, Phật Tử khi đọc những câu chuyện linh ứng nầy hãy ghi nhớ vào lòng và nếu ai có nhân duyên hãy nên một lần đến đó để được đảnh lễ Ngài và mong Ngài cứu độ.

Kính nguyện
Viết xong lời tựa vào ngày 15 tháng 12 năm 2008
tại Tu Viện Đa Bảo – Úc Đại Lợi, nhân lần nhập
thất thứ 6.
Dịch giả: Sa Môn Thích Như Điển



pdf-icon
01. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 01_HT Thích Như Điển dịch Việt

Chuyển ngữ: HT Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh


T
ập 1 - Phần 1

  
Tập 1 - Phần 2


Tập 1 - Phần 3


Tập 1 - Phần 4


Tập 1 - Phần 5


Tập 1 - Phần 6



Tập 1 - Phần 7



Tập 1 - Phần 8



Tập 1 - Phần 9





Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 2
*
pdf-icon
02. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 02_HT Thích Như Điển dịch Việt


Tập 2 - Phần 1

 


Tập 2 - Phần 2

 

Tập 2 - Phần 3



Tập 2 - Phần 4


Tập 2 - Phần 5


Tập 2 - Phần 6



Tâp 2 - Phần 7



Tập 2 - Phần 8






Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 3
*

Tập 3 - Phần 1



Tập 3 - Phần 2



T
ập 3 - Phần 3



Tập 3 - Phần 4



Tập 3 - Phần 5




Tập 3 - Phần 6





 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4705)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43832)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4408)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4350)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4271)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6377)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4671)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4092)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25205)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24153)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]